DỊCH KINH YẾU CHỈ

Hướng đi của Thánh nhân

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

Mục lục | Lời nói đầu | Phần 1  2  3  4  5  6  7  8  9 | chương 1  2  3  4  5  6


Phần 2

DỊCH LUẬN THIÊN

Chương 4. Dịch là giản dị

 

Dịch kinh cũng như vũ trụ, nếu xét về phương diện Hào Quải, Vạn Tượng biến thiên, thì phức tạp vô cùng tận. Ngược lại, nếu xét về phương diện Vô Cực Thái Cực, phương diện Bản Thể thì thực là giản dị.

Vì thế Dịch còn có nghĩa là giản dị.

Cho nên Dịch chỉ giản dị nếu ta nắm được đầu mối Dịch, then chốt của Dịch, xem được bộ mặt thực của Dịch, khi chưa biến hóa. Mới hay:

Chí đạo chớ tìm trong biến hóa,

Lẽ trời đừng kiếm chỗ tần phiền [1]

Hệ Từ bàn về sự giản dị của Dịch rất khéo léo Tạm Dịch như sau:

Càn Khôn dễ biết dễ làm,

Dị nên dễ biết, giản càng dễ theo.

Dễ hay, nên sẽ dễ yêu,

Dễ theo, nên sẽ chắt chiu thi hành.

Có yêu,trường cửu mới sinh,

Có làm, mới có công trình lớn lao,

Hiền nhân, đức cốt bền lâu,

Hiền nhân, sự nghiệp cơ mầu lớn lao.

Lẽ trời giản dị xiết bao.

(Tìm nơi phiền toái thấy sao lẽ trời)

(Lẽ trời giản dị thấy rồi)

Ngôi Trời cao cả tức thời hiện ra [2]

Phục Mệnh Thiên viết: Chí đạo bất phiền, nhân tự muội [3]

Dịch:

Chí đạo chẳng tần phiền,

Chỉ tại người u tối.

Lãng Nhiên Tử viết:

Chưa hay thần thất, nghìn điều rối,

Đạt được tâm điền, vạn sự không [4]

Tuy lời lẽ có khác nhau, nhưng Tiên Thánh, Tiên Hiền đều quan niệm rằng: Đạo Trời chẳng khó, Đạo Dịch thực dễ. Khó là vì mình tự lao mình vào rắc rối khó khăn. Dễ là vì khi đã tìm ra được Thái Cực, ra Đạo, ra Bản Thể ẩn khuất sau Hào, Quải, sau Hiện Tượng, là đã bắt được vi-ý của cổ nhân rồi.

Tại sao gọi được rằng Dịch là giản dị?

Dịch giản dị, vì coi muôn loài là ảnh tượng, là biểu dương của Tuyệt Đối, y thức như Hào Quải là biểu tượng của Thái Cực.

Dịch giản dị, vì chủ trương Tuyệt Đối, chẳng có xa người mà đã ở ngay trong lòng người, chẳng có xa Vạn Hữu mà đã ở ngay trong lòng Vạn Hữu, như Thái Cực đã nằm ngay giữa các Hào Quải. Dịch giản dị, vì chủ trương thiên biến vạn hóa trong trời đất đều do sự tương khắc, tương thừa của Âm Dương sinh ra. Mà Âm Dương tức là khí chất, tức là tinh thần, vật chất. Những sự biến hóa của vũ trụ có định luật, có tiết tấu hẳn hoi, vãng lai, phản phúc tuần hoàn rồi cuối cùng lại trở về Nguyên Bản.

Nếu muôn loài đều theo định luật tuần hoàn ấy, nếu nhân quần đều theo định luật tuần hoàn ấy, thì mỗi một người cũng phải theo định luật ấy. Như vậy, học Dịch cốt là tìm cho ra căn cốt siêu nhiên của mình, tìm cho ra Thái Cực, cho ra Tuyệt Đối ngay trong đời mình, vì một đời cũng như vạn đời, một ngày cũng như vạn cổ. Leibniz định nghĩa giản dị là bất khả phân [5].

Như vậy thì trong khắp vũ trụ chỉ có Tuyệt đối là bất khả phân, cũng như trong Dịch chỉ có Thái Cực là bất khả phân. Cho nên khi nói Dịch là giản dị, tức là cổ nhân đã ngụ ý dạy ta phải tìm cho được Tuyệt Đối, được Thái Cực dưới mọi hình thức biến thiên, dưới mọi lớp lang Hào, Quải.

Người Hi Lạp cho rằng sự giản dị là Ấn tín của Chân Lý. Đối với các bậc danh nhân như Descartes, Leibniz, Poincaré hay Einstein, sự giản dị cũng là hướng đạo đưa tới Chân Lý. [6]

Ngụy Bá Dương viết trong Tham Đồng Khế:

Đạo yếu huyền vi,

Thiên cơ thâm viễn.

