PHẬT HỌC CHỈ NAM
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Tựa | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10 11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 10
RA ĐỜI, VÀO
ĐẠO
Càng ngày tôi càng trông tỏ hai nẻo đường,
mà nhân loại bắt buộc phải băng qua:
1. Nẻo đường hướng ngoại: để thích ứng với
hoàn cảnh.
2. Nẻo đường hướng nội: để tiến hóa; để
đắc Đạo, phối Thiên.
Nẻo đường 1, tôi gọi là Âm Lộ, vì càng
ngày nó càng tiến vào hôn trầm, ám muội.
Nẻo đường 2 là nẻo đường tiến vào tâm
linh, sẽ đưa đến giải thoát con người. Tôi gọi con đường này là Dương
Lộ, vì càng ngày nó càng tiến tới ánh sáng, tới quang minh.
Hai nẻo đường trên người Trung Hoa xưa đã
đề cập đến:
Nơi đầu quyển Kỳ Môn Độn Giáp, ta đọc
thấy: «Âm Dương thuận nghịch bất đồng đồ.»
陰 陽 順 逆 不 同 途
(Âm Dương xuôi ngược khác đường nhau).
Chương 33 Trung Dung viết:
«Thơ rằng:
Gấm mặc trong, ngoài phủ áo sa,
Là vì ngại gấm đầy hoa lòe loẹt.
Nên đạo quân tử ám nhiên, ẩn ước,
Sau dần dần mới sáng rực mãi lên.
Đạo tiểu nhân mới ngó ngỡ là đèn,
Nhưng càng ngày càng tối đen tối sẫm...»
Nẻo đường hướng ngoại suy cho cùng trớ
trêu thay lại là nẻo đường của các đạo giáo công truyền trên thế giới.
Phẩm chất của các đạo giáo công truyền, của các «NGOẠI ĐẠO» này là những
phẩm chất ngoại tại: Thượng thần ngoại tại, chân lý ngoại tại, luật lệ
ngoại tại, quyền uy ngoại tại, thưởng phạt ngoại tại, đền đài miếu mạo
ngoại tại, kinh sách ngoại tại, định luật nhân sinh toàn là những qui
ước ngoại tại. Những người đã bước chân vào con đường này dần dần bị cấm
suy, cấm nghĩ, cấm so sánh, càng ngày càng bị «viễn cách chỉ huy»
(remotely controlled), và dần dà trở thành những hình nộm trên sân khấu
đời... mang danh đi đạo, mà suốt đời chẳng biết thế nào là đạo.
Con người được đổ vào những khuôn sáo mà
xã hội đã tạo dựng nên. Những khuôn sáo này chính là chiếc giường cố
định của Procruste. Ai lùn, ai ngắn thì kéo cho xương khớp lìa tan, miễn
là phải vừa với khổ giường; ai dài, ai lớn, thì chặt bớt đi cho ngắn
lại. Đi vào con đường này, chỉ thấy toàn là kỷ luật, còn tự do, hạnh
phúc chỉ là những danh từ hão, hữu danh vô thực.
Những đạo giáo công truyền này hết sức
khác biệt nhau, nhưng đều được giảng dạy cho con người từ lúc ấu thơ, từ
khi còn ấu trĩ. Chính vì đối tượng của chúng là con người ấu trĩ
nên dĩ nhiên chúng cũng phải ấu trĩ.
Suy kỳ cùng, chúng cũng có ích cho nhân
loại, vì chúng đóng góp nhiều vào công cuộc giữ gìn an ninh trật tự xã
hội, giúp con người đối xử hẳn hoi với con người, giúp con người ăn ngay
ở lành, ít là trên hình thức bên ngoài, và theo tầm nhìn lối nghĩ của
các giáo hội.
Theo đạo giáo công truyền cũng là một cách
thích ứng với ngoại cảnh, và cũng thỏa mãn phần nào niềm khao khát siêu
nhiên của con người.
Con đường thứ hai, là con đường hướng nội,
là con đường giải thoát thực sự, mà Ấn Độ xưa đã dùng những tiếng như là
Yoga, Moksa, Kriya Yoga, mà ngày nay người ta dùng những tiếng như là
Self– realization, hay God– realization (thực hiện tự tánh,
thực hiện thiên chúa) v. v...
Phẩm chất của đạo giáo mật truyền này –
một Nội Giáo duy nhất của nhân quần – là phẩm chất nội tại: Thượng thần
nội tại, chân lý nội tại, luật lệ nội tại, quyền uy nội tại, thưởng phạt
nội tại, kinh sách nội tại, đền đài miếu mạo nội tại: Thượng thần chính
là Căn Nguyên con người, Nguồn sinh con người; kinh sách, lề luật chính
lương tâm con người; tất cả đều là thiên nhiên, vĩnh cửu. Đền đài chính
là thân tâm con người. Con người được khuyến khích suy tư, khuyến khích
tìm cầu, khuyến khích thoát khỏi những gì tù túng, trói buộc thân phận
con người. Nó có mục đích giúp con người vươn vượt lên trên thân phận
con người, trở thành thần minh, ngay từ khi còn ở gian trần này, hưởng
hạnh phúc tâm linh ngay từ khi còn ở gian trần này: Thực vậy, muốn biết
mình chứng đạo hay không chỉ cần kiểm điểm xem mình có được hạnh phúc
thực sự hay không, quang minh chính đại hay không, tiêu sái hay không,
hồn nhiên hay không.
