DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5
6 |
BẠT
Phần 5
HÀ ĐỒ
Chương 6. Những vấn
đề siêu hình tàng ẩn trong Hà Đồ
Trong Hà Đồ tàng
ẩn nhiều bí quyết siêu hình, nhiều vấn đề triết lý, nhân sinh, đạo giáo.
Chúng ta sẽ lần
lượt khảo cứu ít nhiều vấn đề then chốt sau đây:
1/. Trung Cung,
Trung Điểm hay Bản Thể Vũ trụ.
2/. Chu Vi hay là
Vạn Hữu với Nguyên Lý Diễn Dịch Tuần Hoàn.
3/. Quan niệm Âm
Dương, hay Nhất Thể Lưỡng Diện.
4/. Nguyên tắc
sinh thành hay là sự cộng tác của Âm Dương, của tinh thần vật chất, để
thực hiện đại công của vũ trụ.
5/. Các hình thái
hay các tầng lớp con người theo Hà Đồ.
6/. Quan niệm
Thiên Nhân Tương Dữ theo Hà Đồ.
7/. Tạo hóa Qui
Trung Chi Diệu theo Hà Đồ.
1. Trung Cung,
Trung Điểm hay là Bản Thể của Vũ trụ
Kinh Dịch chỉ
dùng có mấy đồ bản Hà Đồ, Lạc Thư và các họa bản Dịch mà đã mặc nhiên đề
cập được hết các vấn đề:
a). - Căn Nguyên,
Cùng đích của vạn vật
b). -Sự biến
thiên: Các giai đoạn biến thiên, và chiều hướng biến thiên của vạn vật.
Tất cả các họa
bản đều diễn tả một chân lý siêu việt: Vạn vật từ một thực thể siêu vi
sinh xuất, biến hóa muôn vàn, thi triển hết mọi khả năng, tận dụng mọi
kết quả, rồi cuối cùng lại trở về Căn Nguyên bản thể.
Vũ trụ dẫu tán
phân, phóng phát bao nhiêu chăng nữa rồi ra cũng qui về Đại thể siêu vi.
Phân tán thì chu
lưu cùng vũ trụ, thâu liễm thì kết tụ trong tâm điểm tế vi.
Có biết nhẽ:
Nhất thể biến Vạn thù, Vạn thù qui Nhất thể, có biết nhẽ biến hóa
tuần hoàn, phản phúc, phóng đãng, di lưu, rồi lại qui căn, phản bản, thì
mới hiểu được vi ý của các họa bản Hà Đồ, Lạc Thư và Dịch.
Đại thể, Bản Thể
Bất Khả Tư Nghị ấy các nhà Huyền Học Nho, Lão đã gượng ép mà đặt cho
những tên Thái Cực Đạo và gượng ép tượng trưng bằng những số những hình.
Thái Cực
trong Dịch
Ngũ trong Lạc Thư
Ngũ thập trong Hà
Đồ.
Theo cùng khuôn
mẫu ấy các khoa Thiên văn, Địa lý, Nhân sinh cũng chủ trương:
1. Trung tâm trời
là Thiên Khu
, Thiên Cực, Bắc Cực hay Tử Vi cung
.
Trung Điểm đất
theo quan niệm Trung Hoa là núi Côn Lôn
.
Trung Điểm trong
con người là: Nê Hoàn Cung, Côn Lôn, Cốc Thần hay Thiên Cốc v.v..
Như vậy ngũ
thập cư trung trong Hà Đồ là bản thể, tức là Thái Cực.
5 và 10 là số đại
thành bao quát Âm Dương:
5 =
1 + 4
5 =
2 + 3
15 =
6 + 9
15 =
7 + 8
cũng như 5 và 10
phân tán ra tứ phương sẽ sinh ra các số Âm Dương bên ngoài, Thái Cực
cũng sinh xuất muôn vật.
Cho nên bất kỳ
trong một đồ bản nào, Trung Cung, Trung Điểm cũng tượng trưng cho Thái
Cực, Căn nguyên sinh xuất muôn vật và cũng là nơi giao hội, qui hoàn của
vạn vật:
Mới hay:
Con con cháu
cháu vấn vương,
Đông, Tây,
Nam, Bắc bốn phương hồi đầu.
