TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ
»
MỤC LỤC |
NGUYÊN |
HANH |
LỢI |
TRINH
LỢI TẬP
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
TỤ HỎA TẢI KIM
QUYẾT PHÁP
Trước hết đem lửa
của Nam Phương Ly Cung để luyện nước của Bắc phương Khảm Cung, Đem Hồng
gieo vào trong Hắc. Rồi ngưng thần nhập Rốn (Khôn Cung) mà sinh Dược.
Rồi nay lại Dùng nước của Bắc Phương Kim mà chế lưả của Nam Phương Mộc.
Thế là cho Hắc gặp Hồng. Thế là ngưng Thần nhập Đỉnh Đầu (Kiền Đỉnh) để
thành Đan.
Nên Tử Dương (Ngộ
Chân Thiên) nói:
Y tha Khôn vị sinh thành
thể,
依
他 坤 位 生 成 體,
Chủng tại Kiền Gia giao cảm
cung.
種
在 乾 家 交 感 宮.
Dựa vào Khôn Vị, sinh thành
thể,
Trồng tại Kiền gia, Giao Cảm
Cung.
Thôi Công (Nhập
Dược Kính) viết: Sản tại Khôn, chủng tại Kiền. 產 在 坤
種 在 乾 (Sinh ở Khôn, trồng ở Kiền).
Kiền ở trên gọi
là Đỉnh, Khôn ở dưới là Lô.
Nếu không nấu
nung mãnh Liệt, thì Thuốc không thể ra lò. Nếu không Đảo hành, nghịch
triền, thì thuốc không thể lên Đỉnh. Diên là cái gì trầm trọng; nếu Diên
không gặp Lửa, thì làm sao mà bay được? Hống là cái gì nhẹ bay, nếu
không gặp Diên thỉ làm sao mà ngưng kết? Vì thế nên Phương Pháp Tụ Hỏa
là rất cần yếu vậy.
Phương Pháp Tụ
Hỏa như thế nào?
Phép này do nhị
vị Tổ Sư là Đạt Ma và Bạch Hải Thiềm lập ra, lấy bốn chữ Hấp, Để, Toát,
Bế làm khẩu quyết.
Hấp 吸 laø hít khí vào để
tiếp dẫn Tiên Thiên Khí; Để 舐 là đưa lưỡi lên cuá để hứng nước Cam Lồ.
Toát
撮 là khép kín Hậu Môn, đem Thần Khí lên đỉnh đầu; Bế 閉 là ngậm miệng,
Lim dim đôi mắt, nghe ngược bên trong. Lâu ngày Thần Thủy sẽ rơi xuống
Huỳnh Đình.
Chính vì thế mà
Thúy Hồ nói: Dưới mà không Bế, thì Hỏa không tụ, mà Kim không thăng.
Trên mà không Bế thì Dương sẽ không thăng mà đan cũng không kết. Cho nên
phép Tụ Hỏa, là công việc trước tiên của công phu Thái Thủ và Phanh
Luyện.
Hoảng hoảng, hốt
hốt là lúc phải Thái Thủ; Mãnh phanh, cực luyện là công phu Thái Thủ;
Hấp, Để, Toát, Bế là yếu chỉ phanh luyện.
Vả phép Thái Thủ
hay nhất là phải biết Thời Cơ. Không được quá sớm. Quá sớm thuốc sẽ non
và dễ bay mất; quá muộn, thuốc sẽ già và thành chất. Tất phải chờ khi
nào Chân Diên hoa nhả bạch, Huyền Châu thành Tượng, khi ấy mới là lúc
Thái Thủ.
Trương Tử Dương
nói:
Diên ngộ Quí sinh, tu cấp
thái,
鉛
遇 癸 生 須 急 采,
Kim phùng Vọng viễn bất kham
đang.
金
逢 望 遠 不 堪 當.
Diên cần Thái Thủ giờ Hoạt
Tí,
Kim gặp hôm rằm ắt chẳng
nên.
Trương Tam Phong
viết:
Điện quang thước xứ tầm Chân
chủng,
電
光 爍 處 尋 真 種,
Phong tín lai thời mịch bản
tông.
風
信 來 時 覓 本 宗.
Điện quang rực sáng tìm Chân
Chủng,
Gío động là khi kiếm Bản
Tông.