Vì nó không đòi hỏi con người phải sống cố
định theo những khuôn khổ gian trần nào, mà chỉ đòi hỏi phát huy những
khả năng vô biên vô tận sẵn có nơi mình, thực hiện tinh hoa còn tiềm ẩn
nơi mình, nên con người càng ngày càng cảm thấy mình có thể triển dương,
tiến hóa vô biên tận.
Loại đạo giáo này dành cho những tao nhân,
mặc khách, những tâm hồn cao siêu, khoáng đạt. Con người thường chỉ tìm
ra được Nội Giáo này lúc đầu đã hoa râm, lúc tuổi đã khoảng 40, và
thường là có may mắn gặp được chân sư chỉ dạy.
Những đạo giáo công truyền ngày nay có rất
nhiều. Nguyên Thiên Chúa Giáo cũng có vô số giáo phái.
Ngoài ra chúng ta còn có Phật giáo, Ấn
Giáo, Bà La Môn giáo, Hồi giáo.
Mới nhìn, ta thấy chúng hết sức khác nhau.
Nhưng suy nghĩ thêm một chút, ta thấy chúng rất là giống nhau.
1. Trước hết chúng là đạo giáo của đại đa
số quần chúng. Đạo nào cũng hãnh diện vì có hàng triệu triệu tín đồ.
2. Đạo nào cũng có đền đài miếu mạo.
3. Đạo nào cũng có một vị Thượng thần, hay
nhiều vị thần; nhiều vị Phật, hay nhiều vị thánh để ca tụng, tôn thờ,
hương hoa cúng quải.
3. Đạo nào cũng có những nghi lễ để hành,
những kinh để đọc, những bài ca để hát, cũng xì xụp van vái.
4. Đạo nào cũng đòi hỏi sự đóng góp của
giáo dân: xem lễ, dự lễ, cầu kinh chung, góp công, góp của.
5. Đạo nào cũng thường có những lễ nghi
đặc biệt để đánh dấu các thời điểm quan trọng của cuộc đời như: tử,
sinh, quan, hôn, tang, tế v.v...
6. Đạo nào cũng tạo ra những thiên đường
riêng, những địa ngục riêng, và cũng có những vị thánh thần, hay những
yêu ma, quỉ quái, đầy nhóc trong đó. ở thiên đừờng thì ca hát, ở địa
ngục thì khóc than. Cả ở hai nơi, cuộc sống đều vô vị, vô ý nghĩa như
nhau.
7. Đạo nào chung qui cũng cốt là để thờ
TRỜI, thờ ALLAH, thờ PHẬT.
Tất cả những đạo giáo trên đều có giáo
trình, giáo sử, và theo đà thời gian cũng có thăng trầm, và rồi ra cũng
có thể có sinh, có diệt.
Có điều lạ là đạo nào cũng cho mình là
Chân đạo, còn đạo khác là tà đạo, là ngoại đạo, mặc đầu chính bản chất
của mình vốn là tà đạo, là ngoại đạo: tà đạo vì không nhìn ra được chân
bản thể của con người, chân bản thể của vũ trụ, chân giá trị của con
người, mục đích chân chính của cuộc tiến hóa quần sinh; ngoại đạo, vì
chỉ biết những lễ nghi hình thức hời hợt bên ngoài, chạy theo những gì
phù phiếm, phiến diện bên ngoài, mà ù cạc về những điều trọng yếu, những
lý sự tiềm ẩn bên trong vũ trụ và con người.
Từ năm tôi
36 tuổi, tôi bắt đầu tìm ra được con đường nội giáo:
– Tôi cảm nghiệm một cách mãnh liệt rằng
con người có Thiên tính.
– Tôi xác tín rằng con người phải đi vào
tâm mà tìm Đạo. tìm Trời.
– Con người có giá trị vô biên và có những
khả năng vô biên, vô tận, cần được khai thác.
– Con người vì có hai phương diện nội
ngoại, hằng biến, nên có nhiều loại bổn phận:
a. Thích ứng với ngoại cảnh, khai thác
ngoại cảnh, để sống một cuộc đời vật chất sung sướng, khỏe mạnh, thoải
mái.
b. Ăn ở cho xứng đáng với danh nghĩa con
người, có một đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia, quốc tế hẳn
hoi trật tự trong một bàu không khí, tương ái, tương kính, tương thân,
tương trợ.
c. Vươn vượt lên trên thân phận con người,
thoát vòng kiềm tỏa của không gian thời gian, của biến thiên, ảo hóa, để
sống một cuộc đời thần linh, siêu tuyệt.
Đại Đạo Tâm Linh này chỉ có một mục đích
duy nhất là THÀNH PHẬT, THÀNH TRỜI, THÀNH THẦN, chứ không chủ trương LẠY
TRỜI, LẠY PHẬT, LÀM TÔI TỚ CHO TRỜI, CHO PHẬT.
