DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1
2
3
4 |
phụ lục 1
2
| STK
Phần 3
VÔ CỰC LUẬN
Chương 4. Những hậu
quả của quan niệm Vô Cực
Thuyết Vô Cực nay đưa ra
những hậu quả hết sức quan trọng:
1. Người Á Châu đề cập tới
Vô Cực, tới Hư vô tức là tới Thượng Đế vô hình tượng bất khả tư nghị,
tới Tuyệt đối thể vô gián, vô hình, vô tượng.
Người Âu Châu ngoại trừ một
số triết gia lỗi lạc một số học giả uyên thâm, phần đông không hiểu biết
gì về Vô Cực, về Hư vô, nên không thế nào hiểu được các thánh hiền Đông
Á, ngược lại họ cho người Á Châu không hiểu biết gì về Thượng Đế, về
siêu hình Đó là một lỗi lầm hết sức lớn lao của các học giả chuyên
nghiệp Âu Châu, lỗi lầm mà các nhà tư tưởng lỗi lạc Âu Châu như G.G.
Jung, René Guénon đã nhận định thấy.
2. Nói tới Vô Cực, tức là chỉ nguyên nói
tới Thượng Đế khi chưa có van vật vạn hữu, tức là mới bàn đến tiên thiên
(avant la manifestation), chưa bàn đến hậu thiên (après la
manifestation) ()
3. Những vấn đề triết học và
đạo giáo được nêu ra sẽ là:
a) Nếu Vô Cực là Hư vô, vô
gián vô phương vô hình tướng, thì làm sao tạo thành vũ trụ, vạn vật, hữu
hình hữu tướng.
b) Sau khi tạo thành vạn hữu
thì Vô Cực tăng giảm ra sao?
c) Vạn hữu liên quan thế nào
đến Vô Cực.
d) Định mệnh vạn hữu và con
người sẽ ra sao?
e) Như vậy là sẽ phải đề cập
đến những vấn đề:
Căn nguyên của vũ trụ.
Biến hóa của vũ trụ.
Cùng đích của vũ trụ.
4. Từ Vô Cực ra tới vạn hữu
có một trung gian là Thái Cực.
Thái Cực tức là Đạo, là
Logos, là «Ngôi Hai» theo danh từ các triết học, các đạo giáo Tây
phương.
Thái Cực được gọi là Trung
gian.
Vì Thái Cực là sự hiển dương
của Vô Cực.
Vì Thái Cực sẽ phát sinh ra
vạn hữu, sẽ lồng trong vạn hữu, như vậy vạn hữu lại là sự hiển dương
phân hóa của Thái Cực.
Thái Cực, vì lồng trong vạn
hữu, nên y như đã tự giới hạn mình vào trong khuôn khổ vũ trụ không gian
thời gian; vả lại hiển dương tức là đã chịu một giới hạn nào.
Thay vì đề cập ngay tới
những cung cách Vô Cực, Thái Cực sinh hóa ra vạn hữu ta tiếp tục lý luận
trên bình diện lý thuyết:
a) Nếu Vô Cực là vô gián
(continu), thì dẫu có vũ trụ, hay không có vũ trụ, Vô Cực cũng không thể
nào tăng giảm được gì.
Vô cục tất nhiên vô thủy
chung.
Mà khi đã có vũ trụ vạn vật
rồi, những hình hài, sắc tướng cũng không ngăn chặn qua phân được Vô
Cực.
Thành thử Vô hạn, Vô Cực,
vừa ở trong, vừa ở ngoài Hữu hạn
Vô hạn y như là một trùng dương, mà hữu
hạn như là những làn sóng nhấp nhô, trên mặt.
Các khoa học gia đã bắt đầu nhận thức được
thực thể siêu vi, vô hạn ấy.
Các nhà huyền học suy luận
thêm rằng: nếu Vô Cực là vô gián, trường tồn bất biến và là căn để muôn
loài, thì dĩ nhiên có tôi rồi, hay chưa có tôi, Vô Cực ấy vẫn nguyên
vẹn.
Như vậy trong người chúng ta
có một nguyên thể bất biến. Dưới lớp lang hình hài, tâm trí của ta có
một thực thể siêu vi, vĩnh cửu, vô biên. Các nhà huyền học gọi đó là Bản
lai diện mục.