Chỗ Điện quang
rực sáng là sau thời kỳ Yểu Yểu, Minh Minh. Hoảng Hốt là lúc Một Dương
Hào phát động, là lúc châu rơi xuống Hoa Trì.
Lúc này nên dùng
khẩu quyết: Câu Thúc Cấm Môn của Tham Đồng Khế. Khần bế Thái Huyền
(Chính Âm), Bế Nhâm, Khai Đốc. Tức phải dùng cơ Thác Thược để cổ vũ suy
vận. Dùng mãnh Hỏa mà đốt, thì nước sẽ bốc thành Hơi. Nước bốc thành
hơi, sẽ giá động Hà Xa, sẽ chở Kim lên Nê Hoàn, cùng Chân Diên phối hợp.
Hống gặp Diên thì sẽ giáng xuống, sẽ không còn thượng đằng. Cứ vậy mà
sưu thiêm (thêm bớt), cứ thế mà ngưng kết, tự nhiên Diên (Hồn, Âm) sẽ
dần tiêu, Hống (Thần, Dương) sẽ dần tăng.
Lâu ngày, Diên sẽ
tận mà Hống sẽ khô. Thế là Kim Đơn Đại Dược thành vậy.
Luyện Đại Dược,
vốn không thuật khác, chỉ lấy một điểm Tiên Thiên Tổ Khí, làm mẹ Kim
Đan. Thầy tôi dạy rằng:
Luyện Đại Phạn chi Tổ Khí,
煉
大 梵 之 祖 氣,
Phi trửu hậu chi Kim Tinh,
飛
肘 後 之 金 晶.
Tồn Đế Nhất chi diệu tướng,
存
帝 一 之 妙 相,
Phản Tam Tố vu Huỳnh Đình.
返
三 素 于 黃 庭.
Luyện Thiên Thần tổ khí,
Phi trửu hậu chi Kim Tinh.
Tồn Đế Nhất chi diệu tướng.
Phản Tam Tố (Tinh, Khỉ,
Thần) về Huỳnh Đình.
Học giả chỉ biết
là Diên Hống kết thành Đan, mà không biết rằng Thái Thủ, Sưu Thiêm,
Phanh Luyện, Hỏa Hầu đều có thứ tự, pháp độ. Thái thủ là động tác đầu
tiên, Sưu Thiêm là công trình về sau, ở giữa là công phu điều đình, hỏa
hầu. Cho nên Tử Dương nói:
Túng nhận Chu Sa cập Hắc
Duyên,
縱
認 朱 砂 及 黑 鉛,
Bất tri Hỏa Hậu dã như nhàn.
不
知 火 候 也 如 閑.
Chỉ biết Chu Sa với Hắc
Diên,
Hoả hầu không biết cũng vô
duyên.
Chu Hối Ông nói:
Thần Tiên bất tác Tham Đồng
Khế,
神
仙 不 作 參 同 契,
Hỏa hậu công phu, na đắc
tri?
火
候 工 夫 那 得 知.
Thần tiên không soạn Tham
Đồng Khế?
Ai làm sao biết Hỏa Hầu
Công?
Tiết Đạo Quang viết:
Thánh Nhân truyền Dược bất
truyền Hỏa,
聖
人 傳 藥 不 傳 火,
Tòng lai Hoả Hậu thiểu nhân
tri.
從
來 火 候 少 人 知.
Mạc tương Đại Đạo vi nhi hí,
莫
將 大 道 為 兒 戲,
Tu cộng Thần Tiên tử tế suy.
須
共 神 仙 仔 細 推.
Thánh Nhân truyền Dược,
không truyền Hỏa,
Vì thế Hoả Hầu ít ai hay.
Đừng đem Đại Đạo làm trò
trẻ,
Phải với Thần Tiên tử tế
suy.
Hỏa Hầu có Văn,
có Võ, không thể Nhất Tề Đồng Nhau.
Tĩnh trung Dương Động, Kim
Ly khoáng,
靜
中 陽 動 金 離 礦,
Địa hạ Lôi oanh, Hỏa bức
Kim.
地
下 雷 轟 火 逼 金.
Trong Tĩnh Động Dương, Kim
lìa khoáng,
Đất vang sấm chớp, Hỏa bức
kim
Đó là tiết thứ tư
của hỏa hầu.