Nó không có lễ nghi, hình thức, nó không
chủ trương xì xụp van vái, mà chỉ có chủ trương sống với mọi người, với
quần sinh vũ trụ, thế nào cho hay, cho phải, chỉ chủ trương tương kính,
tương ái, tương thân, và hợp sức cùng nhau cải thiện ngoại cảnh, tổ chức
gia đình xã hội, quốc gia cho ngày một thêm hoàn mỹ. Chưa thực hiện được
một cuộc sống cá nhân và cộng đồng lý tưởng, chưa lơi công trình...
Nó chỉ có một mục đích duy nhất là giúp
con người tìm cho ra cái bản chất thần linh siêu tuyệt nơi mình. Chúng
ta muốn gọi cái Bản thể thần linh ấy là gì cũng được: Là Tuyệt đối, là
Chúa, là Allah, là Oum, là Brahman, là Atman, là Chân Như, là Đạo, là
Nhất, là Hư, là Vô, hay là Không. Danh hiệu không cần, nhưng đừng bao
giờ quên nó, xa lìa nó, chối bỏ nó...
Cũng nên nhận chân rằng con đường đi vào
nội tâm mà tìm Đạo, tìm Trời là một con đường có thực, nhưng rất ít
người tìm ra.
Không tìm ra được, vì nhiều lý do:
1. Con người đã bị thôi miên, bị nhồi sọ
từ tấm bé bằng cái đạo công truyền sẵn có ở xã hội bên ngoài.
2. Lười biếng không chịu tìm cầu. Sống phù
phiếm, không biết trầm tư mặc tưởng.
3. Không có căn cơ, hay chưa có cơ duyên.
4. Cho rằng đi vào tâm để tìm Đạo, tìm
Trời là điều không tưởng.
5. Cái đạo cao siêu này thường chỉ truyền
thụ cho những người thực tâm tha thiết tìm cầu, chứ không vơ bèo, gạt
tép, truyền dạy ẩu tả.
Huyền thoại Ấn Độ có ghi: Xưa kia mọi
người đều là thần minh. Nhưng vì ăn ở bất xứng, lạm dụng danh tước đó,
nên Tối Thượng Thần Brahman nhất định cất bản chất thần minh ra khỏi con
người. Nhưng đem bản chất thần linh đó ra rồi, sẽ đem dấu cất nơi đâu.
Chúng thần bàn tới, bàn lui, đề nghị dấu trên đỉnh non cao, hay chôn
trong lòng đất, hay thả chìm đáy biển. Thượng Thần Brahma nói dẫu dấu
chỗ nào bên ngoài con người cũng đều không ổn, vì một ngày nào đó, con
người sẽ tìm lại được, chi bằng đem dấu vào một chỗ kín đáo nhất mà
không bao giờ con người có thể nghĩ tới mà đi tìm, đó là dấu ngay ở
chính giữa lòng sâu tâm hồn con người...
Mặc dầu các vị giáo chủ đã cố giảng dạy
rằng Chúa, rằng Trời, rằng Nước Trời ở ngay trong ta, nhưng chẳng có ai
tin. Chẳng những thế lại cho rằng tin như vậy là lầm lẫn lớn. Thật đáng
buồn thay!
Từ đây sắp xuống tôi sẽ bàn về mục đích
cuộc đời, về cái nhìn siêu tuyệt của những bậc thượng trí thượng nhân từ
cổ chí kim, không phân biệt đông tây, về Nội Giáo mật truyền của thiên
hạ.
Thực ra, từ trước đến nay, dù nói xa, nói
gần, tôi vẫn thường đề cập đến cái Đại Đạo tâm truyền ấy, khi thì tôi
gọi đó là Đại Đạo, khi thì tôi gọi đó là Tinh Hoa các tôn giáo, khi thì
tôi gọi là đạo Huyền Đồng. Cái Đạo này thực ra nó đã tiềm ẩn sẵn trong
lòng mọi người, tôi chỉ muốn khơi động nó lên, chứ thực ra nó đã có từ
muôn thủa.
Cái Đại Đạo này bắt đầu có từ khi mà Bản
Thể vô biên tế của vũ trụ này bắt đầu phóng phát, tán phân, bắt đầu hình
hiện thành quần sinh vũ trụ.
Khi đã phóng phát, tán phân thành quần
sinh vũ trụ này rồi, thì Đại thể vô biên, linh minh huyền diệu ấy lại
tiềm ẩn sẵn trong lòng sâu của vũ trụ, quần sinh và của con người.
Như vậy vũ trụ, quần sinh, và con ngưười
có hai bình diện:
– Một là bình diện Bản thể, duy nhất bất
khả phân, thường hằng vĩnh cửu, siêu việt, tuyệt đối. Tùy cung cách
trình bày, cảm nghĩ của các bậc thánh hiền, mà Bản Thể đấy mang nhiều
danh hiệu: Hư, Vô, Vô Cực, Thái Cực, Chân Tâm, Chân Như, Thượng đế,
Allah, Trời, Jehovah, Elohim, Adonai, Ahura Madza, Brhaman, Atman, Niết
Bàn, Nước Trời v.v...Đó cũng là Cõi Thiêng, siêu sinh tử, siêu không
gian, thời gian...
