DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1
2
3
4 |
phụ lục 1
2
| STK
Phần 3
VÔ CỰC LUẬN
Chương 3. Tính danh
và hình dung Vô Cực
A. TÍNH
DANH VÔ CỰC
Vô Cực đứng về phương diện
lý thuyết dĩ nhiên là tuyệt đối bất khả tự nghị nên không thể nào hình
dung mô tả, bất kỳ là bằng từ ngữ, bằng độ số hay bằng hình tượng.
Tuy nhiên, các nhà huyền học vẫn ra công
mô tả Vô Cực.
Các triết gia còn suy cứu
xem bản chất của Hư vô, của Vô Cực là gì, và họ dùng những chữ:
Tiên thiên nhất khí
Nguyên
khí
Hư vô nhất khí để mô tả bản
thể Vô Cực.
Chữ khí 炁 hợp thành bởi chữ:
Vô 旡 ( 無 ) và chữ Hỏa 灬 ( 火 ).
Vô là vô hình, vô tượng.
Hỏa gợi nên một hoạt lực,
một nguyên đông lực, một nguồn sinh lực của hoàn võ.
Dữ Lâm Phấn Thiên tiên sinh viết: «Vô Cực
thời vô cùng tận, vô phương thể, bao trùm muôn phương vũ trụ, vạn cổ
thời gian, núi non thay đổi, linh giác ấy chẳng biến thiên; trời đất có
cùng, linh giác ấy vô tận...»
Đứng về phương diện thời
gian mà bàn về Vô Cực, ta có thể nói rằng, khi nguyên tinh bản thể của
vũ trụ còn tịch nhiên bất động, chưa phát triển huyền năng công lực chưa
tác tạo, vận chuyển, sinh hóa thì gọi là:
Giai đoạn Vô Cực
Khi trong bản thể đã bắt đầu sinh xuất
manh nha các huyền cơ sinh hóa vận chuyển thì gọi là Đạo, là giai đoạn
Thái Cực.
Khi chưa có vạn vật, vũ trụ
mà chỉ mới có Vô Cực, Thái Cực, Tuyệt Đối Thể, thì gọi là Tiên Thiên.
Khi Vô Cực Thái Cực đã phóng phát ra vạn
hữu thi vạn hữu gọi là Hậu Thiên.
Hay nói rõ hơn:
Vô Cực là Tiên Thiên.
Thái Cực là Trung gian, là
khởi thủy.
Vạn hữu là Hậu Thiên.
Ta vẽ thành ba đồ bản như
sau:
1. Vô Cực = Tiên Thiên |
|
2. Thái Cực |
|
3. Hậu Thiên = Vạn Hữu
(Lúc ấy Thái Cực lồng
trong Vạn hữu)
|
|
Nói Vô Cực hay Thái Cực vẫn chỉ là đề cập
đến Thượng Đế, đến Tuyệt đối thể. Cho nên trên lý thuyết tưởng chừng có
sự phân ly, nhưng trên thực tế, hai phương diện ẩn hiện vẫn chỉ là một
Thượng Đế duy nhất.
Vì
vậy các từ ngữ, các tượng hình để chỉ Vô Cực (Unique inconcevable avant
toute manifestation), Thái Cực (Unique concevable, Principe et Fin de
l'univers), có khi khác nhau, nhưng cũng có khi lẫn lộn.
Vì hiểu Vô Cực là Thượng Đế, là Tuyệt đối
bất khả tư nghị, nên chúng ta hiểu tại sao các nhà Huyền học gọi Vô Cực
là: Nguồn sinh vạn vật, Tạo Hóa Chi Nguyên
,
Tiên Thiên Chủ Nhân
, Vạn
Tượng Chủ Tể. 1
Vạn tượng đều từ một nguồn gốc, một căn
bản, một cửa ngõ đó phát sinh nên Vô Cực cũng được gọi là: Căn Đế, Căn
Bản
Căn Nguyên
hay Bất
Nhị Pháp Môn.
