DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1 2
3 4
5 6
7 8
Phần 9
NGŨ HÀNH
Chương 1. Nhận định
tổng quát
Tứ Tượng hay 4 trạng thái
biến thiên ở bên ngoài không thể làm cho chúng ta quên đi được thực thể
duy nhất, làm chủ chốt bên trong. Vì thế nói đến Tứ Tượng, tất nhiên là
phải nói đến Ngũ Hành, nghĩa là phải đề cập thêm đến
Hành Thổ ở tâm điểm.
Dịch không trực tiếp
đề cập đến Ngũ Hành.
Ngược lại Ngũ Hành đã được đề cập đến ở Kinh Thư, Thiên Hồng Phạm; ở Lễ
Ký, Thiên Nguyệt Lệnh.
Tuy nhiên, trong bộ Ngự Án
Đại Toàn Dịch Kinh Tôn Bổ, nơi chương Văn Vương Bát Quái phương vị, ta
cũng thấy có đôi nhà bình giải đề cập đến vấn đề Ngũ Hành, trong đó có
Ngự Án của Khang Hi, và lời bình của Hạng Bình Am.
Ngự Án bình rằng: Khảm
Thủy, Ly Hỏa, Tốn Mộc, Khôn Thổ thì đã đành là hợp với Tượng các quẻ (ở
trong Thuyết quái). Đến như Kim, thì mới chỉ là một trong những Tượng
quẻ Kiền; Thương Lang Trúc (Mộc) thì mới chỉ là một trong những Tượng
quẻ Chấn. Cấn mà suy ra là Thổ thì cũng tạm gọi là được; đến như Đoài
thì tuyệt không thấy có Tượng là Kim. (Xem Đại Toàn, quyển I, trang 46,
47)
Hạng Bình Am bình rằng: Thứ
tự các quẻ Hậu Thiên đem Ngũ Hành phối hợp với Tứ Thời.
- Chấn Tốn
đều thuộc Mộc chủ Xuân, cho nên Chấn ở Đông phương, Tốn ở Đông
Nam.
- Ly,
Hỏa, chủ Hạ nên ở Nam.
- Đoài, Kiền,
hai Kim, chủ Thu, nên Đoài ở Chính Tây, Kiền ở Tây Bắc.
- Khảm Thủy,
chủ Đông, nên là quẻ của Bắc phương.
- Thổ
vượng Tứ Quí, nên Khôn thổ ở Hạ, Thu giao nhau, tức là ở phía Tây
Nam. Cấn Thổ, tại nơi Đông Xuân giao nhau, tức là ở Đông Bắc.
- Mộc, Kim,
Thổ mỗi hành có 2 quẻ. Đó là hình vượng. Thủy, Hỏa có một quẻ.
Đó là khí vượng.
- Khôn, Thổ Âm
cho nên ở phía Âm.
- Cấn, Thổ Dương
cho nên ở phía Dương.
- Chấn là Dương Mộc
cho nên ở chính Đông. Tốn là Âm Mộc cho nên ở gần phía Nam và tiếp giáp
với Âm.
- Đoài là Âm Kim
nên ở phía Tây.
- Kiền là Dương Kim
cho nên ở gần phía Bắc
và tiếp giáp với Dương. (Dịch Kinh Đại Toàn, quyển I, tr. 47)
Các nhà bình giải cho rằng
vòng Dịch Tiên Thiên của Phục Hi không phân Ngũ Hành. Vòng Dịch Hậu
Thiên của Văn Vương mới phân Ngũ Hành. Phương vị như sau:
Dịch, trong chính Kinh,
không đề cập đến Ngũ Hành. Nhưng Hà Đồ đã xếp các số theo phương vị
Ngũ Hành như sau:
7 / 2
8 / 3 5 / 10 4
/ 9
1 / 6
Phương vị của Ngũ Hành có
thể được giản lược như sau:
Hỏa
Nam
Đông Trung Tây
Mộc Thổ Kim
Bắc
Thủy
A. TRUNG THỔ LÀ BẢN
THỂ, LÀ TRUNG CUNG THÁI
CỰC
Hỏa, Mộc, Kim, Thủy, là 4
hiện Tượng biến thiên ở bên ngoài. Cho nên Trung Thổ chính là
tinh túy, là Bản Thể, là Tinh Hoa.
Âu Châu gọi là Quintessence
hay là Quinte Essence: Tinh túy thứ 5.
Ngũ Hành mới là quan niệm
toàn bích vì nó gồm cả Tứ Tượng bên ngoài lẫn Thái Cực bên trong.
Quan niệm Ngũ Hành đã được
các học giả Đông Tây bàn cãi rất nhiều. Đi vào chi tiết sẽ không bao
giờ cùng. Đây ta chỉ tháo gỡ cho ra những giường mối chính, những ý
nghĩa chính. Ngũ Hành có quan hệ mật thiết đến Siêu Hình Học và Vũ trụ
quan Trung Hoa thời cổ. Có hiểuVũ trụ quan Trung Hoa thời cổ mới hiểu
được học thuyết Ngũ Hành.