– Hai là bình diện Hiện Tượng, hình tướng
biến thiên, đa tạp, lệ thuộc vào vòng hình danh, sắc tướng, không gian,
thời gian, vòng duyên nghiệp, sinh tử, luân hồi, có danh mà không có
thực, phù du, hư ảo, như những áng mây bồng bềnh trên khung trời thẳm,
hay như những bọt bèo biến hiện trên mặt trùng dương vô biên, vô tận.
Đây là thế giới của cá nhân, cá tính, của những gì vô minh, của những gì
hư ảo. Đây là «Nước thế gian», theo danh từ Tân ước; hay Cõi Tục, hay
hồng trần tục lụy, bể khổ bến mê, nói theo kiểu Á Đông.
Khi đã nhìn tỏ được hai phương diện này,
tự nhiên một câu hỏi được nêu lên: Giữa cái Khổ và cái Lạc, cái Biến và
cái Hằng, cái Giả và cái Chân nói trên, ta sẽ chọn cái gì?
Dĩ nhiên là ta phải chọn cái gì là Thường
Hằng, vĩnh cửu, cái gì là Chân thực, cái gì là Quang Minh Chính Đại, cái
gì là Lý tưởng.
Tất cả những phương tiện dẫn từ Phù Sinh,
đến Trường sinh, từ Hiện Tượng tới Bản Thể, đó gọi là Đại Đạo, vì nó là
con đường duy nhất, mà nhân loại bắt buộc phải băng qua để tiến tới
trường sinh vĩnh cửu.
Các đạo sư Ấn Độ là những người có công đi
tiên phong trong công cuộc tìm Đạo, tìm Trời nói trên. Bộ Veda, bộ
Upanishads, bộ Bhagavad Gita là những bộ kinh cổ xưa đã cho ta rất nhiều
chi tiết về con đường thành chân, chứng thánh đó. Ấn Độ, ngay cả bây giờ
vẫn còn có những đạo sư, những kỳ nhân đóng vai hướng đạo thế giới trên
con đường tâm linh...Nói thế không có ý nói rằng chỉ có Ấn Độ giáo mới
có nhiều vị thánh hiền. Nếu chúng ta chịu tìm cầu, thì đâu đâu cũng gặp
những bậc siêu nhân như trên. Đọc Đạo Tạng của Lão Giáo, khảo các Mật
Tông ÂSu Châu như Kabala, Free-Masonry, Rosicrucianism, Theosophy,
Gnosticism, Neo-Platonism, Transcendentalism, ta thấy tràn đầy những tư
tưởng đó...
Chúng ta sẽ chứng minh điều đó sau đây.
Khi một con người tiến từ Phù Sinh lên tới
Trường Sinh, từ Hiện Tượng vào tới Bản Thể, thì sự kiện ấy được mệnh
danh là:
– Giải thoát.
– Nhập Niết Bàn.
– Phối Thiên.
– Đắc Đạo.
– Trở thành Atman-Brahman.
– Thực hiện Thượng đế (God-realization).
– Thực hiện Tự Tính; thực hiện Đại Ngã
(Self-Realization).
Cuộc tiến hóa này, mỗi một người đều phải
thực hiện lấy. Một kiếp chưa xong, thì tiếp tục tiến hóa trong nhiều
kiếp. Các vị Giáo Chủ xưa nay chỉ là những vị tiên phong, những bậc dẫn
đạo, chứ chẳng ai cứu rỗi nổi ai...
Vũ trụ này đều được chi phối bằng những
định luật vĩnh cửu.
Như vậy, mục đích công cuộc tu trì là:
– Tìm cho ra những định luật vĩnh cửu của
đất trời để mà theo mà giữ. Ta có thể gọi đó là GIỚI, GIỚI LUẬT, hay LỄ,
hay Ý CHÚA.
– Tìm ra con đường, tìm ra cách để thoát
vòng không gian, thời gian, thoát vòng biến thiên. Con đường đó, Bà La
Môn gọi là Kriya Yoga (Con đường thực hiện Thượng đế), là Yoga mà ta
thường gọi là Thiền, là Thiền Định.
– Thiền là tham thiền là mài miệt suy tư
về Bản thể siêu tuyệt, về Thiên Tính, Phật tính của mình, để luôn cảm
thấy mình chẳng hề rời xa Đạo, xa Trời.
Định là thu thần định trí, là thu nhiếp
tâm linh về một điểm. Đó là Chân Tâm, đó là Điểm Khởi Nguyên đã tung tỏa
ra thành vũ trụ, và con người, và đó cũng là Điểm Hội Tụ của mọi biến
hóa, và là Cùng Đích của vòng Càn Khôn sinh hóa của muôn loài.
Thiền định để phát ra đại trí, đại huệ.
– Phát ra Đại Trí, Đại Huệ để nhìn tỏ Căn
Nguyên và Cùng Đích của Vũ Trụ, Quần Sinh và của Con Người.
Mục đích tối hậu của Giới Định Huệ là thể
nhập với Bản Thể của vũ trụ.
