DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1
2 3
4 5
6 7
8 9
| chương
1 2
3 4
5 6
Phần 2
DỊCH LUẬN THIÊN
Chương 3. Dịch là
bất biến
Dịch bao quát cả
hai phần thể dụng, biến hằng của đất trời. Như trên đã nói: Sự biến
thiên chỉ diễn biến trên bình diện hiện tượng, còn Bản Thể vẫn thường
hằng.
Nếu vậy thì trong
biến thiên, luôn hàm ngụ Bất Dịch, bất biến, vì thế nên Dịch còn có
nghĩa Bất Dịch. Nếu biến thiên là tương đối, thì Bất Dịch ắt phải
là Tuyệt đối. Có Tuyệt đối rồi Tương đối mới sinh, có Bất Dịch
rồi Biến thiên mới hiện, như vậy thì Tuyệt đối, Bất Dịch chính là Bản
Thể của trời đất vậy.
Nếu Dịch có nghĩa
là Bất Dịch, là Tuyệt đối, là Bản Thể hằng cửu, là Căn nguyên của
vũ trụ, thì ta có thể dùng chữ Dịch viết hoa để chỉ Tuyệt đối,
hay nguyên lý của vũ trụ. Ta viết: Dịch là Tuyệt đối thể, Nguyên lý
vũ trụ, Bản Thể hằng cửu
Dịch bất biến,
muốn phát huy quyền năng mình, lại dùng sự biến dịch. Vậy muốn tìm Dịch
bất biến, phải từ lòng Dịch biến thiên mà suy ngược lại.
Tiên Hiền, Lão
cũng Chư Nho, đã nhận được Dịch là căn nguyên vũ trụ, là Tuyệt đối:
Liệt tử viết:
Dịch vô hình liệt
Dịch không có hình tướng bến bờ. Ông
cũng còn dùng chữ Thái Dịch để chỉ Bản nguyên vũ trụ.
Tạ Vô Lượng khi
biên khảo về Vũ trụ luận của các Đạo gia đã viết: Căn nguyên sinh ra
mọi sự biến hóa trong vũ trụ, gọi là Không sinh, Không hóa, Nghi
Độc, Cốc Thần, Huyền tẫn, Thái Dịch, Vô Vi.
Chung
qui đều là một thứ vậy.
Lại suy ra đến
cái mà Dịch gọi là Thái Cực, hay Chu tử đời Tống gọi là Vô Cực
rồi Thái Cực, Lão tử gọi là Vô Danh, hay Empédocle gọi là
To Apiron, tất cả đều là Một vậy.
Thiên Ẩn tử viết: Kiêm tam tài gọi là
Dịch, quán Vạn Vật gọi là Đạo. Có một tính thuần nhất gọi là Chân như...
cho nên Thiên Ẩn tử sinh trong Dịch, mà chết cũng trong Dịch...!
Về phía Nho gia
ta thấy Thái Tiết Trai tiên sinh (Thái Uyên) cho rằng: Dịch thời vô
tư, vô vi, tịch nhiên bất động, còn Thần thì cảm là lập tức thông
suốt lý do trong thiên hạ... Nói Dịch tức là nói khi chưa hiển
dương, nói Thần tức là nói khi bắt đầu hiển dương, bởi vì Dịch là căn
bản của Thần; Thần là ứng dụng của Dịch
Ông lại viết:
Dịch có trước Lưỡng Nghi nên không hình thể.
Cho nên học Dịch đối với Ông, là một
phương pháp tiến tới Thần minh.
Hiểu Dịch là Tuyệt đối, còn Vạn Hữu là
tượng trưng, là biểu dương, là hình tượng của Tuyệt đối, thì mới hiểu
tại sao Dịch vừa bất biến, vừa biến thiên. Bất biến nếu xét về phương
diện tuyệt đối, biến thiên nếu xét về phương diện tương đối Vạn Hữu.
Ngô Khang giải:
Bất dịch là tên của Bản Thể hằng cửu.
Lý Chứng Cương gọi Bất dịch là Đạo
lý tuyệt đối vĩnh cữu.
Nguyễn Ấn Trường cho rằng: Bất dịch là
Bản thể.
Với những lời giải thích ấy, ta có thể trở về Dịch Kinh, và nhận định rõ
ràng rằng theo Dịch Kinh, thì trời đất, Vạn Vật là bóng hình, là ảnh
tượng của Tuyệt đối thể vô hình, của Dịch. Hệ Từ viết: Trời đất hàm ngụ
Tuyệt đối; Cho nên hễ trời đất phân trình thành liệt, thì Tuyệt đối ở
ngay trong.
Nếu trời đất bị
hủy diệt, thì Tuyệt đối không được biểu dương, thì trời đất cũng không
còn lý do tồn tại.
Hệ Từ lại viết: Dịch không nghĩ, không
làm, tịch nhiên bất động, hễ cảm ứng là biết ngay căn cơ của thiên hạ.
Nếu không tuyệt đối thần diệu thì làm sao có thể như vậy được?
