DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Phần 2
DỊCH LUẬN THIÊN
Mở đầu
Dịch là một cuốn
sách được Thánh Hiền xưa nay sùng thượng. Nho gia coi Kinh Dịch như một
Thánh kinh.
Đức Khổng học
Dịch rất công phu. Ngài về già học Dịch, đọc Dịch, đọc đến ba lần đứt
lề sách mới làm ra các thiên truyện.
Thế mà Ngài còn nói trong Luận Ngữ:
Nếu Trời cho ta sống thêm ít năm nữa, cho ta học xong Đạo Dịch, thì ta
có thể không phạm lỗi lớn nữa.
Ngài đã viết
Thập dực để bổ sung cho Dịch Kinh. Thập dực là:
1. Thoán thượng
truyện để cắt nghĩa Thoán từ ở Thượng Kinh.
2. Thoán hạ
truyện để cắt nghĩa Thoán từ ở Hạ Kinh.
3. Tượng thượng
truyện để giải các Tượng trong Thượng Kinh.
4. Tượng hạ
truyện để giải các Tượng trong Hạ Kinh.
5. Hệ Từ thượng
truyện
6. Hệ Từ hạ
truyện
7. Văn ngôn
truyện
8. Thuyết quái
truyện
9. Tự quái truyện
10. Tạp quái
truyện
Trình Di viết
Dịch truyện. Chu Hy viết Dịch kinh bản nghĩa, Dịch học Khải Mông. Thiệu
tử nhân
đọc Chu Dịch đã
viết thành bộ Hoàng Cực Kinh Thế.
Khảo thư tịch đạo
Lão, ta thấy Đạo Đức Kinh, Xung Hư Chân Kinh, Nam Hoa Kinh có rất nhiều
điểm liên quan với Dịch. Đạo gia, Đơn gia toàn áp dụng định luật Dịch để
tu đức, luyện thần.
Ngụy bá Dương đã áp dụng Dịch lý viết
thành bộ Tham Đồng Khế.
Nhìn sang phía
Đạo Phật, ta thấy Vương Cảnh Mạnh lấy Thiền Tông minh Dịch, Thích Ngẫu
Ích lấy Dịch lý áp dụng vào khoa Thiền học.
Hiện nay ta còn thấy những bộ như Dịch
Học Thiền giải của Trí Húc Thiền sư v.v...
Giảng bình về
Dịch xưa nay đã có hơn 700 tác giả.
Ví dụ:
+
Vương Bật chú
giải Dịch
+ Mạnh Hỉ
+ Kinh Phòng đem
các quẻ phối hợp với Thập Can gọi là Nạp Giáp.
+ Tuân Sảng lấy
nhẽ thăng giáng để giải Dịch.
+ Lai Tri Đức lấy
lẽ thác tống tức là Âm Dương điên đảo, vãng lai để giải Dịch.
+ Tiêu Tuần lấy
lẽ bàng thông tức là Âm biến Dương, Dương biến Âm để giải Dịch.
Ngoài ra còn có
nhiều danh nhân, danh sĩ đã dùng Dịch để đoán định vị lai, trong số đó
có: Trương Lương (Hán), Nghiêm Quân Bình (Hán), Chư Cát Lượng (Tam
Quốc), Lý Thuần Phong (Đường), Viên Chính Cương (Đường), Thiệu Khang
Tiết (Tống), Lưu Cơ (Lưu bá Ôn) (Minh).
Dịch có ba loại:
1.- Liên Sơn lấy
quẻ Cấn làm căn bản.
2.- Qui Tàng lấy
quẻ Khôn làm căn bản.
3.- Chu Dịch lấy
quẻ Càn làm căn bản.
Hiện nay Liên
Sơn, Qui Tàng đã thất lạc
, chỉ còn lại Chu Dịch.
Trịnh Huyền cho
rằng: đời nhà Hạ có Liên Sơn, đời nhà Ân có Qui Tàng, đời nhà Chu có Chu
Dịch.
Trịnh Huyền giải
thích ba nhan đề ấy như sau:
- Gọi là Liên Sơn
để tượng trưng cho mây từ đầu các ngọn núi bốc lên, miên man không
ngừng.
- Gọi là Qui Tàng
vì Vạn Vật đều tàng ẩn bên trong.
- Gọi là Chu Dịch
vì biến dịch phổ quát không đâu không có.
Hội ý tác giả, ta
thấy rằng dẫu Dịch Kinh có thay tên, đổi quẻ, nhưng ý nghĩa và mục đích
trước sau vẫn là một.
Dịch cốt bàn về
Vạn Vật, Vạn Tượng liên tục biến thiên, phát triển như mây ùn ùn liên
tục bốc lên từ những dãy núi xa xăm. Dịch bàn về sự biến thiên,
mà biến thiên thì thường xuyên diễn biến khắp nơi trong vũ trụ. Nhưng
sách Chính nghĩa không đồng quan điểm với Trịnh Huyền và cho rằng:
Sách Dịch thời
Thần Nông gọi là Liên Sơn.
Sách Dịch thời
Hoàng Đế gọi là Qui Tàng.
Sách Dịch thời
Chu gọi là Chu Dịch. Như vậy Chu Dịch là sách Dịch đời Chu, cũng như Chu
Lễ, Chu Thư, v.v..