Như vậy, tôi đã giải nghĩa lại ba chữ
GIỚI, ĐỊNH, TUỆ của Phật giáo, cũng như của Bà La Môn, và của Thánh Hiền
Đông Tây, kim cổ.
Nhưng Yoga, hay Thiền, hay Đơn Đạo, thực
ra có những mục tiêu hết sức đa tạp:
– Mục tiêu tối hậu của nó là giúp con
người sống phối hợp với Đạo, với Trời. Nhưng nó cũng có những mục đích
gần gũi hơn, nhãn tiền hơn, chẳng hạn như là:
a. Giữ gìn sức khỏe bằng cách:
– Ở nơi trong sạch.
– Ăn uống thanh đạm.
– Động công (physical exercises: tập thể
dục) (nhất là phía Lão giáo).
– Án Ma (Massage) (Lão giáo)
– Yết tân (Nuốt nước bọt) (Lão)
– Khí công: (Điều hòa hơi thở).
– Hoặc điều hòa «phàm tức» (thở điều hòa
bằng phổi).
– Hoặc vận «chân tức» (vận chân khí qua
hai mạch Nhâm, Đốc).
– Hoặc «đình tức» (ngưng thần tụ khí nơi
não thất 3, tức Nê Hoàn Cung).
b. Luyện trí bằng cách:
– Điều chế tư lự.
– Mài miệt suy tư về một vấn đề gì nhất là
để tìm cho ra Chân Bản Thể, thân thế và định mệnh con người.
c. Luyện tâm, bằng cách:
– Chế ngự thất tình, lục dục.
d. Luyện thần bằng cách:
– Tập trung thần trí.
– Đại định, nhập vào Đại Thể vũ trụ.
Tóm lại người thường sống trong loạn lạc,
hỗn tạp.
– Hành động hỗn loạn, thân thể bất an.
– Loạn tư, loạn lự: Suy tư hỗn loạn.
– Tình cảm hỗn loạn: hốt hỉ, hốt nộ, yêu
cuồng sống vội, phóng túng vô độ.
Các Yogi, các đạo sư thời sống an bình,
trật tự, tĩnh lãng.
– An tọa.
– Điều tức.
– Tâm bình, khí hòa, điềm đạm, hư vô.
– Hư tâm, vô niệm.
Đi sâu vào đời sống các đạo sĩ, ta còn
thấy một hiện tượng lạ lùng sau:
1. Mới đầu, họ thở bằng mũi, bằng phổi,
thở điều hòa. Phương pháp thở này gọi là «phàm tức» (lối thở của kẻ phàm
phu).
2. Vận Chân Khí qua hai mạch Nhâm, Đốc.
Lúc này thì hơi thở qua phổi giảm đi, và có thể đình lại. Cả Yoga Ấn Độ,
cả Lão giáo đều đề cập đến các phương pháp này. Huỳnh Nguyên Kiết
黃 元 吉
có câu: «Phàm tức đình, nhi chân tức hiện»
凡 息 停 而 眞 息 現
: Phàm tức (lối thở bằng mũi) có ngưng,
thì chân tức (lối thở bằng xương sống) mới hiện.
3. Cuối cùng là «đình tức»
停 息 (ngừng thở bằng phổi, ngừng
vận động chân khí), sau khi đã vận được Thần, Khí tụ về Nê Hoàn cung.
Người xưa gọi thế là đại định, là thai tức (cách thở của
thai nhi khi còn trong bào thai).
Nhập đại định đối với người xưa tức là:
– Nhập vào Đại Thể của vũ trụ.
– Trở về với Chân Nhất.
– Thoát vòng hiện tượng biến thiên.
– Thoát vòng không gian thời gian.
– Siêu nhân, hợp Thiên.
– Phối Thiên.
– Đắc Đạo.
– Nhập Niết Bàn.
– Giải Thoát.
– Trở thành Chân Nhân.
Vì trọng tâm của Đại Đạo nói trên là trở
thành con người toàn diện, là tìm cho ra những định luật đất trời mà
theo, mà giữ; tìm cho ra những môi trường thuận tiện mà sinh sống, cho
nên người theo đại đạo:
– Tìm những nơi có không khí trong lành mà
sinh sống.
– Những nước bình trị mà cư trú.
– ăn uống thanh cảnh, giữ gìn sức khỏe.
– Sống điều độ, mực thước, không làm gì
quá mức, quá lạm.
– Giữ cho óc chất quang minh.
– Giữ cho tâm hồn tĩnh lãng.
– Giữ cho tinh thần thanh sảng.
Họ thích những nơi tịch mịch, như những
lùm cây, những núi non hưu quạnh, hay những phòng ốc thang vắng, vì ở
những nơi đó, tâm thần họ đỡ bị tản lạc, và sự hòa đồng với Trời, với
Đạo dễ dàng hơn. Cũng có người chủ trương rằng có những linh địa, thánh
địa như Thiên Thai, Nga Mi (Tàu), Tarakeswar (Ấn Độ), hay Hi Mã Lạp Sơn
có thể phả ra những làn sóng điện giúp con người trở nên thanh sảng, dễ
xuất thần.