Càn, Khôn, Ly,
Khảm gặp nhau,
Hợp thành một
khối, gót đầu chẳng phân.
Thế là thần
khí qui căn,
Một lèo khinh
khoát, băng chừng hư vô.
Âm Dương thông
lý, hiệp hòa,
Sẽ cùng tạo
hóa vào ra muôn đời.
Cổ nhân dùng
Trung Cung, Trung Điểm để tượng trưng cho Thái Cực, cho Bản Thể của vũ
trụ là một sự kiện hiển nhiên được minh chứng chẳng những bằng Hà Đồ, mà
còn bằng Lạc Thư, và các đồ bản của Dịch.
Cao tăng Diệu Hư
viết:
Đãn đắc thử
trung vô quải ngại.
Thiên nhiên
bản thể tự hư không
Tạm dịch:
Được Trung, là
hết lôi thôi.
Thiên nhiên,
Bản thể đất trời là Trung.
Đại Đổng Chân
Kinh còn ghi: Tìm căn bản phải tìm nơi Thái Cực
Hiểu được ngũ
thập của Hà Đồ tức là đi sâu vào lòng sâu muôn vật, tìm ra vi diệu của
Càn Khôn, hay Ngọc Châu của Tạo Hóa.
Cố khai
phá Huyền nguyên tam ngũ
Mới tìm
ra Tạo hóa khuê chương
Huyền cơ
Trời ở trung ương,
Gần trong gang
tấc, chẳng vương tượng hình.
2. Chu vi Hà Đồ hay là Vạn hữu với Nguyên lý Diễn
Dịch tuần hoàn
Hà Đồ chỉ mới có
tứ chính mà không có tứ duy nên chính là một vòng tròn, mà
vòng tròn là tượng trưng cho sự tuần hoàn biến Dịch.
Hà Đồ xét về
phương diện ngũ hành có thể đơn giản hóa như sau:
Nam
Hỏa
Đông Mộc Thổ Kim Tây
Thủy
Bắc
Nhìn vào đồ bản
này ta thấy hình chữ thập:
Trong đó Thủy Hỏa
chống đối nhau như dưới với trên, như Nam với Bắc, Kim Mộc chống đối
nhau như Tả với Hữu, như Đông với Tây. Tức là trong sự biến Dịch có tung
hoành thuận nghịch, phải có thể đổi thành trái, dưới có thể đảo lên
trên.
Trong trời đất,
và trong xã hội ta cũng thấy đây những hiện tượng đối đãi, phản phúc:
Đông mà sáng, thì Tây tối; Bắc lắm đất, Nam lắm biển; có lúc cá nhân
được trọng, có khi đoàn thể được trọng; có thời, vua là trọng, có thời,
dân mới quí; có nơi tinh thần được sùng thượng, có chỗ vật chất được suy
tôn; tất cả đều tùy nơi, tùy thời.
Lẽ thuận nghịch
(Tống), đối đãi (Thác ) của Hà
Đồ được tượng
trưng bằng hai cặp mâu thuẫn:
Kim Mộc
Thủy
Hỏa
và được Dịch kinh
tượng trưng bằng:
28 cặp quẻ phản
phúc (Tống)
4 cặp quẻ đối đãi
(Thác)
Ngay trong ngôn
ngữ, từ ngữ cũng có nhiều chữ để chỉ, để gợi ra sự đối đãi, thuận
nghịch.
Ví dụ: Lá mặt, lá
trái;
Xoay
xở, Lật lọng;
Đảo
điên, Phản phúc.
hay cách nói lái
trong tiếng Việt, các loại văn biền ngẫu, câu đối. Trong chữ Hán cũng có
những loại chữ đảo điên, phản phúc, đối đãi.
Ví dụ: Cảo = Sáng
sủa, Yểu = Mờ mịt
Thượng = Trên,
Hạ = Dưới
Hữu =
Phải, Tả = Trái
Diệt
= Lồi, Ảo = Lõm
Tường
= Nửa trái, Phiến = Nửa phải
Suy
ra muốn biến hóa phải biết nhẽ điên đảo, thuận nghịch. Áp dụng vào con
người muốn có một đời sống lý tưởng, phải biết tùy như cầu, khuynh
hướng, tùy thời gian, tuổi tác mà biết lúc nào phải trọng vật chất, lúc
nào phải trọng tinh thần. Nói chung từ bé đến lớn, con người càng ngày
càng hướng ngoại, đi tìm vật chất, tìm cơm áo địa vị, từ lớn đến già
càng ngày càng hướng nội, đi tìm tinh thần, và các giá trị siêu nhiên.