...Dịch bao quát mọi sự biến hóa của
trời đất, tác thành muôn vật mà chẳng bỏ sót cái chi; thông tỏ lối đuờng
của ngày đêm. Cho nên Thần thì vô phương sở, mà Dịch thì vô hình thể.
Tất cả những lời lẽ trên đã phơi bày tâm
tư của Thánh Hiền tự ngàn xưa: Trong cái biến, có cái thường; trong
tương đối, có tuyệt đối. Như vậy học Dịch cốt là băng qua biến thiên để
trở về với bất biến, bất Dịch.
Quẻ Hằng có lời
Tượng rằng: Sấm gió thành quẻ Hằng, quân tử phải tìm phương vị bất
biến mà ở
Câu này nào có
khác gì câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm của Kinh Kim
Cương?
Họ Vương bình
Tượng truyện trên như sau:
Tìm được Hằng
Cửu nên không đổi thay. Dịch đạo biến hóa vô thường, nhưng trong biến ảo
có tìm ra được nơi bất biến, thời mới có thể nói chuyện Dịch được.
Tìm ra được
Bản Thể bất dịch trong lòng vũ trụ, cũng như trong lòng con người, là
điều kiện thiết yếu cho công cuộc tu thân, thành Thánh, thành Tiên,
thành Phật.
Kinh Lăng Nghiêm viết: Phật bảo A Nan: Từ muôn
kiếp tới nay chúng sinh bị lao lung điên đảo, các nghiệp chướng sinh ra
đầy dẫy như trái ác xoa. Còn những người tu hành chẳng thành được Vô
Thượng Bồ Đề, lại thành ra bực Thanh Văn, Duyên Giác và các thứ Ngoại
Đạo, các Trời và Ma vương, Ma quyến, đều là vì không biết hai thứ căn
bản, tu luyện cuồng xiên,
thác loạn y như
đòi nấu cát thành cơm thì có đến ngàn muôn kiếp cũng chẳng được.
Thế nào là hai
thứ căn bản? Hỡi A Nan: một là căn bản tử sinh từ muôn kiếp,
y như nay ngươi và chúng sinh lấy tâm vọng tưởng (tâm phan duyên) làm tự
tính.
Hai là căn bản Vô thủy Niết
Bàn nguyên thanh tịnh thể đó ở nơi người, chính là thức
tinh nguyên minh có thể sinh ra vạn duyên, vạn sự mà đã bị trần
duyên làm mất bỏ. Cũng vì chúng sinh đã làm mất cái căn nguyên sáng láng
ấy cho nên hằng ngày tuy vẫn luôn dùng mà chẳng tự biết được nó, rồi lăn
lộn đắm đuối vào các thú vui, uổng phí cả đời.
Thủ Lăng Nghiêm
còn viết: Đánh mất căn nguyên trường tồn, vĩnh cữu, nên bị luân
chuyển.
Héraclite cũng
cho rằng học biến dịch cốt để tìm ra Logos (Thái Cực) bất biến. Ông viết
đại khái như sau: Logos là Thiên chân thường tại, mà người đời
nào biết vân mòng là chi, mặc dầu đã được hay chưa được nghe bàn tới.
Tuy mọi sự biến thiên đều do Logos (Thái Cực), nhưng họ y thức như những
người vụng dại si ngốc mặc dầu đã trải qua và đã thực hiện nhiều biến
thiên hoặc bằng lời nói, hoặc bằng việc làm...
Logos (Thái Cực)
là phổ quát mà mọi người lại thích ý kiến riêng tư. Thái Cực có liên lạc
thường xuyên với mọi người mà mọi người lại bất hòa, bất hợp với Thái
Cực. Cái mà họ gặp thường ngày lại trở nên xa lạ đối với họ.
Như vậy, ta
thấy rằng các bậc thượng trí, thượng nhân bất phân đạo giáo, đều đi tìm
Hằng Cửu và Bất biến.
Theo Kinh Dịch,
trong vũ trụ chỉ có Thái Cực, có Đạo là Tuyệt đối, là Hằng Cửu, Bất
biến. Cho nên người quân tử học Dịch, lúc nào cũng phải cương quyết tìm
cho ra Đạo, ra Tuyệt đối giữa mọi biến thiên, tương đối, lúc nào lòng
cũng phải khế hợp với Thái Cực với Đạo.
Muốn tượng trưng
Bản Thể Hằng Cửu hay Thái Cực lồng trong lòng Vạn Vật biến thiên, cổ
nhân đã vẽ ra vòng Dịch, trong đó tâm điểm tượng trưng cho Bất
biến, Hằng Cửu, còn các vòng Hào Quải bên ngoài tượng trưng cho Vạn Hữu
biến thiên. Và nếu ta coi vòng Dịch như là một bánh xe biến hóa, thì
tâm điểm bất biến, hay Thái Cực chính là cái bầu, cái trục ở giữa bánh
xe.
Trục bánh xe, hay tâm điểm bất biến chính là Thiên tâm, là Chân tâm sinh
xuất mọi biến thiên.
