HƯỚNG TINH THẦN
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
»
mục lục
| tựa |
chương
1
2
3 4
5
6 7
8
9 10 |
sách tham khảo
chương 1
ÍT NHIỀU
TIÊU CHUẨN VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐỂ KHẢO SÁT VỀ TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU
I. ĐỊNH NGHĨA
Tôn giáo đối chiếu
(Religionswissenschaft; Étude comparée des Religions; Comparative
Religions; The Comparison of Religions) là một khoa học có mục đích khảo
cứu và so sánh các dữ kiện của nhiều đạo giáo khác nhau để tìm xem các
tôn giáo giống nhau ở điểm nào, khác nhau ở điểm nào.
Nó cũng là một loại triết
học vì có mục đích tìm kiếm ý nghĩa và giá trị các nền tín ngưỡng khác
nhau của nhân loại.
II. NHỮNG DỮ KIỆN LỊCH SỬ ĐƯA TỚI KHOA
TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU
1. Sự liên lạc giữa năm châu trở nên dễ dàng
Từ thế kỷ 15 cho đến nay,
con người đã có những phương tiện tối tân để đi khắp các lục địa, và qua
những trận chiến tranh, qua những sự hiểu lầm, qua những khinh thị dè
bỉu lẫn nhau, qua những sự tìm hiểu lẫn nhau, thông cảm lẫn nhau, con
người dần dà cảm thấy mối giây liên lạc giữa con người với con người
khắp năm châu rất là chặt chẽ.
Đông Tây nhờ đó mà gặp gỡ
nhau. Các đạo giáo đông tây đã được phổ biến khắp các lục địa, hoặc bằng
phương pháp giảng giáo, hoặc bằng cách dịch thuật, biên khảo. Nhờ có
những phương pháp ấn loát tân kỳ và sự giao thông tiện lợi, nên các sách
vở được phổ biến dễ dàng khắp năm châu. Do đó nhân loại dần dà cũng nhận
ra được rằng không phải nguyên có tôn giáo của mình, từ ngữ của mình là
hay là trọng, mà tôn giáo của người, từ ngữ của người cũng hay, cũng
trọng.
2. Những tài liệu để khảo về các đạo giáo hiện nay
đầy rẫy
Thế kỷ VII, Đường Tam Tạng
phải mất mười sáu năm (629–645) mới sang được Ấn Độ thỉnh kinh Phật về
Trung Quốc, ngày nay chúng ta có thể ngồi nhà liên lạc bằng thư tín,
cũng có thể có nhiều tài liệu về đạo giáo hơn Đường Tam Tạng.
Thực vậy, các loại thánh
kinh các đạo giáo đều đã được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng.
Năm 1800, Thánh kinh Thiên
Chúa giáo được dịch ra 70 thứ tiếng.
Năm 1900, được dịch ra 561 thứ tiếng, năm
1950, được dịch ra 1118 thứ tiếng.
Thánh thư Coran của Hồi giáo
cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Chúng ta có thể mua được dễ dàng
những bản Coran bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh.
Các học giả và các giáo sĩ
Âu Châu cũng đã phiên dịch các thánh thư Á đông sang các từ ngữ Âu Châu.
Năm 1771, Anquetil Duperron
dịch Upanishads của Ấn Độ từ tiếng Ba Tư sang tiếng Pháp và Latin.
Năm 1784, Charles Wilkins
dịch Bhagavad Gita của Ấn Độ sang tiếng Anh.
Năm 1850, Horace Hayman
Wilson tìm được bộ kinh Vệ đà và dịch sang Âu ngữ.
Các thánh thư Khổng, Lão
cũng được người Âu châu phiên dịch từ lâu. Năm 1593, Linh mục Mateo
Ricci dịch Tứ Thư sang tiếng Latin.
Năm 1626, N. Trigault dịch
Ngũ kinh sang tiếng Latin.
James Legge dịch Tứ Thư Ngũ
Kinh sang tiếng Anh.
Couvreur dịch Tứ Thư, Kinh
Thi, Kinh Thư, Xuân Thu, Lễ Ký sang tiếng Pháp và Latin.
