DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1
2 3
4 5
6 7
8 9
| chương
1
2 3
4 5
6
Phần 2
DỊCH LUẬN THIÊN
Chương 2. Dịch là
biến thiên
Nếu chỉ dùng lý
trí mà suy luận, chỉ dùng giác quan mà nhận xét, thì ta thấy Vạn Vật,
Vạn Hữu biến ảo, khôn lường, không một phút giây nào ngừng nghỉ!
Sách Dịch có mục
phiêu khảo sát mọi hiện tượng biến thiên của hoàn võ và suy ra các định
luật chi phối các biến thiên ấy, vì thế một trong những nghĩa của Dịch
là biến thiên.
Vạn Vật biến
thiên, lịch sử biến thiên, tâm tư con người biến thiên. Sự kiện ấy không
một ai có thể chối cãi được. Khổng tử đứng trên giòng sông nói:
Chảy trôi như
thế suốt đêm ngày
Ý ngài muốn nói
Vạn Vật như giòng sông trôi chảy đêm ngày, không bao giờ ngừng nghỉ.
Sách Thúy Hư
Thiên viết:
Nhãn tiền vạn
sự khứ như thủy
Thiên địa hà
dị nhất phù âu
Tạm dịch:
Vạn sự nhãn
tiền trôi tựa nước,
Đất trời bèo
bọt khác chi nhau
Phật giáo nói:
Vạn pháp vô thường. Vạn pháp, vì chỉ là những hiện tượng của
vũ trụ, nên có sinh, có diệt, có tăng, có giảm, có thủy, có chung.
Héraclite, triết
gia Hi Lạp chủ trương thuyết Vạn Vật biến thiên đã viết: Không ai vào
được cùng một giòng sông hai lần... Sự đời tụ tán, vãng lai!
Các tao nhân mặc
khách cũng thường hay lấy cuộc tang thương biến đổi làm đề tài
ngâm vịnh.
Ôn Như Hầu than
thở:
Lò cừ nung
nấu sự đời,
Bức tranh vân
cẩu vẽ người tang thương.
Nguyễn Công Trứ
vịnh nhân sinh:
Ôi nhân
sinh là thế ấy,
Như bóng
đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao,
Ba mươi
năm hưởng thụ biết chừng nào,
Vừa tỉnh
giấc nồi kê chưa chín,
Vật thái
mạc cùng vân biến huyễn,
Thế đồ
vô lự thủy doanh hư.
Cái hình
hài đã chắc thiệt chưa?
Mà lẽo
đẽo khóc sầu rứa mãi.
Trời đất
hỡi có hình, có hoại,
Ỷ chi
chi mà chắc chắn chi chi?...
Nhìn sang phía Âu
châu, ta thấy các văn gia, triết gia cổ kim phân chia thành 2 phái:
1.- Phái chủ
trương Vạn Vật biến thiên đó có:
Platon
Homère
Hésiode
Héraclite
Hobbes
Leibniz
Hegel
Bergson
Whitehead v.v
Phái này thiên về
quan điểm biến Dịch của vũ trụ.
2.- Phái chống
đối chủ trương biến thiên, như:
Parménide
Démocrite
Descartes
Spinoza
Bradley
Spir
Meyerson v.v.
[7]
Phái này thiên
về quan điểm Hằng Cửu của vũ trụ. Thay vì đi sâu vào chi tiết và để quan
niệm cho chính xác vấn đề biến thiên, chúng ta ghi nhận:
1.- Bản Thể không
biến thiên
2.- Chỉ có hình
thức, hiện tượng biến thiên
3.- Sự biến
thiên, diễn tiến từ cực đoan này đến cực đoan khác. Á châu nói: Âm biến
Dương, Dương biến Âm; Dịch cùng tắc biến. Âu châu nói: Nóng thành lạnh,
lạnh thành nóng, cứng thành mềm, mềm thành cứng... Tức là biến thiên từ
chính đến phản.
Quan niệm biến
thiên có lẽ đã được manh nha từ hiện tượng biến dịch tuần hoàn của vũ
trụ, như thủy triều, như ngày đêm, thức ngủ, hô hấp v.v....
Có lẽ vì thế mà
Dịch Kinh đã nói: Cương Nhu tương thôi, nhi sinh biến hóa.
Và Héraclite đã
nói: biến dịch do mâu thuẫn, do tương phản phát sinh.
Từ 2 thế kỷ nay,
nguyên lý biến Dịch, cũng như các định luật biến dịch đã được khoa học
và triết học Âu Châu xác nhận.
A.- Về phía
Thiên Văn học
người ta nhận thấy:
1.- Các vì sao
vận chuyển, biển đổi phương vị luôn luôn theo những chu kỳ nhất định.