Họ muốn sống lại bằng thân ánh sáng của
Bản Thể, nên cố gắng rũ bỏ cái thân «từ điện» của hiện tượng. Thân «từ
điện» là thân có yêu có ghét, có chấp, có cầu. Nên muốn rũ bỏ được thân
«từ lực», phải hoạt động trong vô chấp, vô cầu, phải sống vượt lên trên
yêu ghét thường tình. Thân «từ lực» chính là vọng tâm, vọng ngã, luôn
luôn sống trong vòng nhân duyên, duyên nghiệp, luân hồi. Người xưa, khi
viết các chữ DUYÊN 緣,
chữ TRIỀN 纏,
chữ PHƯỢC 縛,
đều có bộ TI 糸
là Tơ một bên. Tơ đây thực ra không phải là tơ tằm mà là tơ
duyên từ điện, phát ra những từ trường, từ lực, từ tuyến. Những
từ tuyến, từ lực, từ trường nói trên chính là những sợi dây kiên cố giam
hãm tâm linh chúng ta. Rũ bỏ VỌNG TÂM, VỌNG NGÃ chính thoát khỏi từ
trường của nhân quần.
Đứng về một phương diện khác, họ cũng cố
tìm cách thoát vòng không gian, thời gian:
Muốn thoát vòng không gian thời gian, phải
thoát khỏi những gì biến thiên, sinh tử.
Muốn vậy:
1. Phải sống vượt trên ngoại cảnh, bằng
cách đóng khóa ngũ quan, để thoát ảnh hưởng của hình danh, sắc tướng,
của ngoại cảnh, cũng như của ngũ quan.
2. Phải dừng những suy tư về những công
truyện gian trần, thường hay có tính cách làm cho loạn trí. Thế là sống
Vô Niệm.
3. Giữ cho tâm tư tĩnh lãng, hồn nhiên,
không cho thất tình, lục dục tung hoành, thao túng.
4. Tập trung thần khí vào Nê Hoàn Cung.
Người xưa gọi thế là Tam Hoa Qui Đỉnh, Ngũ Khí Triều Nguyên hay Nhập Đại
Định.
Bốn phương cách này cũng na ná như bốn
trạng thái Thiền mà Phật giáo đề cập.
Mục đích của Yoga là tìm cho ra Thượng đế
nội tại.
Mircea Eliade gọi các các thiền sư xưa nay
là «cái điểm hình học» (the geometrical point), để Trời người gặp gỡ,
hòa hàì với nhau.
Chữ «điểm hình học» trên làm tôi liên
tưởng đến công trình suy khảo của tôi để tìm cho ra chỗ TRỜI NGƯỜI HOÀ
HÀI (THIÊN NHÂN HỢP NHẤT) nơi con người. Lạ lùng thay trong đầu có một
cung mà đạo Lão gọi là Động Phòng, Âu Châu gọi là Thalamus, mà Thalamus
cũng có nghĩa là Động Phòng. Nhưng vì Thalamus là cái gì có thể thấy
được, nên tôi lại đi tìm sâu hơn, và tôi đã tìm thấy rằng nơi chính
trung đầu não con người có những động trống (ventricles), Đạo Lão gọi
động chính giữa là Thiên Cốc hay Nê Hoàn Cung. Lão giáo cho rằng nơi ấy
là nơi Thần trời đất ngự trị,
Bà La Môn gọi đó là
Liên Hoa Tâm (Sahasrara), hay Thiên Môn (Brahma-randhra Brahmagate).
Mircea Eliade còn cho rằng; nếu nhìn bảy luân xa của con người, từ trên
xuống dưới, thì thấy chúng họp lại thành một Mandala duy nhất, mà Tâm
Điểm chính là Brahmarandhra.
Thiết tưởng không còn cách nào xác định Tâm Điểm của đầu não con người,
tâm điểm tâm linh, tâm điểm vũ trụ chính xác hơn được nữa.
Cao Đài cũng gọi đó là Nê Hoàn Cung, Huyền
Tẫn Môn, hay Thiên Môn.
Tuy nhiên cái «Tâm điểm» trong đầu não con
người ấy không phải là ai cũng tìm được ra. Ngày nay, vô số người tu trì
vẫn còn đặt trọng tâm vào Hạ Đơn Điền nơi dưới rốn.
Thời Trung cổ, bên Âu Châu có «môn phái tu
nhìn rốn» (Hesychasm). Họ chuyên tu nhìn rốn, trong khi kêu tên Chúa
Jesus Christ, và họ cho rằng sau nhiều ngày đêm tu trì khổ hạnh như vậy,
họ sẽ tìm ra «tâm sở» (the place of the heart), nơi chứa đựng mọi điều
huyền diệu.
Trên đây tôi đã chứng minh:
– Đạo giáo nội tại có đường hướng hẳn hoi:
Đó là hướng nội.
Chủ trương, đường lối, sự diễn biến của nó
đều theo những định luật bất biến của trời đất, và luôn luôn được cảm
nghiệm nơi mình. Tu đúng đường thì xác thân sẽ cường tráng, con người sẽ
yên vui sung sướng, óc chất sẽ quang minh, tâm tư sẽ hòa hoãn, sảng
khoái, lạc quan, tràn đầy nhựa sống.