Lại nữa vũ trụ vạn hữu không
thể là những hữu thể khác biệt với Vô Cực, với Thượng Đế, với bản thể
tuyệt đối được, chẳng vậy Tuyệt đối sẽ trở thành tương đối; vô biên, vô
gián sẽ trở thành hữu hạn, gián cách.
Cho nên vạn hữu chỉ có thể là những hiện
tượng của Thượng Đế, vũ trụ là hiện thân của Thượng Đế.
Sự vô biên tế của Thượng Đế
đã được vua David ca tụng trong thánh vịnh 139 như sau:
«Thần trí Chúa ai mà trốn
khỏi
Lánh mặt người biết tới nơi
đâu ?
Lên trời gặp Chúa trên cao.
Xuống mồ gặp Chúa dưới sâu
đất dày.
Mượn hừng đông cánh bay
khoảnh khắc,
Tôi tới miền xa lắc biển
khơi,
Nơi đây vẫn Chúa đưa tôi,
Bàn tay hữu Chúa nắm người
tôi liên.
Dù tôi gọi bóng đêm hãy
đến,
Phủ vây tôi ngày biến thành
đêm.
Chúa trong u tối rõ nhìn,
Ban đêm sáng tỏ như in ban ngày...»
Thượng Đế cũng phán:
«Ta không tràn ngập đất trời sao?»
Sách Minh triết chép: «Thần linh Thiên
chúa chứa đày không gian, và đấng thống nhất muôn vật thấu suốt mọi sự
con người nói.»
Jacob Boehme cũng chủ trương vạn hữu chẳng
qua chỉ là biểu tượng của Thượng Đế, và Thượng Đế tràn ngập vũ trụ.
Cho nên Vô Cực, Hư vô là
Thượng Đế bất khả tư nghị, là nguồn gốc muôn vật. Vạn tượng, vạn hữu
luân lưu trên giòng biến thiên chuyển vận không phải là lung tung vô
chiều hướng, mà chính là để phục hồi nguyên bản.
Dịch Kinh viết:
«Nguyên thủy phản chung»
«Nguyên thủy sẽ trở thành
cùng đích» là vì vậy.
Nếu nguyên thủy đã là Vô Cực
là Trời, thì cùng đích cũng lại là Trời là Vô Cực. Đó là vòng tuần hoàn
vô biên, biến dịch của Tạo hóa và của vũ trụ.
Các nhà huyền học từ Đông
sang Tây đều đồng thanh ghi nhận con người phải tìm ra căn để tâm hồn
mình và cần phải tu luyện để trở về kết hợp với Hư vô với Thượng Đế vô
hình tích.
Niềm tin, cũng như lòng
nguyện ước của các thánh hiền đạo Lão là:
Phục qui Vô Cực
Luyện thần hoàn Hư
Đạo Đức Kinh viết:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn
bản nguyên
Hoàn bản nguyên qui nguyên
phục mệnh
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng
Sách «Tứ bách tự giải» có
câu: «Đả phá Hỗn độn, khiêu nhập Hư
vô.»
«Phanh phui Hỗn độn, băng
chừng Hư vô» cũng không ngoài ý đó.
Chu Liêm Khê viết: «Từ Vô Cực mà suy luận
tới vạn vật tức là suy luận ra đầu đuôi của trời đất. Từ vạn tượng suy
ngược Vô Cực, tức là đầu đuôi của thánh nhân.»
Các nhà Huyền học nhờ suy
luận về Vô Cực vô trụ, vô biên tế nên đã giác ngộ.
Kinh Kim Cương viết: «Ưng vô sở trụ nhi
sinh kỳ tâm.»
(Tìm nơi không dựa nương mà sinh tâm).
Thưa đó là Bản thể tuyệt
đối, là Thượng Đế. Câu trên có thể giải nôm na là phải biết sống kết hợp
với Tuyệt đối thể, mới được trường tồn.
Lục tổ Huệ Năng nhờ nghe câu
này mà giác ngộ. (Xem
Pháp bảo đàn kinh Tự tư Phẩm đệ nhất, Kinh Kim Cương
chương X.)