Đối với vòng Dịch, thì dĩ nhiên Vô Cực
phải là: Chân Trung
,
Hoàng Trung
, Chính Vị
5, là đầu dây mối rợ Vạn Tượng (Tổng Trì Môn), và cũng là
điểm Thái Hòa, có thể hóa giải được mọi tương khắc, tương dị (Huỳnh bà
xá, Xá lợi tử)
Vì Thượng Đế hư linh bất muội, là vĩnh cửu
vô cương, vô hình, vô tượng, là nguồn mạch phát sinh mọi giá trị, mọi
hạnh phúc, nên Vô Cực còn được gọi bằng những danh hiệu như: Viện Minh,
Đơn, Châu
,
Hi Di Phủ, Hư Vô Chi Cốc, Cực Lạc Quốc v.v..
B. NHÂN CÁCH HÓA VÔ CỰC
Bàn về Vô Cực, về Hư vô có
đủ hạng người: Có triết gia, đạo gia, quần chúng. Cho nên phương thế để
hình dung, mô tả Tuyệt đối, mô tả Vô Cực cũng có nhiều loại, có thể là
trừu tượng, có thể là cụ thể, có thể là vô ngã, có thể là hữu ngã. Quần
chúng thường ưa nhân cách hóa Vô Cực để dễ bề quan niệm, hình dung:
Nho gia gọi là Trời, là
Thượng Đế.
Đạo gia gọi là Trời, là
Ngọc Hoàng.
Phật giáo gọi là Adibuddha (A đề Phật
đà), Vairocana (Tì lư xá gia), hay (Tì lư già na)
,
hay Chakravarti (Monarque universel, Chuyển luân thánh vương).
Kinh Guna Karanda Vỳuha viết: «Khi chưa có
gì, đã có Shambhu. Đó là đấng tự hữu, và vì đấng tự hữu có trước hết nên
gọi là Adibuddha. Tông phái ở Nepal gọi Adibuddha là Vô cùng, thông minh
vô cùng, tự hữu, vô thủy, vô chung, căn nguyên vạn vật v.v...»
Adi Buddha cũng được gọi là Vajradhara, mà
Vajradhara là «Bất tử», chúa tể sinh xuất mọi huyền vi.
Cho nên, nếu ta tạm gác các danh từ ra một bên, mà chỉ giữ nguyên định
nghĩa, ta thấy đạo giáo nào cũng tin có Tuyệt đối thể tự hữu, vô thủy,
vô chung.
C. TƯỢNG HÌNH VÔ CỰC
Các Đạo giáo Á Châu cũng như
các nhà huyền học Âu Châu tượng trưng Vô Cực hay tuyệt đối bằng vòng
tròn trống rỗng 〇.
Tượng hình bằng vòng tròn
gợi ra được nhiều ý niệm.
1) Vòng tròn gợi hình ảnh
một nguồn sinh bất diệt tung tỏa ra muôn phương.
2) Vòng tròn gợi ý niệm toàn
thiện, toàn bích, viên mãn.
Hồng y Giáo Chủ Nicolas de Ceus cũng chủ
trương rằng các thánh hiền xưa đã cố tượng trưng Thượng Đế bằng các
hình, như bằng: đường thẳng vô cùng, bằng tam giác đều có ba góc vuông
và cạnh dài vô tận, bằng hình tròn vô tận, bằng hình cầu vô tận.
Tanon viết: «Vòng tròn là tượng trưng của
tuyệt đối vì vòng tròn là chân nhất căn nguyên cùng đích muôn loài...
gợi nên một hình muôn bề muôn phía như nhau. Chu vi vòng tròn tuợng
trưng một sự hiện diện trừu tượng vô hình, không bao giờ ai thấu nổi vì
không có đầu đuôi, nhưng thực ra vẫn xác định.»
Dùng vòng tròn trắng tượng
trưng Vô Cực, Tuyệt đối thể, tiền nhân đã nói lên được nhiều điều huyền
diệu:
1) Trước khi chưa có đất
trời, chỉ duy có Vô Cực; các ngài vẽ:
2) Khi Tuyệt đối thể hiển
dương, tạo thành vũ trụ, các ngài lồng Vô Cực Thái Cực trong guồng máy
âm dương, phản phúc, thăng giáng, vãng lai. Các ngài vẽ:
3) Khi có vạn hữu, có ngũ
hành, Vô Cực vẫn y nguyên giữa lòng trời đất; các ngài vẽ:
4) Định mạng vũ trụ cũng như
định mạng nhân loại là phải trở về kết hợp với Vô Cực, Tuyệt đối, nên
các ngài vẽ trạng thái giác ngộ, viên giác, kim đơn hay huyền châu,
Thánh thai cũng bằng hình tròn 〇.