– Đạo giáo nội tại vì là con đường của các
vị hiền thánh đã băng qua, vì đã được chi phối bởi những định luật vĩnh
cửu, nên khi hiểu rành rẽ về đại giáo nội tại này ta hiểu được tâm tư
các vị giáo chủ, cách tu trì của quí vị cũng như lối sống thường nhật
của các ngài. Có thể nói được rằng chúng ta đã được «tha tâm thông». Lát
nữa chúng ta sẽ áp dụng những hiểu biết của chúng ta để soi rọi vào đời
sống của ít nhiều vị giáo chủ.
– Đạo giáo nội tại có mục đích đưa con
người đến chỗ phối thiên, thành Trời, thành Phật, thành Thần, nên bao
giờ cũng chỉ có ít người theo nổi.
– Nó đòi hỏi con người phải thành khẩn tìm
cầu, ao ước vươn vượt, không cố chấp, không câu nệ, trọng kính chính
mình, tin tưởng vào giá trị vô biên của mình, vào định mệnh sang cả của
mình, tin thật rằng mình chẳng hề bao giờ lìa xa khỏi Hóa Công.
Đọc lịch sử Đức Phật ta thấy ngài đã thụ
giáo với đại sư Arada Kalama về học thuyết tiền– Samkya (đại khái là
phép nội quan quán chiếu, na ná như Phân Tâm Học ngày nay) tại Vaisali,
và với đại sư Udraka Ramaputra về căn bản và mục đích của Yoga.
Chúng ta cũng đã thấy rằng chính nhờ thiền
định trong 49 ngày dưới gốc Bồ Đề mà Ngài đã giác ngộ.
Trong quyển Đức Phật và Phật Pháp, của
Narada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch, nơi Chương 13, khi thuật lại đời
sống hằng ngày của Đức Phật, tác giả ghi: «Đời sống bên trong là tham
thiền nhập định và chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn còn bên ngoài là phục
vụ vị tha, và nâng đỡ phẩm hạnh của chúng sinh trong khắp thế gian.»
(Sách trích dẫn, tr, 233).
Nếu Ngài chủ trương Niết Bàn đã sẵn có
trong tâm linh con người, thì rõ ràng là ngài dẫn chúng ta vào Nội Giáo.
Chúa Giê Su với chủ trương: Nứơc trời ở
trong anh em (Luke 17, 21), và khi đọc kinh chớ ra ngã ba đầu chợ, mà
hãy vào buồng đóng cửa lại (Mat.6,6) hay không còn thờ Chúa ở núi này,
hay ở Jerusalem, nhưng vì Chúa là Thần, nên phải thờ Ngài bằng thần
(John, 4:22–24; thánh Paul khi dạy rằng Thần Chúa ở trong ta, ta là đền
thờ Chúa (1 Cor.6, 19–20) rõ ràng là dạy chúng ta nội giáo: Tìm Chúa Đáy
Lòng...
Đạo Lão với những chủ trương: «Thiên tại
nội, nhân tại ngoại»
天 在 內 人 在 外
hoặc: «Ngoại du giả
cầu bị ư vật, nội quan giả, thủ túc ư thân»
外游者求備於物
內觀者取足於身
(Đi ra bên ngoài, là cầu cạnh vào ngoại vật mới mong thành toàn; nội
quan quán chiếu là thấy trong tâm có đầy đủ tất cả)
Trong Nam Hoa Kinh, ta thường thấy đề cập
đến trạng thái «xuất thần, nhập định», mà tác giả gọi là Táng Ngã
喪 我
(Sách trích dẫn, Chương 2, Tề vật luận,
đoạn 1.)
Như vậy mục đích đạo Lão cũng cốt là chỉ
vẽ cho ta nội giáo chân truyền.
Nho giáo với chủ trương:
«Cả vạn vật ở trong ta đó,
Quay vào ta, ta cố tinh thành.
Kiện toàn, hoàn thiện tinh anh,
Vui nào hơn đươc vui mình đang vui.»
của Mạnh Tử; và:
«Quay vào ta mà tìm đạo ấy,
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai,
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung.»
của Trung Dung, rõ ràng là chủ trương nội
giáo.
Có điều lạ là theo đà thời gian tất cả các
đạo giáo lớn đều biến từ nội giáo chân truyền thành ngoại giáo công
truyền, vì thấy rằng có làm như vậy mới có người theo!
Mới đầu tôi cứ tưởng rằng Nội Giáo Tâm
Truyền là của Á Đông, nhưng càng ngày tôi càng thấy rằng từ cổ xưa không
biết bao nhiêu là môn phái Âu Châu, và ngày nay cũng có rất nhiều giáo
phái Âu Mỹ chủ trương nội giáo:
Dưới đây tôi xin đan cử một số giáo phái,
triết phái, mật tông, mật giáo chủ trương NỘI GIÁO:
– Neo-Platonism (Tân Bá Lạp Đồ).
– Gnosticism (Giác Ngộ).
– Kabala (Mật tông, huyền học Do Thái).
– Free-Masonry (Tam Điểm).
– Theosophy (Thông Thiên Học).
– Rosicrucianism (Hồng Hoa Hội).
