DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1
2 3
4 5
6 7
8 9
| chương
1 2
3 4
5
6
Phần 2
DỊCH LUẬN THIÊN
Chương 6. Dịch là
tượng
Dịch là Tượng, vì Dịch toàn
dùng ký hiệu, toàn dùng ảnh tượng làm phương thế dạy đời.
Hiểu được những ký hiệu của
Dịch, những hình ảnh của Dịch, sẽ biết được thâm ý của người viết Dịch,
sẽ suy ra được lời lẽ của người viết Dịch, sẽ tìm ra được nhiều định
luật của Dịch.
Các nhà bình giải Dịch xưa
nay đã có bàn về Tượng rất nhiều và rất tỉ mỉ, nhưng thường vội đi sâu
vào chi tiết, nên quên mất đại thể, thường chú trọng đến ảnh tượng mà
quên mất ký hiệu. Cho nên truớc khi đi vào phần chi tiết của Tượng, ta
hãy bàn đến phần đại cương chính yếu của Tượng.
1. Những quan niệm
chính
yếu về Tượng Học
Phần Chính yếu của Tượng
chính là các đồ bản Dịch, các ký hiệu Dịch, không hình ảnh, không lời
lẽ.
Tuy không hình ảnh, không
lời lẽ, nó vẫn rất là quan trọng. Chẳng hạn như trông vào vòng Dịch Tiên
Thiên Bát Quái hay Lục Thập Tứ Quái, ta thấy nó tượng trưng cho Bản Thể
và Hiện Tượng, cho Hằng Cửu và Biến thiên, cho 2 chiều tiêu tức của vũ
trụ, cho định luật vãng phản, tuần hoàn của Tạo Hóa, cho nguyên lý:
tinh thần sinh vật chất, vật chất sinh tinh thần v.v...
KHÁI
NIỆM |
KÝ
HIỆU |
Bản Thể
(Nhất thể) |
Thái
Cực |
Vạn
Tượng ,Vạn Hữu |
Hào
Quải |
Bản Thể
bất biến |
Tâm
điểm, hay Thái Cực ở giữa vòng Dịch |
Vạn
Tượng biến thiên |
Vòng
Dịch 8 hay 64 quẻ bên ngoài |
Chiều
tiêu, chiều vãng |
Nửa
vòng Dịch phía phải |
Chiều
tức, chiều phản |
Nửa
vòng Dịch phía trái |
Vòng
tuần hoàn
|
Từ Thái
Cực, ra Cấu đến Khôn, rồi lại từ Phục đến Càn, đến Thái Cực. |
Nguyên
lý: Tinh thần sinh vật chất, vật chất sinh tinh thần |
Càn
Khôn |
Đối với Dịch, vũ trụ, Vạn
Vật, Vạn Hữu chỉ là ảnh tượng, là bóng hình, là biểu dương của Tuyệt đối
cũng như Hào Quải là ảnh tượng là bóng hình của Thái Cực.
Hệ Từ hạ truyện viết: Thị
cố Dịch giả, tượng dã. Tượng dã giả, tượng dã.
Hóa cho nên Dịch là Tượng,
mà tượng là hình ảnh vậy!
Mỗi Hào Quải chẳng qua là
một trạng thái, một quá trình biến hóa của Bản Thể duy Nhất.
Dịch chủ trương dùng hai ký
hiệu đơn giản là:
Âm
Dương
rồi chồng lên nhau thành 8
quẻ, 64 quẻ, sẽ có thể mô tả Vạn Vật, Vũ Trụ.
Leibniz nhận thấy chủ trương
này chẳng có gì là sai quấy.