Thiết tưởng không gì rõ ràng và ý vị hơn.
Eckhart mô tả trạng thái «Hoàn hư» ấy như
sau: «Tới giai đoạn thứ sáu, con người đã rũ bỏ hết cá tính và sống vĩnh
cửu trong Thiên Chúa; vì đã đạt tới hoàn thiện, con người đã quên hết
cuộc sống phù du phiến diện; con người đã trở thành phản ảnh Thượng Đế,
trở thành Thiên tử. Đó là trình độ vô thượng, tối thượng tĩnh lãng, hạnh
phúc vô biên, trường cửu...»
D. PHÂN LOẠI TÍNH DANH VÔ CỰC
Để có những nhận thức rõ
ràng về Vô cục ta có thể phân loại các từ ngữ tính danh, hình dung Vô
Cực thành những đề mục sau:
1. Vô Cực: Tuyệt đối bất khả
tư nghị: Hư vô, Vô thanh vô xú, vô phương sở v.v.
2. Vô Cực: Căn nguyên của
Vạn vật: Tạo hóa chi nguyên, Tổ khiếu, Toàn thể, Tạo hóa tuyền quật
3. Vô Cực: Nhất thể bất khả
phân: Hồng mông, Hỗn Độn, Bất nhị pháp môn
4. Vô Cực: Cùng đích Vạn
vật: Qui căn khiếu, Phục mệnh quan.
5. Vô Cực: Trường sinh linh
dược: Đơn, Kim đơn
6. Vô Cực: Đạt đạo, đạt đích của Thánh
nhân: Phục qui Vô Cực, Luyện thần hoàn hư, Vô ý, Vô ngã, Vô tất, Vô cố,
Vô dục, Vô niệm, Vô vi, Vô gián
7. Vô Cực: Chủ tể quần sinh:
Tiên Thiên Chủ Nhân, Vạn Tượng Chủ Tể.
8. Từ ngữ Thảo mộc dùng để
tả Vô Cực: Căn, Đế.
9. Từ ngữ Kiến trúc dùng để
tả Vô Cực: Hoàng trung cung, Hi Di Phủ, Huỳnh Đình, Tổng Trì Môn, Huỳnh
Bà Xá, Mậu Kỷ Môn.
10. Từ ngữ Thời gian dùng để
tả Vô Cực: Tiên Thiên.
11. Từ ngữ Triết học dùng để
tả Vô Cực: Sinh thân chi nguyên, Thụ khí chi sơ, Tính mệnh chi cơ, Vạn
hóa chi tổ, v.v...
12. Từ ngữ Nho gia dùng để
tả Vô Cực: Vô Cực, Hoàng Trung, Chính vị, v.v.
13. Từ ngữ Đạo gia, Đơn gia
dùng để tả Vô Cực: Tiên thiên nhất khí, Hỗn nguyên chi tinh, Đơn, Linh
quang.
14. Từ ngữ Phật giáo dùng để
chỉ Vô Cực: Tịnh thổ, Tây phương, Châu, Viên giác, A đề Phật Đà, Uy âm,
Xá lợi tử, v.v..
15. Danh từ số học, phương pháp hình học
dùng để chỉ Vô Cực: Nhất
,
Vòng tròn rỗng 〇,
v.v...
Ta cũng nên ghi nhận rằng
trên phương diện lý thuyết ta có thể phân biệt Vô Cực, Thái Cực, nhưng
trên phương diện thực hành Vô Cực và Thái Cực thường cũng được coi như
nhau, nên các danh từ cũng thưòng dùng lẫn lộn. Hiểu Vô Cực tức là hiểu
Thái Cực.
CHÚ THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1
2
3
4 |
phụ lục 1
2
| STK
|