DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1
2 3
4 5
6 7
8
Phần 9
NGŨ HÀNH
Chương 2. Ngũ Hành
sinh khắc
Người có thân và thù,
thì Ngũ Hành cũng có tương sinh, tương khắc.
Ngũ Hành
tương sinh là: Mộc sinh Hỏa. Hỏa sinh
Thổ. Thổ sinh Kim. Kim sinh Thủy. Thủy sinh
Mộc.
Ta có thể trình bày lẽ
tương sinh đó bằng hai cách như sau:
Ngũ Hành tương khắc
là: Mộc khắc Thổ. Hỏa khắc Kim.
Thổ khắc Thủy. Kim khắc Mộc. Thủy khắc Hỏa
Ta có thể trình bày lẽ tương
khắc đó bằng hai cách như sau:
Sinh có thể hiểu được là
sinh dưỡng, phù trợ, tác phúc, tóm lại bao gồm tất cả mọi ảnh hưởng tốt.
Khắc có thể hiểu được là
kiềm chế, thù địch, lấn át, xung khắc, tác hại, tóm lại tất cả mọi ảnh
hưởng xấu.
Mỗi một Hành đều có liên lạc
tốt xấu với các Hành khác.
- Hai SINH gọi là phụ Mẫu và
Tử Tôn.
- Hai KHẮC gọi là Quan Quỉ
và Thê Tài.
- Một HÒA gọi là Huynh Đệ.
Người xưa đã lập thành như
sau:
- Sinh Ngã giả vi Phụ
Mẫu (Sinh ra ta là Phụ Mẫu, cái gì phù trì ủng hộ, hi sinh cho ta
là Phụ Mẫu)
- Ngã sinh giả vi Tử
Tôn (Ta sinh ra là Tử Tôn, cái gì mà ta săn sóc, bao bọc, yêu
đương, hộ trì, chắt chiu, thì gọi là Tử Tôn)
- Khắc Ngã giả vi Quan
Quỉ (Khắc ta thì gọi là Quan Quỉ, cái gì ức chế, đàn áp, bóc lột,
lợi dụng, làm hại được ta thì gọi là Quan Quỉ)
- Ngã khắc giả vi Thệ
Tài (Cái gì mà ta ức chế, đàn áp, lợi dụng chi phối được thì
gọi là Thệ Tài)
- Tỉ Hòa giả vi Huynh
Đệ (Hòa với ta thì gọi là Huynh Đệ, cái gì đối với ta có ảnh
hưởng ngang ngửa, đồng đều thì gọi là Huynh Đệ)
Ví dụ: Nếu ta lấy Kim làm
đương nhân, đương sự, thì:
- Thổ là Phụ Mẫu của Kim vì
Thổ sinh ra Kim
- Thủy là Tử Tôn của Kim vì
Kim sinh ra Thủy
- Hỏa là Quan Quỉ của Kim vì
Hỏa khắc Kim
- Mộc là Thê Tài của Kim vì
Kim khắc Mộc
- Kim là Huynh Đệ của Kim vì
Kim với Kim đồng điệu, đồng loại.
Sau này người ta còn bày ra
lắm chuyện phức tạp hơn nữa. Chẳng những Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Quan Quỉ,
Thê Tài còn được gọi bằng những tên khác, mà tùy như Dương gặp Dương, Âm
gặp Âm, hay Âm Dương, Dương Âm gặp nhau cũng còn gọi bằng tên khác.
Thật là vô cùng rắc rối.
Tuy nhiên chúng ta cũng cố đơn giản hóa những cái rắc rối ấy trong sơ đồ
sau:
Sinh Ngã giả vi:
Phụ
Mẫu (Ấn Thụ)
|
+ gặp -,
hay - gặp + = Ấn thụ (Chính
ấn)
+ gặp +,
hay - gặp - = Kiêu ấn (Thiên
ấn)
|
Ngã
sinh giả vi:
Tử Tôn (Phúc đức)
(Thực
thương)
|
+/- hay
-/+ = Thương quan
+/+ hay
-/- = Thực thần |
Khắc Ngã giả vi:
Quan Quỉ
(Quan sát) |
+/- hay
-/+ = Chính quan
+/+ hay
-/- = Thiên quan (Thất
sát)
|
Ngã
khắc giả vi:
Thê tài (Tài Bạch) |
+/- hay
-/+ = Chính tài
+/+ hay
-/- = Thiên tài |
Đồng loại giả vi:
Huynh đệ (Tỉ, Kiếp) |
+/- hay
-/+ = Bại tài (Kiếp tài)
+/+ hay
-/- = Tỉ kiên |
Lẽ Ngũ Hành sinh khắc hết
sức phức tạp nhưng cũng hết sức phong phú và biến hóa. Đi sâu vào chi
tiết sẽ tốn hao rắt nhều thì giờ rất nhiều giấy mực. Hơn nữa các sách
tướng số bàn cãi rất nhiều về vấn đề này. Vì thế ở đây chúng ta sẽ
không đề cập đến những chi tiết phiền toái mà chỉ ghi nhận rằng: Ngoài
nhẽ NGŨ HÀNH THUẬN SINH THUẬN KHẮC còn có nhẽ NGŨ HÀNH NGHỊCH SINH
NGHỊCH KHẮC tức là NGŨ HÀNH ĐIÊN ĐẢO.
Cái quan hệ đối với chúng ta
là tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của Ngũ Hành sinh khắc. Hiểu lẽ Ngũ Hành sinh
khắc, chúng ta sẽ tìm ra con đường xu cát, tị hung.