Các nhà huyền học tìm ra Vô
Cực trong thâm tâm bằng lý luận sau: Vô Cực là vô gián, mà tư tưởng ta
thì gián đoạn; nhưng gián đoạn phải dựa vào vô gián mới có thể phát
sinh, vì vậy Vô Cực phải nằm sẵn trong tâm khảm ta. Ta có thể thấy Vô
Cực vô gián vô sai biệt ấy trong những khi ta không có tư tưởng gì trong
tâm tư, hay trong những khi tư tưởng này đã ngừng và tư tưởng kia chưa
hiện.
Vô Cực vô gián vô sai biệt ấy chính là Bản
lai diện mục, Chân như bản tính hay Bản nguyên tự tính của các nhà huyền
học Phật giáo.
Thần Hội tìm ra Tuyệt đối trong thâm tâm
nhờ nhận định sau đây: Có tư tưởng tức là đã nhập vòng sinh diệt, hình
thức sắc tướng, nhưng tư tưởng ta sinh ra là do tuyệt đối thể, mà tuyệt
đối thể ấy luôn im lìm bất động, dù cho ta có hoạt động, có suy tư đến
bao nhiêu cũng vậy. Thế tức là Vô niệm là căn nguyên cho hữu niệm.
Tìm ra được Vô niệm tức là tìm ra được bản tâm, bản tính, tìm ra được Vô
Cực, được Tuyệt đối.
Hành Dương đạo nhân viết trong quyển
Thượng phẩm đơn pháp đại khái như sau: Các quan năng ta đều do một căn
nguyên trong người sinh xuất, căn nguyên ấy chính là ngọc châu vô giá,
tìm đức căn nguyên ấy là quay trở được về Hư vô.
Ta có thể vẽ như sau:
Công phu tu luyện của tiền
nhân, tuy có những danh từ đa đoan khác biệt như: Nội quan (Lão), Phản
chiếu (Lão), Tri chỉ (Nho), Quan tâm (Thích).
Nhưng mục đích vẫn là vượt khỏi cái tâm
tri giác để trở về «thiên địa chi tâm», về nơi phát xuất ra tinh thần
vật chất, tâm trí, hình hài; trở về bản thể vũ trụ.
Các nhà huyền học Hồi Giáo cho rằng thánh nhân phải biết tẩy trừ hết mọi
trần cấu, mọi niệm lự, để tâm hồn chỉ cờn hàm tàng nguyên có Thiên chúa
bên trong.
Eckhart cho rằng nếu tẩy trừ nhân vi, nhân
tạo, thì thiên chân hiện ra sáng quắc, sáng ngời.
Thánh Jean de la Croix mô tả con đường
thánh, thiện tuyệt hảo đưa tới Thượng Đế toàn bằng chữ Hư vô, Hư không.
Ngài viết: «Từ khi tôi ở trong Không, tôi không còn thiếu gì hết.»
Vì hiểu Vô Cực, Hư vô là bản
thể căn nguyên vũ trụ các nhà Huyền học chú trọng đến công trình trở về
nguồn gốc.
Các ngài gọi thế là: Phục
thần hoàn Hư, Phục qui Vô Cực, Qui nguyên Phản Bản, v.v..
«Hoàn Hư, Phản Bản» suy ra là tìm lại được
bản thể chân thực của mình
,
sống đời sống của Hóa công.
Tóm lại
hiểu Vô Cực tức là hiểu căn nguyên vũ trụ, và con người. Tìm được căn
nguyên vũ trụ và con người, sẽ tìm ra được con đường phản hoàn nguyên
thể.
Tổng kết lại: Vô Sắc Tướng sinh ra Hình
Thức Sắc Tướng; Hình Thức Sắc Tướng đảo ngược lại sẽ thành thế Phản Hoàn
Hồi Phục, chung qui vẫn là phải rũ bỏ hết mọi sự giả tạo hình thức bên
ngoài mới tìm ra được Chân Thể.
Cuối thiên khảo luận này, tưởng chỉ nên
suy nghĩ ý tứ thâm trầm của điển tích «Tượng Võng Đắc Huyền Châu» của
Nam hoa kinh.
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương
1
2
3
4 |
phụ lục 1
2
| STK
|