Leibniz đã dùng Khoa Nhị Nguyên Toán Thuật (Arithmétique binaire
ou arithmétique dyadique) của Ông để giải Dịch, Ông mã lại Âm Dương và
64 quẻ Dịch theo toán thuật của Ông như sau:
Dương |
|
= 1
|
Âm |
|
= 0
|
Càn |
|
= 111111 |
Khôn |
|
= 000000 |
Cấu |
|
= 011111 |
Bác
|
|
= 000001 |
Ngày nay khoa học đã mặc
nhiên công nhận và áp dụng phương pháp của Dịch, trong các công cuộc
truyền tín hiệu, truyền hình ảnh từ các vệ tinh về mặt đất, bởi vì các
máy điện tử chỉ dùng có 2 ký hiệu là 0 và 1, xếp thành 64 nhóm, mỗi nhóm
có 6 số.
Phương pháp như sau:
1. Chụp ảnh.
2. Phân ảnh ra thành 64
biến thái của màu sám. Mỗi một biến thái của màu sám được đổi sang thành
6 số ví dụ như sau:
110110 110011 010001 v.v...
3. Đánh các tín hiệu trên
về trái đất.
4. Các máy điện tử ở dưới
đất đổi các tín hiệu trên lại thành các biến thái màu sám.
5. Cuối cùng ta có các ảnh
về hình thể của Mặt trăng hay của hành tinh như Hỏa tinh.
Như vậy nói rằng Dịch dùng
Âm Dương và 64 quẻ để tượng trưng Vạn Vật, không có ngoa vậy.
Tượng của Dịch có thể chia
làm 2:
1. Văn là những nét vạch
liền, đứt như ☰ ☷ ☲ ☵ để chỉ trời, đất, lửa, nước, v.v...
2. Những ảnh tượng hữu hình
cụ thể, như con gà con ngựa, con rồng, con nhạn, v.v...
Văn là những ký hiệu trừu
tượng nhất, nhưng lại phổ quát nhất, hàm súc nhất, vì nó không qua trung
gian từ ngữ.
Cho nên, nếu chủ tâm nghiên
cứu các đồ Dịch các họa bản không lời của Dịch, ta có thể khám phá ra
nhều định luật và rất nhiều quan niệm Chính xác về vũ trụ, về nhân sinh.
Chẳng hạn, ta có thể giải
thích Thái Cực và Tứ Tượng:
Như sau:
: Dương khí từ lòng đất
vươn lên (Xuân)
: Dương khí tới thời toàn
thịnh, phát huy Vạn Vật biến hóa vạn sự (Hạ)
: Âm khí thu liễm Vạn Vật
(Thu)
: Âm khí hàm tàng Vạn Vật
(Đông)
Bản Thể là nơi xuất sinh
của Vạn Vật và nơi phản hoàn của Vạn Vật.
Như vậy ký hiệu Thái Cực với
Tứ Tượng đã diễn tả một cách hùng hồn lẽ biến hằng của vũ trụ, cũng như
bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông của trời đất của cuộc đời và của niên canh.
Những ký hiệu và những cách
sắp xếp nói trên cũng cho ta thấy: vạn sự, Vạn Vật có thể có khí chất
ngược nhau (
,
) có nhiều hướng trái nhau (
,
), hoặc lịch sử con
người sẽ qua hai chiều hướng ngoại, hướng nội, từ tinh thần tiến dần ra
vật chất, rồi lại từ vật chất tiến dần về tinh thần v.v...
2. Ít nhiều chi tiết về Tượng Học
Dịch dùng rất nhiều ảnh
tượng làm lợi khí diễn tả tư tưởng, làm phương tiện giáo hóa.
Từ người, đến vật, đến dụng
cụ, đến sông núi, mây mưa, sấm chớp, lửa nước, nhất nhất cái gì cũng có
thể trở nên hình ảnh, nên tượng trưng đối với Dịch.
Những hình ảnh ấy thực đa
đoan, sự xuất hiện của chúng nhiều khi rất là kỳ bí, không biết tại
duyên do nào. Nếu ta không đặt vấn đề vì đâu Dịch lại có những hình ảnh
ấy, những lời lẽ ấy, thì học Dịch cũng không mấy khó khăn. Nhưng nếu ta
tìm hiểu vì đâu có những hình ảnh này, hình ảnh nọ trong các Hào Quải,
thì Kinh Dịch trở nên những bài thai đố nan giải.