Lão tử viết:
Bánh xe
ba mươi tai hoa,
Cái bầu giữa
trống, nó nhờ nó quay
Văn Đạo Tử giảng
luận như sau:
Nhân Đạo, Thiên
Đạo đều là tác dụng nhiệm màu của một khí Thái Cực. Và sự tác dụng huyền
diệu ấy, sự tuần hoàn vãng phục luân chuyển ấy tất phải có trục. Cổ nhân
gọi trục ấy là trung tâm thiên địa, là cùng cực của Thái Cực.
Thiên Đạo cư
trung ngự cực
nên vận chuyển muôn đời mà không sai thất, cũng như trong bánh xe, các
vành xe và tai hoa xe vận chuyển không ngừng là nhờ ở trục xe. Nếu ta
giữ vững được trung điểm, tận dụng được Thái Cực, thì có thể chuyển vần
với Vạn Vật mà vẫn có thể góp phần được với trời đất trong công trình
hóa dục.
Cho nên người
quân tử tu Nhân đạo để hợp Thiên Đạo. Hợp
Thiên Đạo tức là vào được trục của
vòng Dịch, thoát
ra ngoài vòng kiềm chế của hiện tượng, hỗ trợ muôn vật mà không tơ
vương, dính bén muôn vật, xoay chuyển vòng biến dịch, mà chẳng chuyển
dịch với bánh xe biến thiên, luân lạc.
Hoàng đế nói: Vũ
trụ ở trong tay, vạn hóa sinh trong mình. Phật nói: Thu bể khơi vào
trong sợi lông, đem núi Tu Di lồng trong hạt cải đâu phải là thuật lạ.
Bất quá các ngài đã nắm được trục của pháp luân. Ôi vi diệu thay, trục
của pháp luân (trục của vòng biến thiên, hay trục của Vạn Hữu), hỏi mấy
ai đã biết? Chẳng rõ được trục mà chỉ biết nói pháp luân luôn vận
chuyển, thì chóng chày cũng bị vận chuyển theo pháp luân, làm sao thoát
vòng sinh tử được.
Đầu sách Tính
Mệnh Khuê Chỉ có hình Lão tử cầm vòng Thái Cực, ý nói học Dịch cốt là
tìm ra được Thái Cực, đắc đạo tức là đắc Thái Cực. Thế là cùng lý trí
tri nói trong Đại học vậy. Ở nơi con người thì cái trục, cái bất
biến, bất dịch chính là cốt cách tinh hoa, chính là lương năng, lương
tri hằng cửu.
Nhận ra cốt cách
thần minh của mình, lướt thắng được sự hỗn mang của các cảm giác, phân
biệt được cái thần diệu bất biến trong một thế giới biến thiên,
đạt được tới Bản Thể qua các lớp lang hiện tượng ảo hóa, đó mới là vấn
đề chính yếu.
Thế tức là áp dụng được khoa Dịch học
vào cuộc đời mình:
Có biến mới hay có cửu trường,
Trung tâm tĩnh lãng, ngoại nhiễu nhương.
Nhiễu nhương, biến hóa sinh luân lạc,
Học Dịch
cốt tìm Bất Dịch phương.
Ngoài nghĩa bất
Dịch là Tuyệt đối bất biến, Hằng Cửu, các nhà bình giải còn cho rằng bất
dịch là những ngôi vị bất dịch, nhũng định luật bất dịch.
Sách Càn tạc độ
giải bất dịch là địa vị bất dịch: Như trời trên đất dưới, vua quay mặt
về Nam, thần quay quay mặt về Bắc, cha ngồi, con phục.
Nhưng những sự
kiện nói trên chẳng có gì là bất biến, bất dịch cả; ví dụ trái đất tròn
lơ lửng giữa bầu trời, thì vừa có trời ở trên, trời ở ngang, và trời ở
dưới; quẻ Bĩ thì trời trên, đất dưới
mà quẻ Thái
thì lại đất dưới, trời trên
. Vả Hệ Từ
cũng viết: Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (Hệ Từ hạ, VIII)
Vấn đề quân
Nam diện, thần Bắc diện, chỉ có giá trị với một thời đại nào ở Trung
hoa, chứ như ở Âu châu thì nào họ có kể chi là phương hướng. Hơn nữa đến
thời dân chủ thì đâu là vua? Ngay đến như vấn đề phụ tử, ta cũng đã thấy
có những trường hợp, vì chủ nghĩa, người ta cũng có thể đảo lộn được cả
cương thường v.v...
Muốn cho chính
xác hơn, ta phải nói rằng tuy thế giới đảo điên, biến hóa nhưng vẫn dược
chi phối bằng nhưng định luật bất dịch
những định luật ấy có thể xác định
được, ví dụ như:
- Định luật tụ
tán,
- Định luật điên
đảo,
- Định luật thăng
trầm,
- Định luật sinh,
trưởng, thu, tàng hay sinh, trưởng, lão, tử.
- Định luật tuần
hoàn v.v...
Tổng kết lại, chữ
Dịch là Bất Dịch gợi cho chúng ta 2 ý niệm:
1.- Trong vũ trụ
có một Bản Thể tuyệt đối.
2.- Vũ trụ được
chi phối bằng những định luật bất dịch.
CHÚ THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1
2 3
4 5
6 7
8 9
| chương
1 2
3 4
5 6
|