Trung Hoa cũng như các dân
tộc xa xưa, tin rằng vũ trụ vạn vật đều do một nguyện thể, một nguyên
động lực phân tán vận chuyển ra bốn phương theo hai chiều kinh (dọc) vĩ
(ngang) thành ra hai cặp ngẫu lực chính. Các ngẫu lực này hoạt động,
ảnh hưởng lẫn nhau và dần dà sinh ra mọi loại năng lực.
Đứng về phương diện nguyên
liệu, chất liệu, Ngũ Hành là 5 yếu tố cấu tạo vũ trụ. Hành Thổ ở Trung
cung là căn cơ và là cùng đích cho muôn
vật. Chữ Thổ đây không nên hiểu là đất thường, mà nên hiểu là căn
cơ, hay bản chất vạn vật. Vì thế mà sách Ngộ Chân Thiên có viết:
Tứ Tượng Ngũ Hành toàn tạ
Thổ. (Tứ Tượng Ngũ Hành đều nhờ
Đất)
Quan niệm này tương tự như
quan niệm Âu Châu, vì Âu Châu cũng cho rằng ngoài 4 nguyên chất tạo
thành vũ trụ, còn có tinh túy thứ năm (quintessence) mà họ gọi là Thái
Hư (éther) hay Bản Chất (matière première)
Ấn Độ, Tây Tạng và nhiều
phái Huyền học Âu Châu cũng chủ trương con người là tiểu vũ trụ
và gồm Ngũ Hành như đại vũ trụ bên ngoài. Và họ hình dung
con người như sau:
Nhiều đền đài Tây Tạng hiện
còn xây theo hình đồ trên, ví dụ như đền Koumboum ở Gyantsé.
Xét theo không gian thì Ngũ
Hành lại chiếm 5 vị trí chính yếu là Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung.
Xét về thời gian, thì Ngũ
Hành chính là 5 thời đại khác nhau, 4 mùa biến thiên bên ngoài và 1 mùa
hằng cửu bên trong, vừa là mùa Hoàng Kim khởi thủy, vừa là mùa Hạnh phúc
lý tưởng lúc chung cuộc.
Ngũ Hành còn có thể hiểu
được là 5 yếu tố cần thiết cho sự sống.
Ý nghĩa này hợp với Hồng Phạm.
Kinh Thư chương Đại Vũ Mô
viết:
Nhân đức của nhà vua hiện ra
trong một nền chính trị giỏi giang, khéo léo. Mà làm chính trị, trước
hết là phải biết nuôi dân.
Sáu yếu tố cần cho dân là:
Thủy, Hỏa, Kim Mộc, Thổ, Cốc (nước, lửa, kim khí, gỗ, đất, lúa); chúng
cần được khai thác. Nhà vua chẳng những phải lo giáo hóa, khuyến thiện
cho dân, mà còn phải cho họ biết khai thác, lợi dụng vật chất thiên
nhiên cho đời sống họ được rồi rào phong phú.
Ngũ Hành chẳng qua là tấn
tuồng vũ trụ, mà vai chính lại là Thái Cực, Tuyệt Đối.
Vì vậy mà Thiên Tử Trung Hoa
thời xưa, hằng năm đã đóng lại tấn tuồng vũ trụ nói trên trong tòa Minh
Đường.
Xuân thì phẩm phục xanh, cờ
xí xanh, cưỡi ngựa thanh long, dùng ngọc bích, lại ngự cung Thanh Dương
phía Đông.
Hạ thời phẩm phục đỏ, cờ xí
đỏ, cưỡi ngựa hồng, mang ngọc đỏ, ngự cung Minh Đường phía Nam.
Sau ngày Hạ chí,
thời phẩm phục vàng, cưỡi ngựa vàng, đeo ngọc vàng, ngự nơi Trung
Cung Thái Miếu, ngụ ý nhà vua làm chủ
chốt cho không gian và thời gian.
Thu thời phẩm phục trắng, cờ
xí trắng, cưỡi ngựa bạch, đeo ngọc trắng, ngự cung Tổng Chương phía Tây.
Đông thời phẩm phục đen, cờ
xí đen, cưõi ngựa ô, đeo ngọc huyền, ngự cung Huyền Đưòng phía Bắc.
Đại khái như muốn nói lên
chân lý này là, cũng như vũ trụ có thời gian, có tiết tấu trong công
cuộc biến hóa, con người cũng phải tùy theo thời gian tuổi tác mà hoạt
động cho đúng tiết tấu thiên nhiên.
CHÚ THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1 2
3 4
5 6
7 8
|