Học Dịch phải tốn
công phu. Có tốn công phu, mới tìm ra được cái hay, cái đẹp của Dịch.
Dưới đây ta sẽ lần lượt khảo sát về chữ Dịch dưới nhiều tiết mục:
1.- Chữ Dịch theo
Từ nguyên
2.- Dịch là biến
Dịch
3.- Dịch là bất
Dịch
4.- Dịch là giản
dị
5 - Dịch là nghịch số
6 - Dịch là Tượng
Chương 1. Chữ Dịch
theo Từ Nguyên
Học Dịch trước
tiên cần phải hiểu chữ Dịch. Hiểu được chữ Dịch tức là đã hiểu được phần
nào ý người viết sách. Bồ Điền Trịnh thị nói: Chữ Dịch do hai chữ
Nhật Nguyệt tạo nên. Lý trong thiên hạ có thể tóm thâu trong một
Chẵn một Lẻ.
Suy ra: Nhật là mặt trời, tượng trưng
cho sự bất biến, Hằng Cửu, viên mãn. Nguyệt là mặt trăng, tượng trưng
cho sự biến thiên, tạm bợ, khuy khuyết. Như vậy, chữ Dịch gồm trong thân
cả 2 nguồn sinh lực tương đối, lẽ tôn ti của Âm Dương, lẽ biến
hằng của vũ trụ, sự Hằng Cửu của Bản Thể do vừng Dương đại
diện, và các trạng thái doanh hư, tiêu trưởng của Vạn Hữu, do
vừng Nguyệt tượng trưng.
Như vậy, Dịch bao
quát cả biến hằng, bao quát cả hiện tượng lẫn bản thể.
Dịch là Toàn Nhất.
Chữ Dịch mà tách
đôi sẽ thành ra Nhật, Nguyệt hai vừng, Âm Dương chia rẽ, nhật dạ cách
trùng.
易
➙
日 +
月
Sự qua phân
này sẽ là đầu dây mối rợ, sinh ra mọi hiện tượng trong trời đất. Dương
là Càn, Âm là Khôn, nên Dịch cho rằng: Càn Khôn là cửa của Dịch.
Mới hay:
Một Dịch qua phân, hóa đất trời,
Đất trời cảm ứng,
sẽ sinh sôi,
Sinh sôi, tạo
tác, thành muôn vật,
Muôn vật chung
qui một Dịch thôi.
Khi mà Nguyên
Thể đã chia ly, phân tán, thì mầm đấu tranh, chống đối tự nhiên sẽ
sinh ra. Đấu tranh, chống đối ấy xét về một phương diện là một động cơ
hết sức hữu hiệu để sinh biến hóa, vì thế Dịch nói: Cương nhu tương
thôi nhi sinh biến hóa.
Nhưng nếu chỉ
thấy sự đấu tranh, chống đối giữa Âm Dương,
thì mới thấy được chiều biến hóa đưa đến chia ly, chết chóc, đổ vỡ, mới
thấy được có một chiều hướng của vũ trụ.
Ngoài chiều hướng
trên, Vũ trụ cũng như Dịch còn có một chiều hướng thứ hai: là chiều
Âm Dương tương sinh, tương thừa. Âm Dương vẫn có thể
tiếp tay nhau, có thể thỏa hiệp, đoàn tụ, để làm nên đại nghiệp. Đây là
chiều hướng xây dựng, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, cố hàn gắn lại
những gì đã đổ vỡ, đoàn tụ lại những gì đã chia ly, tản lạc. Thánh Hiền
cho rằng chiều hướng này mới là chính yếu. Các đạo gia lý luận một cách
rất sâu sắc như sau:
Nếu Bản Thể
vì qua phân nên đã thành Âm Dương, thành Vạn Hữu, thì ta cũng có thể
phối hợp Vạn Hữu lại thành Âm Dương; phối hợp Âm Dương lại để thành Bản
Thể.
Mà Âm Dương chẳng qua là Thần Khí, Tâm Thần trong ta.
Tu luyện cho
Tâm kết hợp với Thần, khiến cho Thần Khí hợp nhất, không để cho
ngoại vật khiên dẫn, làm tản lạc ra bên ngoài; tu luyện Tâm Thần để trở
thành Siêu Nhân, thành Tiên Thánh, đó là mục đích của công trình mà Đạo
gia gọi là luyện đơn.
Đại đỗng Chân
kinh viết:
Nhật Nguyệt hợp
bão nhi thành Thái Cực.
Theo Đạo gia, chữ
Đơn chính là chữ Dịch biến thể, vì có đầu Nhật, mà chân là Nguyệt.
Thế mới hay:
Một Dịch qua phân
tạo đất trời.
Âm Dương cách
trở, mới chia phôi
Tâm thần ví thể
đoàn viên lại,
Thái Cực rồi ra
sẽ rạng ngời.
Một chữ Dịch phân
ra, thì thấy cách thức trời đất Vạn Vật phát sinh, thấy căn bản của Vạn
Hữu; hợp lại thì thấy cùng đích muôn loài, thấy phương thức tu luyện để
tiến tới Thần minh. Như vậy, chẳng phải là kỳ diệu sao?
Học Dịch để
quán thông thượng hạ, vạn biến phùng nguyên, há chẳng phải là một
công việc thích thú lắm sao?
CHÚ THÍCH
|