Phàm ở đời mà người này lấn
át ngưòi kia, vật này xung khắc vật nọ, sẽ đưa đến những hậu quả chẳng
hay. Chống đối ít thời tai hại ít, chống đối nhiều thời tai hại nhiều.
Nếu hai đằng cùng mạnh, thì hư hao càng lắm.
Cho nên, muốn làm nên công
chuyện gì, cần phải đuợc sự phù trợ, sự cộng tác của thời gian, của hoàn
cảnh, của nhân tâm.. Đó là nhẽ thường tình ở trong trời đất.
Tuy nhiên, trời đất cũng hay
dùng sự tương xung, tương khắc để làm nảy nở các tiềm năng, tiềm lực của
vạn hữu nhất là của con người.
Vàng mà không được chau
chuốt bằng lửa, thời vàng không thể trở nên tinh ròng. Gỗ mà không bị
dao cưa xẻ cắt, búa rìu đẽo gọt thì chẳng có thể trở thành cột kèo, bàn
ghế.
Cũng một lẽ, nếu Tạo hóa
không để cho con người sống trong nghịch cảnh, thì con người sẽ trở nên
ù lì, lười biếng, cầu an hưởng thụ, do đó không thể nào tiến hóa được.
Đằng khác, trong hoàn võ
cũng như trên đời, cũng cần phải có sự xung khắc, kiềm chế lẫn nhau để
giảm bớt sự quá trớn, dông dỡ ngông cuồng, thái quá, y như xe xuống dốc
cần có thắng xe, mới tránh được sự đi quá tốc độ, sinh tai nạn. Nhưng
sự xung khắc, kìm hãm chỉ hay, chỉ tốt tới một mức độ nào. Quá mức đó
nó sẽ trở thành họa hại. Ví như xe đã bị thắng, lại còn bị ngăn, bị
chặn, thì làm sao mà tiến lên được.
Cho nên, một khi đã giác ngộ
được rằng con người sinh ra không phải là để sống ù lì, hưởng thụ, mà
cần phải dùng thời gian, ngoại cảnh, dùng xã hội và tha nhân để giúp
mình ngày một trở nên hoàn mỹ, thời lúc ấy con người có quyền, cũng như
có bổn phận tránh nghịch cảnh, đồng thời tạo cho mình thuận cảnh để mà
thành tựu công phu tu dưỡng, ngõ hầu trở nên con người toàn diện.
Trong thực tế, muốn biết một
con người hạnh phúc nhiều hay ít, chỉ cần xem họ sống trong thuận cảnh,
hay nghịch cảnh, xem tâm hồn họ có bình an, xác thân họ có khang kiện,
xem họ có được xa gần yêu mến, giúp đỡ hay không, xem nơi họ cư ngụ có
được trang nhã hay không...
Chính vì thế mà Âm Phù Kinh
đã viết: Thiên hữu ngũ tặc, kiến
chi giả xương.
Ngũ tặc đây chính là Ngũ
Hành.
Tại sao Âm Phù Kinh lại gọi
Ngũ Hành là Ngũ Tặc? Thưa: vì hai lý do:
1. Ngũ Hành mà không biết xử
dụng, sẽ trở nên tặc hại.
2. Ngũ Hành trong trời đất,
sinh khắc, tác dụng trên nhau, hết sức đa đoan, phiền tạp, và do đó ảnh
hưởng nhiều đến sự thành bại của con
người.
Ngũ Hành hay Ngũ tặc, theo
từ ngữ Âm Phù Kinh, ở trên trời là Ngũ Tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ);
ở dưới đất là Ngũ Nhạc (là Tung Sơn, Hoa Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn, Hành
Sơn); ở âm nhạc là Ngũ Âm (Cung, Thương, Giốc, Chủy, V3ũ); ở thực phẩm
là Ngũ Vị; ở thân thể là Ngũ Tạng; ở Đạo giáo là Ngũ Đức (Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín).
Tuy nhiên, nếu ta biết xử
dụng Ngũ Hành cho hay, cho phải, thời Ngũ Hành không còn phải là Ngũ
Tặc nữa, mà chúng sẽ trở thành nguồn mạch hạnh phúc cho ta.
Vì thế Âm Phù Kinh mới nói:
Nếu biết thuận dụng Ngũ Hành thời sẽ được thịnh xương, phúc khánh.
Ví dụ một người ra làm quan
mà biết thi hành Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, thì ắt sẽ đi đến chỗ vinh
quang, thịnh đạt.
Ví dụ một ngưòi làm Tướng mà
biết Thiên văn, Địa lý, Nhân tình, biết cường điểm, nhược điểm của phía
địch thời ắt sẽ nên công.
Thế chẳng phải làm am tường
Ngũ Hành, sẽ đi đến chỗ xương thịnh hay sao?
Tóm lại, theo đường tương
sinh của trời đất, biết xử dụng ngoại cảnh, biết hòa hợp với nhân quần,
biết hòa hài với thiên nhiên và vũ trụ, làm những công chuyện đạo đức,
đi vào con đường công chính, con đường Dương minh của đất trời, tức là
đi vào vinh quang, phúc khánh, và sẽ gặt hái được nhiều kết quả.
Còn như đi vào con đưòng
tương khắc của Ngũ Hành, của trời đất, gây gổ, chống đối với mọi người,
sống trong nghịch cảnh, hoạt động lỗi thời, làm những chuyện tai hại,
thế tức là đi vào con đường Âm ám của trời đất, và dĩ nhiên sẽ
chiêu tai, rước họa vào mình. Các kinh sách đều không ngoài ý ấy.
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1
2 3
4 5
6 7
8
|