2.- Vũ trụ cũng
theo định luật tụ tán.
Ngày nay vũ trụ
đang trong thời kỳ bành trướng tản mạn. Điều này đã được xác nhận nhờ
phương pháp tán quang, và nhờ nguyên lý Doppler - Fizeau
Đó cũng là giả thuyết của Georges
LemaÛtre đã được Hubble và Eddington xác nhận.
3.- Các vì sao
cũng theo định luật thịnh suy, tiêu tức. Các vì sao ngày nay đã được
phân chia ra nhiều hạng sao non, sao già, tùy theo nhiệt độ và màu sắc
của sao. Thế là các vì sao cũng có sinh, trưởng, lão, tử.
B.- Về phía
Vật Lý học
Sadi - Carnot (1822 - 1888) đã tìm ra nguyên lý Dương tiêu Âm trưởng,
nghĩa là hoạt lực ngày một tiêu, tiềm lực ngày một tăng.
C.- Về phía
Địa Lý,
Lyell khám phá ra rằng mặt đất luôn luôn biến chuyển. Động cơ biến
chuyển là sức gió, sức nước, sức thác, sức biển, sức sông, sức núi lửa,
sức đất.
D.- Về phía
Vạn Vật học:
Lamarck (1774 -
1829), Darwin (1809 - 1882), De Vries (1848 - 1935) chủ trương Vạn Vật
biến hóa từ loài này sang loài khác. Động cơ phát sinh ra sự biến hóa
nói trên là:
- Sự thích ứng
với hoàn cảnh
(Lamarck)
- Sự đấu tranh
sinh tồn, ưu thắng, liệt bại (Darwin)
- Sự di truyền các đặc tính tập thành (Lamarck -
Darwin)
- Sự sậu biến
(Mutationnisme) (De Vries)
E.- Về phía
Triết học
Hegel (1770 - 1831), Engels (1820 - 1895) và Karl Marx (1818 - 1883) đã
làm sống động lại thuyết biến dịch mà Héraclite đã chủ trương từ 500 năm
trước kỷ nguyên, mà Đông phương đã chủ trương từ 2,600 năm trước kỷ
nguyên.
Hegel chủ trương:
Dương tôn, Âm ti, tinh thần trọng hơn vật chất, tinh thần sinh ra
vật chất, và sự biến thiên là do mâu thuẫn nội tại phát sinh; mục đích
là để tinh thần ngày một phát triển, ngày một đi tới chỗ thành toàn.
Đối với Hegel,
lịch sử là sự phát triển của tinh thần phổ quát trong thời gian.
Engels và Marx
cũng chủ trương Vạn Vật biến
thiên, nhưng có
những quan điểm ngược với Hegel. Học thuyết biến dịch của Engels và Marx
được gọi là Duy vật biện chứng pháp và Duy vật sử quan.
Duy vật biện
chứng pháp
có thể tóm tắt như sau:
1.- Vật chất tự
hữu và hằng cửu
2.- Vạn Vật biến
thiên.
3.- Biện chứng
pháp là khoa học khảo sát về các định luật chi phối sự biến động cả của
ngoại giới, cả của tư tưởng con người.
Chữ biện chứng
bao hàm 3 ý nghĩa:
a). Sự biến động
nội tại của thực thể.
b). Phương pháp
khảo sát thực thể trên bình diện biến thiên.
c). Hành động
cách mạng để thúc đẩy sự biến động trong xã hội loài người bằng cách
kính thích những mâu thuẫn nội tại.
4.- Đối với biện
chứng pháp, không có gì là rốt ráo, là tuyệt đối, là thần thánh... tất
cả chỉ là một quá trình liên tục của biến thiên tạm bợ.
5.- Sự biến thiên
diễn biến nhờ 4 yếu tố:
a). Động lực nội
tại
b). Các sự biến
thiên đều ảnh hưởng lẫn nhau.
c). Biến thiên
nhờ mâu thuẫn nội tại
d). Sự nhảy vọt
bất thần, lượng có thể hóa thành phẩm, vật này có thể sinh vật kia,
khinh khí, dưỡng khí có thể sinh ra nước; nước có thể biến thành đá, hay
hóa thành hơi; vật chất nhờ đó có thể sinh ra tinh thần.