Đạt giả duy giản duy dị,

Nhi mê giả dũ phiền, dũ nan dã [7]

Dịch:

Tinh hoa Đạo thể huyền vi,

Thiên cơ thâm viễn, khó suy, khó lường,

Biết ra giản dị, dễ dàng,

Mê thời đã khó, lại càng khó thêm.

Trương Hoành Cừ khi luận về khí Thái hòa sinh Vạn Vật đã cho rằng: mới đầu thì cơ vi dị giản, nhưng càng về sau càng quảng đại kiên cố [8].

Cao Trung Hiến bình rằng: Gọi là cơ vi, dị giản vì lúc đầu chỉ có một khí lưu hành, lặng lẽ vần xoay. Gọi là quảng đại kiên cố tức là đề cập tới khi đã thịnh đạt, sung mãn, mỗi ngày một đổi mới.[9] Một khí ấy (Thái Hòa) vừa giao động thì ban đầu chưa có hình tích, nhưng Vạn Vật hóa sinh mà chẳng thấy khó khăn. Đó là sự dễ dàng đề cập ở quẻ Càn.

Đến khi muôn vật hiển lộ, bao la khoáng đại, có hình tích thấy được, xem được, nhưng muôn vật vẫn thư thái, chẳng cảm thấy mệt mỏi. Đó là sự dễ dàng đề cập ở quẻ Khôn . Càn sinh vật cách giản dị, Khôn thành vật một cách giản dị. [10]

Nguyễn Ấn Trường bình về sự giản dị của Dịch lý, cũng như của trời đất như sau:

*Thiên hạ vạn cửa, chung qui chỉ có Đóng với Mở;

* Thiên hạ Vạn Lý, chung qui chỉ có Chính với Tà;

*Thiên hạ Vạn Thể, chung qui có Động với Tĩnh;

*Thiên hạ Vạn Số, chung qui có Chẵn với Lẻ;

*Thiên hạ Vạn Tượng, chung qui có Đực với Cái;

*Thiên hạ Vạn Chất, chung qui có Cứng với Mềm.

Cho nên đạo của Dịch có gì đâu, chẳng qua một Âm, một Dương thôi vậy.[11]Vậy lĩnh hội ý Dịch, nếu muốn giản dị ta sẽ chọn:

- Thái Cực giữa muôn nghìn ảnh tượng.

- Chọn số Một giữa muôn ngàn số.

- Chọn Tâm điểm giữa Hào Quải trên vòng Dịch. Cũng vì vậy mà Trang tử nói: Đắc Nhất vạn sự tất; mà đạo gia gọi là Thủ Trung, Bão Nhất.

Thế tức là lấy Một Tượng quán thâu vô số Tượng, lấy Một Số quán thâu vô số Số, lấy Một Đạo quán thâu vô số Đạo, lấy Một Tâm quán thâu vô số Tâm. [12]

Nếu muốn giản dị hơn nữa: Ta sẽ chọn:

- Vô Tượng

- Vô Vị

- Vô Số, Vô Chất

- Vô Thanh, Vô Xú

Như vậy chẳng phải là giản dị đến tuyệt mức sao? [13]


CHÚ THÍCH

[1] Chí đạo bất kỳ ư biến hóa. Giản dị nhi thiên hạ chi lý đắc. 至 道 不 期 於 變 化. 簡 易 而 天 下 之 理 得.

[2] Càn dĩ dị tri, Khôn dĩ giản năng. Dị tắc dị tri, giản tắc dị tòng. Dị tri tắc hữu thân, dị tòng tắc hữu công. Hữu thân tắc khả cửu, hữu công tắc khả đại. Khả cửu tắc hiền nhân chi đức, khả đại tắc hiền nhân chi nghiệp. Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc thực. Thiên hạ chi lý đắc, nhi thành vị hồ kỳ trung hỹ. 乾 以 易 知, 坤 以 簡 能.  易 則 易 知, 簡 則 易 從. 易 知 則 有 親, 易 從 則 有 功. 有 親 則 可 久, 有 功 則 可 大. 可 久 則 賢 人 之 徳, 可 大 則 賢 人 之 業. 易 簡 而 天 下 之 理 得 實. 天 下 之 理 得, 而 成 位 乎 其 中 矣.— Dịch, Hệ Từ thượng chương I.

[3] Phục Mệnh Thiên trang 3a.

[4] Lãng Nhiên Tử vân: Vị minh Thần thất thiên ban nhiễu. Đạt liễu tâm điền vạn sự vô. 未 明 神 室 千 般 撓. 達 了 心 田 萬 事 無.— Kim Đơn Đại Thành trang 5a.

[5] J’appelle simple ce qui n’a pas de parties’

(Leibniz) André Lamouche, la Destinée humaine page 67.

[6] Car ce n’est pas seulement pour les Grecs que la simplicité aura été 'le sceau de la vérité’. Aussi bien pour Descartes et Leibniz que pour Poincaré et Einstein la simplicité est un guide vers la vérité.

André Lamouche, La Destinée humaine, p. 66.

[7] Tham Đồng Khế quyển thượng trang 25a.

