DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1
2
3
4 |
phụ lục 1
2
| STK
Phần 3
VÔ CỰC LUẬN
Chương 1. Phi lộ
Đối với đại đa số quần
chúng, Vô cực 無 極 là một danh từ xa vời, thường không gợi ra cho họ một
ý niệm nào, y thức như đỉnh một non thần quanh năm có mây mù che lấp,
không để cho cặp mắt thế nhân dòm hành được.
Bàn về Vô cực cũng hết sức
khó khăn, vì Vô cực mênh mông vô hạn, không thể nào lồng vào trong khuôn
khổ ý niệm, từ ngữ, tượng hình.
Chúng ta chỉ có thể dùng
thần trí lãnh hội Vô cực, chứ không thể dùng tâm tư suy cứu Vô cực.
Tất cả những ý niệm, những
danh từ, những hình dung có liên quan tới Vô cực chỉ là những phương
tiện eo hẹp giúp ta linh giác được Vô cực, chứ không phải là những ý
niệm, những hình ảnh chính xác về Vô cực.
Có hiểu như vậy, người viết
và người đọc mới thoát vòng tù túng của ý niệm, từ ngữ.
Chữ Vô cực đã xuất hiện từ
lâu đời trong nền văn học và đạo giáo Trung Quốc.
Dịch Kinh không đề cập đến
Vô cực; chỉ đề cập đến Thái cực 太 極.
Trong thư tịch Nho giáo, chữ
Vô cực phát tích từ thiên «Thái cực đồ thuyết» 太 極 圖 說 của Chu Liêm Khê.
Chu Liêm Khê viết: «Vô cực
nhi Thái cực» 無 極 而 太 極. Như vậy đối với Nho giáo, chung qui, Vô cực,
Thái cực đều cũng là bản thể của vũ trụ, có khác nhau chăng là ở hai
thế: ẩn, hiện.
Nói chung, thì Nho gia
thường luận về Hữu, ít đề cập đến Vô. Ít đề cập, nhưng không phải không
hay không biết. Vả lại, Vô vẫn trọng hơn Hữu, Vô thường áp dụng cho
Trời, cho thần minh.
Trung Dung viết: «Thượng
thiên chi tải, vô thanh vô xú, chí hĩ.» 上天 之 載 無 聲 無 臭 至 矣.
Dịch Kinh viết: «Thần vô
phương, nhi Dịch vô thể.» 神 無 方 而 易 無 體
Trái lại, chữ Vô cực, chữ Vô
đã được dùng trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử
từ thế kỷ thứ V trước Công Nguyên.
Các Đạo gia cũng thường đề
cập đến Hư, Hư Vô, Không.
Dẫu sao, Hư vô, Vô cực cũng
là một quan niệm hết sức trọng đại đối với Á Châu.
Vô cực, Hư vô đấy chính là
Tuyệt đối bất khả thư nghị, chứ không phải là hư không, hu ảo như các
sách giáo khoa thường lầm tưởng.
Hiểu vấn đề Vô cực, Hư vô,
ta sẽ vén được bức màn bí mật, từ bao lâu nay, đã bao trùm trên siêu
hình học Á Châu, và tránh được những sự hiểu lầm, những lối giải thích
ngây thơ, nông cạn.
Trong thiên khảo luận sau
đây, tác giả sẽ dẫn chúng các nhà huyền học Đông Tây kim cổ để xiển minh
rằng Vô cực hay Hư vô là quan niệm cao siêu nhất về Tuyệt đối thể, về
Thượng Đế.
Để cho vấn đề được sáng tỏ,
và để cho độc giả dễ dàng theo dõi, xin lập thành một biểu nhất lãm ghi
chú những cung cách, quan niệm, hình dung về Thượng Đế qua các triết học
đạo giáo cổ kim
như sau:
Môn phái |
Quan niệm về
Thượng Đế |
Danh hiệu
Thượng Đế |
Quan niệm của
các nhà Huyền Học |
Tuyệt đối thể
vô ngã, bất khả tư nghị, vô thanh vô xú, vô trụ, vô phương sở |
Vô Cực, Hư
Vô, Hư Không, Hồng Mông, Hỗn Độn (Néant, Chaos, Vide) |
Quan niệm của
các nhà Huyền Học và các Triết gia |
Tuyệt đối
thể, Bản thể, Căn nguyên, Cùng đích của vũ trụ |
Trung, Nhất,
Thái Cực, Đạo (Principe, Logos, L'Un, Tout) |
Quan niệm của
các Đạo giáo |
Tuyệt đối
thể, Bản thể, Căn nguyên, Cùng đích của vũ trụ |
Thượng Đế,
Hoàng Thiên, Ngọc Hoàng, Thượng Đế, Thiên, Trời, Tạo Hóa, Chủ Tể
(Dieu, Créateur, Roi, etc...) |
Quan niệm của
các Đạo giáo và quần chúng |
Tuyệt đối thể
được nhân cách hóa, nhân hình hóa; Thượng Đế có nhân hình, nhân dạng |
Tạo hóa đành
hanh
Trời già oan
nghiệt |
Nhìn vào đồ bản, ta thấy,
đối với các bậc thượng trím thượng nhân, Thượng Đế càng ngày càng trở
nên vô hình tướng, vô biên tế, bất khả tư nghị
; Ngược lại đối với quần chúng, Thượng
Đế càng ngày càng trở nên hữu tình, hữu tướng, hữu hình, có tòa ngôi, có
hành động, cũng yêu thương, hờn giận, ghen tuông, thù oán như con người.