Về vấn đề này, có thể chia
các nhà bình giải Dịch thành ba phái.
1.
Phái thứ
nhất, trong đó
có Hán Nho, cho rằng cần phải hiểu Tượng, phải
hiểu duyên do đã phát sinh ra các ảnh tượng dùng trong Hào, Quải thì mới
có thể hiểu thấu Dịch được.
Muốn đạt mục phiêu này họ đã
dùng nhiều phương cách, như:
1. Dựa vào Thuyết quái.
2. Dựa vào các quẻ Hỗ thể.
3. Dựa vào các quẻ Bàng
thông.
4. Dựa vào các quẻ Thác
và quẻ Tống.
5. Dựa vào hình tượng mà
toàn quẻ gợi nên.
6. Dựa vào đặc tính của mỗi
quẻ.
7. Dựa vào các quẻ Phi,
Phục.
8. Dựa vào các quẻ Biến.
9. Dựa vào phương pháp
nạp giáp ngũ hành
v.v...
Thực là rất công phu, rất
phiền toái, Trong những trang dưới đây sẽ bàn qua về một vài phương pháp
kể trên.
2.
Phái thứ hai, gồm những
Học giả như Vương- Bật, chủ trương không cần phải lưu tâm đến ảnh tượng,
mà chỉ cần hiểu nghĩa lý
3.
Phái thứ
ba, gồm những
Triết gia như Trình tử, như Chu Hi, chủ trương ảnh tượng là những phương
thức, những thí dụ dùng để diễn đạt tư tưởng.
Tìm được duyên do, càng hay,
không tìm được cũng chẳng quan hệ, không hơi sức nào mà làm công chuyện
đáy bể mò kim, miễn sao mình hiểu được ý Dịch là đủ.
Riêng tôi, tôi cũng thấy
công cuộc đi tìm duyên do của các ảnh tượng nhiều khi chỉ làm cho óc
chất mình thêm rốị loạn. Hơn nữa cũng chẳng có gì bảo đảm rằng đó chính
là đường lối mà các tác giả Kinh Dịch xưa đã theo.
Tuy nhiên, ta cũng nên biết
sơ qua về các phương pháp đi tìm duyên do của các ảnh tượng dùng trong
mỗi quẻ, mỗi Hào. Những phương pháp ấy đại khái như sau:
1. Dựa vào những hình ảnh
mà Thuyết quái đã gán cho tám quẻ chính.
Dùng các hình ảnh trên, ta có
thể suy ra ảnh tượng của mỗi quẻ, cũng như sự tượng trưng của mỗi quẻ.
Đại Tượng truyện trong Kinh Dịch đã dùng phương pháp này. Ví dụ quẻ Tiểu
Súc trên có quẻ Tốn là gió, dưới có quẻ Càn là trời.
Đại Tượng truyện viết: «Phong hành thiên thượng
Tiểu Súc.»
風
行 天 上 小 畜.
Ta thấy ngay rằng gió bay
trên trời cao thì chẳng có sức nuôi dưỡng, chẳng ảnh hưởng đến Vạn Vật
được là bao, vì thế gọi là Tiểu Súc (nuôi dưỡng ít)
Ví dụ: quẻ Lữ
trên có Ly
☲ là
lửa, dưới có Cấn ☶ là núi. Lửa cháy trên núi, là những đám cháy rừng lan
rất mau lẹ, nên gọi là Lữ, y như người lữ thứ không có sở cư nhất định.
2. Nhân tính chất của quẻ,
mà suy ra hình ảnh. Ví dụ:
- Quẻ Càn là quẻ thuần
Dương, biến hóa, thì lấy con rồng mà tượng trưng.