[8] Kỳ lai dã cơ vi dị giản, Kỳ cứu dã quảng đại kiên cố.  其 來 也 幾 微 易 簡, 其 究 也 廣 大 堅 固.

(Trương Hoành Cừ học án) -- Tống Nguyên Học Án, sách 8 - quyển 17 trang 5a.

[9] Cơ vi dị giản vị thử khí lưu hành thủy tắc tiềm phu mặc vận nhi dĩ. Quảng đại kiên cố vị như hanh lợi chi thời, tắc phú hữu nhật tân... 幾 微 易 簡 謂 此 氣 流 行 始 則 潛 孚 默 運 而 已. 廣 大 堅 固 謂 如 亨 利 之 時, 則 富 有 日 新.— Ib. trang 5b.

[10] Thử khí nhất cổ, sơ vô hình tích, nhi Vạn Vật hóa sinh, bất kiến kỳ nan giả vi Càn chi dị. Cập thứ vật lộ sinh, hồng tiêm tất đạt hữu tích khả kiến, diệc bất giác kỳ lao giả vi Khôn chi giản. Càn dĩ thử thủy vật, Khôn dĩ thử thành vật. 此 氣 一 鼓, 初 無 形 跡, 而 萬 物 化 生, 不 見 其 難 者 為 乾 之 易. 及 物 露 生, 洪 纖 畢 達 有 跡 可 見, 亦 不 覺 其 勞 者 為 坤 之 簡. 乾 以 此 始 物, 坤 以 此 成 物. —  Tống Nguyên Học Án, quyển 17 - trang 5b.

[11] Thiên hạ chi vạn hộ, bất ngoại ư nhất hạp nhất tịch. Thiên hạ chi vạn lý, bất ngoại ư nhất chính nhất phụ. Thiên hạ chi vạn thể, bất ngoại ư nhất động nhất tĩnh. Thiên hạ chi vạn số, bất ngoại ư nhất cơ nhất ngẫu. Thiên hạ chi Vạn Tượng bất ngoại ư nhất phương nhất viên. Thiên hạ chi vạn tính bất ngoại ư nhất tẫn nhất mẫu. Thiên hạ chi vạn chất bất ngoại ư nhất cương nhất nhu. Sở vị đại Dịch chi đạo vô tha, nhất Âm nhất Dương tận chi hỹ. 天 下 之 萬 戶, 不 外 於 一 闔 一 闢. 天 下 之 萬 理, 不 外 於 一 正 一 負. 天 下 之 萬 體, 不 外 於 一 動 一 靜. 天 下 之 萬 數, 不 外 於 一 奇 一 耦. 天 下 之 萬 象, 不 外 於 一 方 一 圓. 天 下 之 萬 性, 不 外 於 一 牝 一 牧. 天 下 之 萬 質, 不 外 於 一 剛 一 柔. 所 以 大 易 之 道 無 他, 一 陰 一 陽 儘 之 矣.— Tạo Hóa Thông- trang 56-57 .

[12] Thiên địa nhân vật, nhất lý nhất Đạo, nhi qui nhất dã. Nhất giả hà dã? Nhân dã, Thành dã, Nguyên thủy dã, Vô Cực dã, Tổ Khí dã, Kim Hoa dã. 天 地 人 物, 一 理 一 道, 而 歸 一 也. 一 者 何 也 ? 仁 也 誠 也, 元 始 也, 無 極 也, 阻 氣 也, 金 華 也. — Sao Kiểu Động Chương (tựa), trang 6.

[13] Ngọc Thư viết: Nhất Tam Ngũ Thất Cửu, Đạo chi phân nhi hữu Số. Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, Đạo chi biến nhi hữu Tượng. Đông Tây Nam Bắc Trung, Đạo chi liệt nhi hữu Vị. Thanh Bạch Xích Hoàng Hắc, Đạo chi tán nhi hữu Chất, Số qui ư Vô Số, Tượng phản ư Vô Tượng, Vị chí ư Vô Vị, Chất hoàn ư Vô Chất... Vô Số Đạo chi Nguyên dã, Vô Tượng, Đạo chi Thể dã, Vô Vi Đạo chi Chân dã, Vô Chất Đạo chi Diệu dã. 玉 書 曰: 一 三 五  七 九, 道 之 分 而 有 數. 金 木 水 火 土, 道 之 變 而 有 象. 東 西 南 北 中, 道 之 列 而 有 位. 青 白 赤 黃 黑, 道 之 散 而 有 質. 數 歸 於 無 數, 象 反 於 無 象, 位 至 於 無 位, 質 還 於 無 質... 無 數 道 之 元 也, 無 象 道 之 體 也, 無 為 道 之 真 也, 無 質 道 之 妙 也. — Linh Bảo Tất Pháp, hạ quyển, trang 12.

... Le but reste toujours la communion positive et l’identification à la limite d’une âme et d’un Dieu. Bastide, Le Problème de la Mystique, page 66.


Mục lục | Lời nói đầu | Phần 1  2  3  4  5  6  7  8  9 | chương 1  2  3  4  5  6