6.- Áp dụng duy
vật biện chứng pháp vào quốc gia xã hội, người Mác Xít cho rằng:
a). Lịch sử đã
diễn tiến không phải vì ngẫu nhiên, cũng không phải vì một quyền năng
xấu tốt nào bên ngoài, mà vì những định luật bên trong.
b)- Xã hội đã
diễn biến qua nhiều hình thức (xã hội cổ sơ, phong kiến, tiểu tư sản, tư
bản...)
c)- Những điều
kiện vật chất kinh tế, những phương tiện sản xuất, và giai cấp đấu tranh
là những yếu tố, những động cơ đã thúc đẩy sự biến thiên ấy.
d)- Cho nên họ
chủ trương có thể thúc đẩy sự biến thiên tiến hóa bằng cách gây mâu
thuẩn, bằng cách làm Cách mạng.
e)- Mục đích tối
hậu là giải phóng con người, khỏi mọi sự tù túng lệ thuộc, để con người
thống trị được thiên nhiên.
Đó là đại cương
Duy vật sử quan, tức là Duy Vật Biện Chứng Pháp áp dụng vào lịch sử loài
người.
Trên đây ta đã
toát lược học thuyết của Hegel và học thuyết Marx Engels. So với Kinh
Dịch ta thấy có nhiều điểm tương đồng, tương dị.
1.- Tương đồng vì
Dịch cũng như Hegel, cũng như Marx, Engels chủ trương Vạn Tượng biến
thiên; biến thiên vì mâu thuẫn nội tại.
2.- Tương dị vì
Dịch chủ trương Thái Cực siêu Âm Dương, siêu tinh thần và vật chất, bao
quát tinh thần và vật chất, sinh ra tinh thần và vật chất, làm căn cốt
cho cả tinh thần lẫn vật chất. Trái lại Hegel thì duy thần, Marx, Hegels
thì duy vật.
3.- Dịch cho rằng
cô Dương bất sinh, cô Âm bất hóa. Còn Hegel, cũng như Marx, Engels, chủ
trương hoặc là duy có Dương (Tinh thần) hoặc là duy có Âm (vật chất) thì
lấy đâu ra cặp mâu thuẫn nội tại để sinh ra biến hóa được.
4.- Dịch chủ
trương dưới những hình thức biến thiên còn có Bản Thể bất biến, trái lại
Marx, Engels cho
rằng cái gì cũng
vô thường, vô định cả.
5.- Dịch chủ
trương Âm Dương có khắc nhưng lại có sinh, tức chủ trương không
phải nguyên có sự đấu tranh, chống đối mới sinh ra được biến thiên, mà
còn có cả sự đoàn kết, hợp tác, xây dựng nữa. Đó là điều mà Marx, Engels
ít nói tới.
6.- Dịch áp dụng
khoa học Dịch vào sự cải thiện nội tâm, thần thánh hóa con người, vào sự
thích ứng với hoàn cảnh cho khéo léo để có một đời sống lý tưởng, Marx
Engels áp dụng khoa học Dịch vào sự canh cải ngoại cảnh và vật chất.
7.- Dịch bắt
chước đường lối của Trời, nên hiếu sinh, chủ nghĩa Các Mác vì vụ những
thành quả nhãn tiền bên ngoài nên đã tỏ ra hiếu động, hiếu sát.
8.- Dịch cho rằng
Vạn Vật, Vạn Tượng biến thiên để phát huy, tận dụng mọi khả năng, ngõ
hầu cuối cùng nhận ra được Bản Thể bất biến, và trở về được với Bản Thể
bất biến. Hegel cũng đã có cái nhìn cho tới chung cuộc như Dịch Kinh.
Trái lại, Marx
Engels không có tầm nhìn xa như vậy và không biết, hoặc không muốn đề
cập đến định luật Thiên địa tuần hoàn chung nhi phục thủy.
Để tổng kết lại, ta thấy rằng đứng trước hiện tượng Vạn Vật, Vạn Hữu
biến thiên, Dịch kinh đã cố tìm cho ra:
1.- Những định
luật chi phối sự biến thiên ví dụ như định luật sinh, trưởng, lão, tử
v.v..
2.- Động cơ thúc
đẩy biến thiên, tức là Âm Dương tương sinh, tương khắc.
3.- Chiều hướng
biến thiên tức là hướng ngoại, hướng nội, hướng hạ, hướng thượng; ly
tâm, hướng tâm v.v..
4.- Mục đích của
cuộc biến thiên tức là phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực của mình,
trở về với nguyên bản, với Tuyệt đối. Dịch muốn người học Dịch áp dụng
những định luật biến dịch, những nhận định về biến dịch vào bản thân để
có thể thực hiện được một đời sống lý tưởng, để có thể giúp mình, giúp
người thần thánh hóa bản thân, cải thiện hoàn cảnh, cùng tiến tới một
tương lai vô cùng huy hoàng và tốt đẹp.
CHÚ THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1
2 3
4 5
6 7
8 9
| chương
1
2 3
4 5
6
|