- Quẻ Hàm nói về sự cảm
thông, cảm xúc, thì dùng các phần mình như ngón chân cái, vế, đùi, gáy,
má, cằm, mồm mà tượng trưng, vì các phần trong cơ thể đều có cảm giác
- Quẻ Trung phu nói về trung
tín, thì dùng lợn, cá, nhạn, gà. Theo Lai tri-Đức thì lợn, cá biết được
gió nổi, nhạn biết được thu về, gà biết sáng mà gáy, không sai chệch vì
thế dùng để tượng trưng sự trung tín
- Quẻ Tiệm nói đến chim Hồng
vì nó đến có kỳ, nó bay có hàng ngũ thứ tự, hơn nữa chim Hồng không lấy
hai đời chim đực, nên hợp với lời Thoán từ của Văn Vương là gái về
nhà chồng
3. Dựa vào hình dáng quẻ mà
suy ra ảnh tượng.
- Như ở quẻ Bác có một Dương
ở trên, năm Âm ở dưới, thì nói đến nhà, đến giường, vì nhà có mái,
giường có mặt na ná như hình quẻ Bác.
- Quẻ Đỉnh, gọi là Đỉnh vì
các Hào được xếp như hình cái Đỉnh
, Hào Sơ Lục là chân đỉnh, ba Hào
Dương ở giữa là mình đỉnh, Hào Lục ngũ là tai đỉnh, Hào Thượng Cửu là
nắp đỉnh.
4. Nhìn cơ cấu toàn quẻ,
nhìn đại thể của sáu Hào, rồi tùy vị thứ Âm Dương mà qui nạp toàn quẻ về
một trong tám quẻ chính.
Thể lệ như sau:
Hào Dương ở trên là tượng
Cấn, Tốn.
Hào Dương ở dưới là tượng
Chấn, Đoài.
Hào Dương ở giữa là tượng
Khảm
Hào Âm ở giữa là tượng Ly.
Ví dụ: Ích
có Hào Âm ở
giữa, Hào Dương ở trên và dưới là tượng Ly
☲
, vì thế trong quẻ có
đề cập đến con rùa (Rùa là 1 trong những tượng quẻ Ly trong Thuyết
quái.)
Như Đại Quá
tượng Khảm
☵ nên nói đến cột.
Như Di
tượng Ly
☲
nên nói
đến rùa v.v...
5. Tìm xem quẻ Hỗ thể
là quẻ gì để lập tượng.
Quẻ Hỗ thể là 2 quẻ sinh ra
bởi các Hào thứ 2, 3, 4 hoặc thứ 3, 4, 5 của toàn quẻ.
- Ví dụ quẻ Bĩ
có hai
quẻ Hỗ thể là quẻ Tốn
☴
(3, 4, 5), và Cấn
☶
(2, 3, 4) Tốn là lãnh
đạm, Cấn là đình trệ. Tốn và Cấn hợp lại cũng thành quẻ Cổ
cũng có nghĩa
là đình đốn, đình trệ. Đã Bĩ là bế tắc rồi, mà lại còn thêm thờ ơ, đình
đốn nữa thì thực nguy hiểm.
Ví dụ quẻ Tiệm có hai quẻ
Hỗ thể là Khảm
☵
(2, 3, 4) và Ly
☲
(3, 4, 5). Nơi Hào Cửu tam nói: Phụ dựng bất dục (đàn bà có chửa nhưng
không nuôi được). Nói tới đàn bà chửa vì ở đây Khảm có 1 Hào dương ở
giữa
☵.
Hào Cửu ngũ nói: «Phụ tam tuế bất dựng»
婦 三 歳 不 孕
(Đàn bà 3 năm không
chửa). Nói không chửa ở đây vì Ly trung hư v.v...
6. Lấy quẻ Thác
(thác quái) hay quẻ Bàng thông mà thủ tượng.
Lai Tri Đức thì gọi là
Thác quái. Ngu thị (Ngu Phiên) thì gọi
là Bàng thông.
Bàng thông
hay thác quái là những quẻ hoàn toàn đối nghịch nhau về phương
diện Âm Dương như:
Kiền
thác Khôn
Hằng thác Ích
Ví dụ: Ích Lục tứ có câu: «Trung hành cáo công tòng.»