Đó chính là chiều
hướng biến hóa của Hà Đồ:
Tiến về vật chất
trước (Thoái hóa)
Tiến về tinh thần
sau (Tiến hóa) để rốt ráo trở về Trung Cung Thái Cực.
Đó là tiến hóa
theo chiều Dương, chiều Ngũ Hành tương sinh, chiều đi về hướng tinh thần
ngược lại với chiều tiến hóa của Lạc Thư tức là chiều Âm, chiều Ngũ Hành
tương khắc, chiều đi về vật chất, ngoại cảnh.
Nếu trời đất chỉ
biến hóa một chiều thì sẽ có lúc cùng, nhưng vì luôn luôn biến hóa theo
hai chiều, hai hướng cho nên lúc nào cũng có một bên tăng, một bên giảm,
bên tiêu, bên tức, thành thử dẫu biến hóa mấy, toàn bích vẩn y nguyên,
không vơi, không cạn.
Suy ra trong vũ
trụ, sự biến hóa luôn có hai chiều hai hướng: Tinh tú vận chuyển theo
hai chiều thuận nghịch, Đạo giáo và Chính trị theo đuổi những mục đích
ngược nhau, con người có hướng ngoại, hướng nội, vật chất có tụ, có tán,
v.v..
Trong chiều biến
hóa của Lạc Thư, động lực ngày một giảm, hư lực ngày một tăng theo
Nguyên lý Nhiệt lực II của Carnot-Clausius.
Trong chiều biến
hóa của Hà Đồ, động lực ngày một tăng, hư lực ngày một giảm.
3. Quan niệm Thái Cực, Âm Dương, hay Nhất Thể
Lưỡng Diện
Sự biến hóa theo
hai chiều hướng đối nghịch nhau, truy kỳ nguyên là vì cơ cấu vũ trụ đã
được tổ chức theo hai hình thức đối nhau. Đó là quan niệm Thái Cực Lưỡng
Nghi, Nhất Thể Lưỡng Diện của Dịch kinh. Hà Đồ tượng trưng quan niệm này
bằng số như sau:
5 = 2
+ 3
5 = 4
+ 1
Dịch kinh viết:
Nhất Âm, nhất
Dương chi vị Đạo.
Nếu viết thành
phương trình ta sẽ có
Đạo = Âm + Dương
Thái Cực = Âm +
Dương
Muốn hiểu bí
quyết Dịch, không được coi Âm, Dương là hai thực thể đối lập, mà là hai
phương diện của một thực thể, hai chiều hướng của một vòng tuần hoàn.
Thúy Hư Thiên
viết: Thực ra, hai chữ Âm Dương chỉ là một vật.
Cho nên Âm Dương chỉ là hai chiều hai
mặt của một Thực thể là Thái Cực. Thái Cực tuy là Căn Nguyên của Âm
Dương, nhưng Thái Cực siêu xuất trên Âm Dương, bao quát Âm Dương.
Số 5 là phi Âm,
phi Dương vì bao quát Âm Dương: 5 = 2 + 3 = 1 + 4
Cổ nhân cho rằng
Thái Cực tức là Thần, Thần
tức Thái Cực cho
nên Thần cũng siêu xuất Âm Dương,
năng Âm, năng
Dương, vì thế nên Hệ Từ viết: Âm Dương bất trắc chi vị Thần.
Khoa học ngày nay
đã tiến dần tới quan niệm nhất thể lưỡng diện, Thái Cực Âm Dương
của Dịch kinh, và của Hà Đồ.
Thực vậy, theo
thuyết tương đối của Einstein thì năng lực có thể biến thành vật chất,
vật chất có thể biến thành năng lực theo phương trình.
E = mc2
Theo Teilhard de
Chardin, vũ trụ được tạo dựng bởi một thực thể duy nhất, mà tinh thần,
vật chất, chỉ là 2 phương diện tương đối.