Mạn thủ dược lô khan hỏa
hậu,
謾
守 藥 爐 看 火 候,
Đãn an thần tức nhiệm thiên
nhiên.
但
ㄢ 神 息 任 天 然.
Hãy giữ Đan Điền xem Hỏa
Hậu,
Hô hấp điều hòa, pháp Tự
Nhiên,
Đó là tiết thứ
sáu của Hỏa Hầu.
Dương văn, Âm vũ, vô lệnh
thất,
陽
文 陰 武 無 令 失,
Tiến Thoái, sưu thiêm, hữu
ngự thời.
進
退 抽 添 有 馭 時.
Dương văn, Âm vũ không sai
thác,
Tiến thoái, sưu thiêm phải
có thời.
Đó là tiết thứ
năm của Hỏa Hầu.
Thành tính tồn tồn
成性 存
存.
Tính Trời cố giữ Chính
Trung.
Mở đường Đạo Nghĩa, dặm
chừng vân du.
Đó là Hoả Hầu của
Nho Gia.
Miên miên nhược tồn
綿綿 若
存.
Miên man muôn kiếp vẫn còn,
Muôn nghìn biến ảo, mà tuồng
trơ trơ.
Đó là Hoả hầu của
Đạo Gia.
Bất đắc cần, bất đắc đãi
不得 勤 不 得 怠
(Không quá siêng, không quá lười).
Đó là Hỏa Hầu của Thích Gia.
Tam nguyệt bất vi
Nhân 三 月 不 違 仁 (Trong ba tháng lòng chẳng lìa điều Nhân.)[5]
Đó là khẩu quyết của Nhan Uyên.
Ngô nhật tam tỉnh
吾日 三 省
[6]
(Ta một ngày xét mình 3 lần) Đó là Hỏa Hầu của Tăng Tử
Nhật tri kỳ sở vong; Nguyệt
vô vong kỳ sở năng
日 知 其 所 亡, 月 無 忘
其所 能
[7] (Mỗi ngày biết đã làm gì sai sót; mỗi tháng không quên
đã làm được những gì).
Đó là khẩu quyết của Tử Hạ.
Giới thận hồ kỳ sở bất đổ.
Khủng cụ hồ kỳ sở bấtvăn.
戒 慎 乎 其 所 不 睹.
恐 懼
乎 其 所 不 聞
.
E dè cái mắt không nhìn,
Tai nghe không nổi cho nên
hãi hùng.
Đó là Hỏa Hầu của
Tử Tư.
Tất hữu sự yên nhi vật
chính, tâm vật vong vật trợ trưởng.
必 有 事 焉 而 勿 正 心 勿 忘 勿 助 長 (Muốn bồi dưỡng khí
hạo nhiên, đối vối việc phải, mình đừng hốp tốp mà cầu cho mau xong;
đừng có xao lãng, và đừng có nong sức trưởng thành của công việc).
Đó là khẩu quyết của Mạnh Tử.
Phát phẫn vong thực[11]
發 憤 忘 食 (thích học đến quên ăn). Đó là Võ hỏa khẩu quyết của Khổng Tử.
Lạc dĩ vong ưu[12]
樂 以 忘 憂 (Khi biết thêm được điều gì hay, thì vui đến quên lo). Đó là Văn
Hỏa khẩu quyết của Khổng Tử.
Bất tri lão chi tương chí
[13]
不 知 老 之 將 至
(Không biết tuổi già đã đến).
Đó là Chí Thành,
không ngừng nghỉ, và Hỏa Hầu thuần vậy.
Hỏa Hầu thuần, là
Đan thành vậy. Thế là Công phu làm thánh hoàn tất vậy.
Đem Thận gian động
Khí.
Về cất giữ tại Đan
Điền.
Hệ Từ thượng, chương
VII, tiết 2.
Đạo Đức Kinh, ch. 6.
Luận Ngữ, Ung Dã, 5.
Luận Ngữ, I, 4.
Luận Ngữ, XIX, 5.
Trung Dung, ch. I.
Mạnh Tử, Công Tôn Sửu
thượng câu 2. Xem James Legge, The Four Book, p. 190.
Mạnh Tử, Đoàn trung
Còn dịch, tr. 90.
Luận Ngữ, Thuật Nhi,
câu 18.
Luận Ngữ, Thuật Nhi
câu 18.
Luận Ngữ, Thuật Nhi
câu 18.
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
|