– Sufism (Bạch Y Phái của Hồi Giáo).
– Alchemy (Luyện đan phái – Nội đan phái).
– Trancendentalism (Siêu việt phái).
– Modern Gnosticism (Tân Giác Ngộ phái).
– The Ramakrishna Mission and Vedanta
Societies.
– The Self– Realization Fellowship.
– The Maharishi Mahesh Yogi's
Transcendental Meditation.
– International Sivananda Yoga Society.
– The International Society for Krishna
Consciousness v.v...
Tôi không thể đi vào chi tiết các giáo
phái này, nhưng đại khái họ cũng có những nét chính yếu mà tôi đã phác
họa về Nội Giáo.
Tôi chỉ xin giới thiệu hai cuốn sách trong
nhiều cuốn sách nói về các giáo phái trên:
1. Religious and Spiritual Groups in
Modern America của Robert’s Ellwood, Jr., Prentice Hall Inc., Englewood
Cliff, New Jersey, 1973.
2. The Kingdom of The Cults của Walter R.
Martin, Bethany House Publishers, Minneapolis. Minnesota 55438, 1982.
Mục đích tôi viết bài này, cốt là để chứng
minh rằng con đường nội tâm chính là con đường chắc nhất, gần nhất để về
với Đạo với Trời.
Chỉ có Nội giáo này mới đem lại giá trị
siêu việt lại cho con người, giải thoát thực sự con người, đem lại hạnh
phúc thực sự cho con người, và đồng thời cũng cho thấy sự thông minh
siêu tuyệt sự sắp đặt siêu tuyệt của Trời, là đã dựng nên con người với
những khả năng vô biên vô tận, đã chia sẻ cho con người chính Bản Thể
mình, và đã cho con người thời gian vô tận, không gian vô tận, và những
nguồn năng lực vô tận của vũ trụ để thực hiện sứ mạng sang cả của mình
là biến trần ai tụy lụy thành thiên đường, biến con người ngày nay thành
những con Trời, những Phật Tiên mai hậu. Thật là cao siêu vô cùng, đẹp
đẽ vô cùng.
CHÚ THÍCH
Trong cuốn Yoga,
Immortality and Freedom của Mircea Eliade, Bolinger Series,
Princeton, 1958, ta còn thấy những tiếng đồng nghĩa sau đây:
- Transcending the human condition,
p. 4.
- Rebirth to a non-conditioned mode
of being, p. 4.
- The true union of the human soul
with God, p. 5.
- Moksa, Nirvana, Asamskrta..., p.
6.
- Absorbed (or reabsorbed) into the
primordial substance, p. 9, 93.
- Final withdrawal from the
phenomenal world, p. 96.
- Reintegration of the different
modalities of the real in a single modality
- The undifferentiated completeness
of precreation, the primordial Unity, p. 98.
- The divinization of man, p. 103.
- Return to the primordial unity, p.
109.
- Union of the soul with the Cosmic
Soul, p. 141.
- Attain the unconditioned, p. 179.
- Emergence from time, p. 182.
- Entrance into the unconditioned,
p. 182.
- Withdraw to the center of oneself,
p. 193.
- Return to the Primordial Unity,
pp. 45-46.
- Transcend the phenomenal world and
pass into that non-conditioned and timeless state, p. 271.
- Transcend the opposites, p. 271.
- Coincidence of time and eternity,
p. 271.
- Reconquest of the completeness
that precedes all creation, p. 271.
- Regression to the undiscriminated
state of the original Totality, p. 270.
- Coincidentia oppositorum, p. 272.
a.To purify the mind
and the sensibility from «temptations» – that is, to isolate them from
external agents; in short, to obtain a first autonomy of consciousness;
b. to suppress the dialectical
functions of the mind, obtain concentration, perfect mastery of a
rarefied consciousness;
c. to suspend all «relations» both
with the sensible world and with memory, to obtain a placid lucidity
without any other content than «consciousness of existing»;
d. To reintegrate the «opposites,»
obtain the bliss of «pure consciousness.»
Yoga through which
divinity is found within, is doubtless the highest road.
Clearly, his (the
yogin's) situation is paradoxical. For he is in life, and yet liberated;
he has a body, and yet he knows himself and thereby is purusa; he lives
in duration, yet at the same time shares in immortality; finally, he
coincides with all Being, though he is but a fragment of it, etc. But it
has been toward the realization of this paradoxical situation that
Indian spirituality has tended from its beginnings. What else are the
«men-gods» of whom we spoke earlier, if not the «geometrical point»
where the divine and the human coincide, as do being and non-being,
eternity and death, the whole and the part?
Đầu hữu Cửu cung
trung hữu Nê Hoàn. 頭
有 九 宮 中有 泥 丸 (Kim Đơn Đại Thành
Tập, tr. 4)
The seventh center,
the «thousand-petaled lotus» in the brain, is the throne of the Infinite
Consciousness. In the state of divine illuminatipon the yogi is said to
perceive Brahma or God the Creator as Padmaja, «the One born of the
lotus.» -- Paramahamsa Yogananda,
Autobiography of a yogi, p. 158n.
»
Mục lục |
Tựa | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10 11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|