中 行 告 公 從. Ngu thị chú: Trung hành
中 行 là nói về
quẻ Chấn ☳ (ở bên quẻ Hằng có quẻ Chấn). Chấn có nghĩa là đi, là theo, nên
nói «Trung hành cáo công tòng.»
Đại súc Cửu nhị có câu:
«Dư
thoát phúc.»
輿 説 輹
(xe trút bánh).
Ngu thị giải: Đại súc
bàng thông Tụy
.
Bên quẻ Tụy có Khôn
☷ mà Khôn
là xe, là bánh xe.
Bên Đại súc có quẻ Càn
☰ thế
là Khôn tiêu thành Càn vì thế dùng chữ thoát.
Bác
Thượng Cửu có câu:
«Quân tử đắc dư.»
君 子 得 輿
(Quân tử được xe).
Ngu thị giải: Bác
bàng
thông Quái .
Bên quẻ Quái có Càn là quân
tử là đức.
Bên quẻ Bác có Khôn là xe.
Càn vào Khôn nên nói Quân tử được xe
Ngu thị đã dùng phương pháp
này để giải Dịch
7. Dùng quẻ Tống (Tống
quái) mà thủ Tượng.
Lai Tri Đức gọi là Tống
quái
Song Kiếm xí gọi là Phúc
quái
Tống quái
hay Phúc quái là quẻ lộn ngược trở lại ví dụ Cấn
☶
lộn lại thì thành
Chấn
☳
.
Ví dụ: quẻ Tổn
lộn lại thành quẻ Ích
.
Hào Lục ngũ của quẻ Tổn, tức
là Hào Lục nhị của quẻ Ích vì thế nên đều có câu: «Thập bằng chi qui
phất khắc vi.»
十 朋 之 龜 弗
克 違
(mười cặp rùa cũng không ngăn lại được).
Quẻ Quái
lộn lại thành
quẻ Cấu Hào Cửu tứ của quẻ Quái tức là Hào Cửu tam của quẻ Cấu cho
nên đều nói: «Đồn vô phu.»
臀 无 膚
(mông không da). v.v...
8. Biến Hào để thủ Tượng
Như nơi quẻ Độn
Hào Lục
nhị nói đến trâu mà không biết vì sao. Ta biến Hào Sơ thành Dương ta sẽ
có , quẻ dưới sẽ là Ly
☲ ; Ly giữa có Khôn khí vì thế nói
đến trâu
9. Nạp Giáp để thủ Tượng.
Theo phương pháp này:
Càn Khôn nạp Giáp Ất
Cấn Đoài nạp Bính Đinh.
Khảm Ly nạp Mậu Kỷ
Chấn Tốn nạp Canh Tân
Càn Khôn lại nạp Nhâm Quí.
Nạp Giáp cốt đề tượng trưng
sự qua lại của 2 vầng Nhật Nguyệt, sự thăng trầm của Âm Dương. Dùng phép
Nạp Giáp ta sẽ hiểu ít nhiều câu trong Dịch.
Ví dụ: Quẻ Thái
, Hào Lục
ngũ có câu Đế Ất có chữ Ất vì Khôn nạp Ất.
Quẻ Cách
Hào Lục nhị có
chữ Kỷ nhật, vì Ly nạp Kỷ.
Quẻ Cổ
Thoán từ có chữ
«Tiên Giáp tam nhật, Hậu Giáp tam nhật.»
先 甲 三 日,
後 甲 三 日.
Quẻ Cổ Bàng thông
với quẻ Tùy , nếu ta cho biến Hào Sơ của quẻ Cổ, ta thấy quẻ Càn
☰ hiện
ra, mà Càn thì nạp Giáp v.v...
Duyệt xét lại các phương
pháp trên, ta thấy cổ nhân xưa đã tốn rất nhiều công phu, xoay xở trăm
chiều để giải các Tượng Dịch, dẫu đôi khi ta không hoàn toàn đồng ý về
sự hữu lý của cách giải thích, nhưng ta cũng phải nhận là tài tình.
CHÚ THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1
2 3
4 5
6 7
8 9
| chương
1 2
3 4
5
6
|