Tóm lại, vì thực
thể, có hai mặt, hai bên, nên cuộc biến thiên tiến hóa cũng có hai
chiều, hai hướng. Vũ trụ, dù xét về cơ cấu, hay xét về vận
động, tiến hóa, luôn luôn theo định luật Âm Dương. Khoa học ngày nay đã
chấp nhận quan điểm này khi cho rằng:
Thời gian là
chiều kích thứ tư của không gian.
Tinh thần là
biến thể của vật chất, vật chất là biến thể của tinh thần v.v..
Tóm lại không có
gì có thể hoạt động riêng rẽ mà luôn luôn phải dựa dẫn vào nhau.
4). Hà Đồ với lẽ sinh thành.
Hà Đồ còn đưa ra
một nguyên lý căn bản là bất kỳ cái gì không thể sinh ra mà đã trưởng
thành, toàn hảo ngay, mà còn phải biến hóa qua nhiều giai đoạn, nhờ sự
hỗ trợ của hoàn cảnh, chịu các ảnh hưởng tinh thần, vật chất mới trở nên
thành toàn, hoàn hảo được.
Dương phải có Âm
phụ bật mới thành tựu, Âm phải có Dương bổ sung mới toàn hảo. Suy ra
tinh thần muốn khuếch sung, tiến triển phải nhờ hoàn cảnh vật chất hỗ
trợ, vật chất muốn phát triển cần phải có tinh thần khai thác, điều
động.
Âm Dương phải
cộng tác với nhau, tinh thần vật chất phải hỗ trợ lẫn nhau, mới thực
hiện được đại công vũ trụ.
Vì thế Hà Đồ mới
chủ trương:
Thiên Nhất
sinh thủy, Địa Lục thành chi
Địa Nhị sinh
hỏa, Thiên Thất thành chi v.v...
5). Các hình thái, các tầng lớp con người theo Hà
Đồ
Thay vì phân chia
con người thành ba phương diện: Xác, Hồn, Thần hay Tinh, Khí, Thần, theo
nguyên lý Tam Tài.
Hà
Đồ, vì trọng nguyên tắc Âm Dương đối trĩ, nên lại phân chia tỉ mỉ hơn
nữa, tức là:
phân
Hồn thành A- Du Hồn (Dương)
B- Quỉ Phách (Âm)
Theo tài liệu của
Lưu Nhất Minh, trong quyển Chu Dịch Xiển Chân, và quan niệm các nhà
Huyền Học Âu Châu, ta áp dụng lời phân chia con người theo phương thức
Ngũ Hành, Tứ Tượng như sau:
Du hồn (Dương),
gần Thần minh hơn, ưa ánh sáng.
Quỉ phách (Âm),
gần vật chất hơn, ưa bóng tối.
Các nhà Dưỡng
Sinh Học, đã áp dụng quan niệm này vào công cuộc vệ sinh, và cho rằng
nhà cửa không nên cao quá, sáng quá vì như vậy sẽ thương phách,
không nên thấp quá, tối quá vì như vậy sẽ thương hồn và bệnh tật
do đó sẽ sinh.
Âu Châu cũng có
quan niệm Hồn, Phách.
Theo các nhà
Huyền Học Âu Châu thì Hồn, Phách, khác nhau cũng như khí với nước.
Lúc chết, Phách
quanh quất bên xác, còn Hồn thì khinh phiêu cùng thần khí lãng du. Phách
là cứ điểm của dục tình, ngã chấp lúc sống; và đến khi chết,
Phách sẽ tan biến dần trong giòng sông quên lãng, y như xác
tan biến trong
đất cát. Còn hồn là Khí, là xe của Thần theo từ ngữ Platon, đó là hạt
giống Trường Sinh, mầm mộng Kim Thân, Thánh Thể...
Đem những quan
niệm trên đối chiếu với khoa Cơ Thể và Sinh Lý Học hiện đại ta có thể ức
đoán:
Cứ điểm của Phách
có thể ở trung khu não bộ (diencéphale), nơi thị tầng (thalamus ou
couches optiques), hạ thị tầng (hypothalamus),
hoặc ở trong các Dung Dịch luân chuyển
trong các xoang não tủy.
Còn Hồn thì lại
liên hệ mật thiết đến các khí thể, lưu hành trong các xoang não bộ. Đó
cũng là những quan điểm xa xưa của Galien và thánh Augustin.