Đó là một công lệ có thể đem áp dụng vào bất kỳ đạo giáo nào.
Tác giả sẽ đi vào đề tài với
một thái độ hết sức khách quan, không biện hộ cho một tôn giáo nào, mà
chỉ muốn cùng độc giả đi tìm chân lý, trao lại cho độc giả những chìa
khóa để mở các kho tàng tư tưởng Á Âu.
Bàn về Vô cực, về Thượng Đế,
về Tuyệt đối bất khả tu nghị, tác giả sẽ dùng phương pháp đối chiếu. Tác
giả sẽ so sánh các quan niệm, từ ngữ của các nhà đạo giáo. Sự so sánh
này sẽ làm sáng tỏ những quan niệm huyền bí của Á Châu.
Tại sao, lại dựa vào các nhà
Huyền học (mystiques)?
Vì các nhà huyền học, tức là
các vị chân tu đắc đạo, là những người đã trực tiếp thông đạt được
Thượng Đế.
Trong quyển «Studies in
Mystical Religion», bác sĩ Rufus Jones định nghĩa huyền học như sau:
«Huyền học là một loại tôn giáo chú trọng sự trực giác được mối liên lạc
với Thượng Đế; đến sự nhận thức trực tiếp được sự hiện diện của Thượng
Đế. Đó là tôn giáo tới giai đoạn cao siêu nhất, mãnh liệt nhất, sống
động nhất».
Thánh Thomas d'Aquin định
nghĩa huyền học là sự nhận thức được Thượng Đế một cách sống động do
kinh nghiệm bản thân.
Bergson cũng đã dựa vào các
nhà huyền học để nhận định là có Thượng Đế.
Ông cho rằng nếu ta chấp
nhận các kết luận của các nhà khoa học về khoa học, thì ta phải chấp
nhận các kết luận của các nhà huyền học về Thượng Đế.
Tại sao lại khảo sát quan
niệm của các vị đắc đạo của các đạo giáo?
Thưa: vì chân lý cần phải
phổ quát, vượt tầm không gian, thời gian; vượt tầm các quốc gia và đạo
giáo, vì chân lý là gia tài chung của nhân loại, chân lý phải là cái gì
vĩnh cửu, phổ biến mọi nơi, mọi đời.
Tại sao cần khảo sát các
triết gia?
Thưa: vì triết gia là người
mài miệt suy tư, cố công tìm hiểu, dám có những tư tưởng mới mẻ, tầm
khuôn sáo xã hội.
Bergson nhận định: «Triết
học không phải nguyên là sự phục hồi của thần trí, sự phối hợp giữa tâm
thần với căn nguyên sáng tạo. Triết học còn nghiên cứu sự biến thiên
tổng quát, sự tăng trưởng, diễn biến của chân lý và, như vậy, triết học
chính là sự tăng bổ của khoa học».
Nhưng trong thiên khảo luận này tác giả
không theo loại triết học phổ thông khoa cử. Nền triết học bí điển mật
truyền cả Đông lẫn Tây lại chú trọng đến Vô hơn Hữu.
Những từ ngữ, những quan
niệm tương đồng giữa Đông và Tây phải chăng là ấn tín và là biểu hiệu
cho chân lý hằng cửu phổ quát ?
Tại sao phải dựa vào các
sách thánh, các kinh điển đạo giáo ?
Bởi vì đó chính là tinh hoa
nhân loại đã cô đọng nên nhời...
Trong công trình khảo cứu
kinh Dịch, ta bắt chước tiền nhân bàn về Vô cực, Thái cực trước tiên, vì
Vô cực tức là căn nguyên vũ trụ, là chủ chốt của Dịch Kinh.
Có biết rõ căn nguyên gốc
gác, thì chúng ta mới suy luận được ra ngọn ngành.
Thế tức là, chúng ta xoay
ngược vấn đề nhận thức: Muốn biết mình, muốn hiểu vũ trụ, trước tiên
phải biết Trời, biết Thượng Đế.
Saint Martin viết: Ta chỉ có
thể hiểu biết được chúng ta trong Thượng Đế và sự vinh quang ngài.
Có lẽ, cũng vì thế mà Trung
Dung đã viết: «Tư chi nhân bất khả dĩ bất tri Thiên.»
Tạm dịch:
Chúng ta khảo cứu về Thượng
Đế, nhưng không theo lối quần chúng, thường nhân mà theo đường các vị
thánh hiền, cho nên sẽ không câu nệ hình thức, sắc tướng, mà toàn đề cập
tới Tuyệt đối siêu việt, trừu tượng.
Sự khảo cứu này không phải
là sự khảo cứu suông mà cốt chuyển hóa con người, minh tâm, đắc Đạo.
Thánh Thomas, trong một lúc
xuất thần, gặp chúa Kitô tại Naples. Chúa hỏi ngài muốn được tưởng
thưởng về công phu biên khảo về Thánh thể, ngài trả lời: «Chúa, xin cho
con được Chúa».
Ước gì đó cũng là nguyện ước
và chí hướng của chúng ta trong công trình khảo cứu Dịch Kinh.
CHÚ THÍCH
Cf. I Corinthiens 1, 14: L'homme psychique n'accueille pas ce qui est de
l'Esprit de Dieu.
Dịch Hệ từ thượng (Chương 11)
Xem các bộ sách:Tính Mệnh khuê chỉ, Đạo thư thập nhị chủng,
Tính Mệnh Pháp Quyết minh chỉ v.v...
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1
2
3
4 |
phụ lục 1
2
| STK
|