6). Quan niệm Thiên Nhân Tương Dữ trong Hà Đồ
Trong đạo Lão
cũng như trong đạo Nho, vốn có quan niệm Thiên Nhân Tương Ứng,
Thiên Nhân Tương Dữ.
Ý nói Trời chẵng
ở xa con người, mà đã ở ngay trong tâm khảm con người, để làm chủ chốt
cho con người, ám trợ con người.
Quan điểm này
thực ra không phải của riêng một đạo nào, mà là gia tài của nhân loại.
Đi sâu vào các Đạo giáo, các môn phái Huyền Học Đông, Tây, ta thấy quan
điểm này thường được đề cập tới.
Hà Đồ bày ra lẽ
Âm Dương phối ngẫu theo nhau như bóng với hình. Các nhà Huyền Học
Lão giáo dựa vào Hà Đồ, xiển minh nhẽ Trời người hợp nhất, Thiên Lý
tại nhân tâm.
Theo quan niệm
này ta có thể nói: Trời là Thần, là Chân Dương. Hồn con người là Khí, là
Chân Âm.
Một bên hùng dũng chỉ lối đưa đường, một bên nhu thuận, tuân theo sự
hướng dẫn, đúng như hai quẻ Kiền, Khôn trong Kinh
Dịch.
Trời có:
1) Ngũ Nguyên:
a - Nguyên tính
b - Nguyên thần
c - Nguyên tình
d - Nguyên tinh
e - Nguyên khí
2) Ngũ Đức:
a - Nhân
b - Nghĩa
c - Lễ
d - Trí
e - Tín
|
Người có:
1) Ngũ Vật:
a - Du hồn
b - Thức thần
c - Quỉ phách
d - Trọc tinh
e - Vọng ý
2) Ngũ Tặc:
a - Hỉ
b - Lạc
c - Nộ
d - Ai
e - Dục |
Trời là Chân,
Người là Giả, hai đàng như hình với bóng chẳng lìa nhau.Người
cần phải tuân phục Trời, thuận theo Mệnh lệnh Trời, mới có thể đi đến
chổ Âm Dương hòa hợp, thái hòa trường cửu.Trời,
Người đều có thể làm chủ hay làm khách.
Nhưng con người
vì bản tính nông cạn, si mê, nếu tự động đóng vai chủ nhân, định đoạt
mọi sự, thì chắc sẽ đi đến chỗ thất bại. Cho nên, hay hơn hết là nhường
cho Trời làm chủ, cho lương tâm, lương tri làm chủ
, còn mình chỉ biết tuân thuận theo, như
vậy chắc chắn sẽ tốt đẹp. Đó là nhẽ Chủ, Khách trong Hà Đồ.
Vì thế các nhà
Huyền Học Lão giáo mới nói:
Nhường ngài làm Chủ, ta làm Khách.
Hà Đồ lấy vị số
mà chứng minh rằng:
Sâu
là Chủ, Nông là Khách,
Trong
là Chủ, Ngoài là Khách
Cho nên, nếu
Thượng đế là chủ của ta, thì chắc chắn phải ở ngay trong tâm của ta.
Vì vậy người xưa
cho rằng:
Tu hành phải
biết nông sâu,
Nông sâu chẳng
biết, tìm cầu luống công.
7). Bí quyết Tạo Hóa Qui Trung Chi Diệu theo Hà Đồ
Dịch kinh cốt là
để mô tả diễn Dịch một chân lý trọng đại. Muôn loài đều từ một Đại thể,
từ một Căn Nguyên sinh xuất; biến thiên, tiến hóa tưởng là vô biên vô
tận, nhưng kỳ thực chỉ theo định luật Âm Dương, theo hai chiều hướng
ngoại, hướng nội; Vãng Lai theo định luật tuần hoàn, nên khi hết chu kỳ
lại trở về Nguyên Bản.
Lão tử cũng đã đề
cao Nguyên lý ấy:
Đạo Đức Kinh
viết:
Muôn loài sinh
hóa đa đoan,
Rồi ra cũng
phải lai hoàn Bản Nguyên,
Hoàn Bản
Nguyên, an nhiên phục Mệnh,
Phục Mệnh rồi,
trường vĩnh vô cùng.
Hà Đồ cũng xiển
minh nhẽ Vạn Vật Qui Trung bằng cách đặt lại số 10 vào Trung
Cung.
Hơn nữa nếu ta
bắt đầu từ Trung (Thổ) đi theo vòng Ngũ Hành tương sinh: Thổ( Kim( Thủy(
Hỏa( Thổ thì hết một vòng biến Dịch ta lại trở về Trung (Thổ).
Vả lại nếu ta xếp
lại các con số trong Hà Đồ theo phương thức dưới đây, ta sẻ thấy chiều
hướng luân chuyển các con số là trở về Trung Cung, Trung Điểm.
Ngụy Bá Dương
viết:
Lấy con số 5
trung ương, tán phân ra tứ phương sẽ thành 6, 7, 8, 9 tức là Thủy, Hỏa,
Mộc, Kim, đều dựa vào Thổ mới thành.
Lấy các số 1, 2,
3, 4 ở bốn phương thu về trung ương sẽ được 10, tức là Thủy, Hỏa, Mộc,
Kim, đều Phản Bản Hoàn Nguyên, hội họp ở Trung thổ. Thực là vi diệu
thay.
Vi chỉ của Dịch
thực là cao siêu, huyền diệu.
Mới đầu chỉ cho
ta thấy Thái Cực, Đạo Thể biểu dương dần dà thành Số, Vị, Hình Tượng,
Màu Sắc, Thể chất, Không gian, Thời gian, Vạn Vật, Vạn Hữu.
Sau đó, lại cho
ta nhìn thấy những giai đoạn biến thiên, những yếu tố cấu tạo nên vạn
vật, những then chốt biến hóa, từ Vạn Tượng rút lại về Ngũ Hành, về Tứ
Tượng, Âm Dương rồi lại trở về Thái Cực, Vô Tượng, Vô Vị, Vô Số. Mới
hay:
Tự Đạo phân
chia, Số mới thành,
Ngũ Hành hình
tượng: Đạo nha manh
Năm phương vũ
trụ: Thần phân liệt,
Chất sắc năm
mầu: Đạo tán sinh.
Số từ vô số
xuất sinh,
Trở về vô số,
mới thành vãng lai.
Tượng từ vô
tượng, phân bài,
Trở về vô
tướng, trong ngoài ấm êm
Vị hoàn vô vị,
mới nên,
Chất hoàn vô
chất, tinh tuyền trước sau.
Chớ chia đạo
thể nhiệm mầu,
Số kia bám víu
vào đâu sinh thành.
Muốn trừ cho
hết tượng hình,
Ngừng cơ biến
hóa, mối manh tiêu liền.
Vị ngôi muốn
hết dưới trên,
Thời đừng phân
biệt Bản Nguyên làm gì.
Đạo không phát
tán chia ly,
Thời thôi vật
chất biến đi từ đời.
Đạo là vô số,
vô ngôi,
Vô hình, vô
chất, chia phôi nhẽ nào.
Đạo Trời vi
diệu xiết bao...
Hà Đồ với con số
15 viết ở Trung Cung, tức là cho ta thấy rằng căn bản hay cùng đích của
vạn vật là ở tại Trung Cung, mà Trung Cung lại là Thái Cực, cho nên,
theo Hà Đồ, thì Căn Nguyên và cùng đích của vũ trụ vẫn là Thượng Đế.
Sách Đại Đỗng Chân Kinh viết: Căn bản vốn ở trung tâm điểm.
Sách Nhập Dược
Kính viết: Người nào biết
Tạo hóa, sẽ tìm căn nguyên vũ trụ nơi Trung Cung (Chân Thổ).
Mới hay:
Huyền cơ Trời
ở Trung ương,
Gần trong gang
tấc chẵng vương tượng hình.
Như đã nói trên
số 15 ở Trung Cung tượng trưng
Thái Cực. Lạ lùng
thay, đối với các nhà Huyền Học Âu Châu, số 15 chỉ Thượng Đế. Và họ cho
rằng Lạc Thư được quí trọng vì ngang dọc đều cộng thành 15, cho nên Lạc
Thư là biểu dương của Thượng Đế.
Đọc bài thơ trong
sách Kim Liên Chính Tông Ký, ta càng nhận thấy rõ rằng Trung Cung, Trung
điểm ở Hà Đồ chính là Nhất, là Thượng Đế, là Thủy Tổ Vũ Trụ, Càn Khôn.
Chân Nhất ở Trung
Cung có Tứ Tượng, Tứ Sắc (đỏ, đen, xanh, trắng) bao quanh, được thi sĩ
mô tả như là Thánh Mẫu ẩn thân trong thạch động mầu đỏ,
như Linh Thần ngự trên lầu giáng cung,
, như Chân Cống, hay Kim Đơn chìm dưới
làn sóng hồ màu biếc,
như đám mây bay trước ngọn núi Bạch
Ngọc màu trắng
.
Nguyên văn bài
thơ như sau:
Nhất trung hữu
Nhất, Nhất nan luân,
Tam cảnh
nguyên tòng nhất xứ phân,
Xích thạch
động trung tàng Thánh Mẫu,
Giáng cung đài
thượng liệt Thần Tôn.
Bạch đàm ba
nội chân chân cống,
Bạch ngọc
phong tiền ải ải vân.
Cá thị càn
khôn khai tịch tổ.
Thế gian ngu
tục, khởi giao văn.
Khi đã biết Trung
Cung tượng trưng cho Thượng Đế Bất Khả Tư Nghị, Vô Số, Vô Vị, Vô Tượng,
thì bí quyết trở về với Thượng Đế, về Trung Cung là phải biết vượt lên
trên hết mọi ảnh tượng
, chi ly, phiền tạp, phải biết thu nhiếp
vạn thù, qui nhất bản.
Người xưa gọi thế
là:
Toản thốc Ngũ
Hành,
Hòa hợp Tứ
Tượng
Tam hoa tụ
đỉnh
Ngũ khí triều
Nguyên
Tạo Hóa Qui
Trung Chi Diệu.
Nói một cách
thiết thực hơn, muốn tìm về Trung cung, con người phải biết đâu là Chân
Tâm trong con người.
Các nhà Huyền Học
Lão giáo đã cho biết Nê Hoàn Cung, ở trung tâm não bộ chính là Chân Tâm,
là Trung Cung, Trung Điểm nơi con người.
Mới hay:
Nê hoàn một
khiếu, thấu cửa Trời
Ngọc Hoàng
Thượng Đế, ấy tòa ngôi,
Thánh Hiền lui
tới, duy đường ấy,
Cưỡi hạc băng
chừng, thẳng tới nơi.
Giai đoạn sau là
thu thần, liễm khí cho qui tụ về óc não, sống đời sống nội tâm cho thật
rồi rào, dùng hết tâm thần ý chí vào công cuộc chiêm ngưỡng Thượng Đế,
sống hợp nhất với Thượng Đế.
Đó là ý nghĩa
những khẩu quyết:
Hoàn tinh bổ
não
Tam hoa tụ đỉnh
Ngũ khí triều Nguyên
[57]
hay:
Tử
dục bất tử tu Côn Lôn
[58]
Qui Trung
tóm lại là:
Đem ngựa ý, qui về thần thất
Bắt vượn tâm, giữ chắc động phòng.
Tâm, Thần, Hồn, Phách, Ý qui trung.
Nói theo từ ngữ Công giáo tức là muốn sống kết hợp
với Thượng đế, phải kính mến Thượng đế hết lòng, hết sức tâm thần.
Hiểu
được ý nghĩa Trung Cung, biết được bí quyết Tạo Hóa Qui Trung Chi
Diệu, con người mới có thể tìm ra được địa vị sang cả của mình
mà Định Mệnh con người là sống kết
hợp với Thượng Đế.
CHÚ THÍCH
Đạo
Đức Kinh, chương XVI.
For fifteen was a sacred number among the Orientals, because the
letters of the holy name Jah jy were, in there numerical value,
equivalent to fifteen, and hence a figure in which the nine digits
were so disposed as to make fifteen either way when added together
perpendicularly, horizontally, or diagonally, constituted one of
their most sacred talismans. —
Mackey's Revised Encyclopedia of Freemasonry,Vol. II, p. 1109.
Hoàn
Nguyên Thiên Trang 1b.
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5
6 |
BẠT
|