R. Wilhelm dịch Kinh Dịch
sang tiếng Đức.
H.A. Giles phiên dịch Lão
Tử, Trang Tử sang tiếng Anh.
Léon Wieger dịch Lão Tử, Liệt Tử, Trang Tử
sang tiếng Pháp, v.v.
Các kinh sách Phật giáo cũng
được sưu tầm và phiên dịch rất nhiều sang các từ ngữ Âu Châu.
– Năm 1824, M. Hodgson sưu
tầm được một số kinh Phật lớn ở Népal. Ông đem tặng cho:
. Á châu học hội Calcutta từ
1824 đến 1839.
. Á châu học hội Luân Đôn
năm 1835.
. Á châu học hội Ba Lê năm
1837.
– Csoma, người Hung-gia-lợi
đi bộ từ Hung-gia-lợi sang Tây Tạng, học tiếng Tây Tạng và đã tìm ra
được hai bộ kinh lớn:
. Bộ Kanjur gồm 1083 quyển.
. Bộ Tanjur gồm 225 bộ nhỏ,
mỗi bộ nặng từ 2 đến 3 kg.
– Schmidt de Saint
Pétersbourg phiên dịch các kinh Phật từ tiếng Mông Cổ sang ngôn ngữ Âu
châu.
– George Turnour sưu tầm và
phiên dịch các sách Phật tìm thấy ở Tích Lan.
– Burnouf, năm 1837, nhờ đọc những bộ sách
Phật mà Hodgson gửi tặng cho Á châu học hội Ba Lê, đã để ra 7 năm nghiên
cứu để viết cuốn: Dẫn nhập vào lịch sử Phật giáo Ấn Độ
(Introduction à l’histoire du Bouddhisme Indien) xuất bản năm 1844.
Các kinh sách Bái hỏa giáo như Zend-Avesta
nhờ công trình của các học giả như Anquetil Duperron, Rask, Burnouf,
Westergaard, Spiegel và Haug cũng đã được bình dịch sang các tiếng Âu
châu.
Từ năm 1879 đến 1910 Max
Müller đã lần lượt cho xuất bản Bộ Thánh Thư Á Châu (Sacred Books
of the East) gồm 50 quyển:
– Thánh Thư Hồi giáo (toàn
bộ)
– Thánh Thư Lão giáo (toàn
bộ)
– Thánh Thư Bái hỏa giáo
(gần đủ bộ)
– Thánh Thư Khổng giáo (gần
đủ bộ)
– Thánh Thư Kỳ Na giáo Ấn Độ
(Jainisme) (một số)
– Thánh Thư Ấn Độ giáo (21
quyển)
– Thánh Thư Phật giáo (10
quyển)
Nhờ ở những nỗ lực phi
thường của các học giả tiền bối ấy, mà ngày nay chúng ta không đến nỗi
thiếu tài liệu để khảo sát các đạo giáo.
3. Sự chuyển hướng tâm lý trong nhân loại
Thế giới ngày nay đã bắt đầu
tìm hiểu sâu rộng về các đạo giáo.
Từ cuối thế kỷ XIX, đã thấy
có nhiều hội nghị tôn giáo quốc tế, trong đó các đại diện các tôn giáo
được tự do thuyết trình về tôn giáo mình. Ví dụ Đại hội tôn giáo tại
Chicago khai mạc ngày 11.9.1893, và Vivekananda đã là ngôi sao sáng
trong Đại hội ấy; hoặc Đại hội các tôn giáo ở Lahore, Pakistan, tháng
12–1896.
Đại học Oxford từ năm 1939
đã thành lập khoa Tôn giáo đối chiếu. Vị giáo sư dạy về tôn giáo đối
chiếu đầu tiên là Sarvapalli Radhakhrishnan, sau này làm Tổng thống Ấn
Độ. Giáo sư kế tiếp thay thế Radhakhrishnan từ năm 1952 là R. C. Zaehner
(công giáo).
Viện Văn hóa Pháp (Institut
de France) và Đại học Paris cũng đã bắt chước mở khoa tôn giáo đối chiếu
từ 1959 và linh mục Henri de Lubac dòng tên, đã được mời phụ trách.
Khoảng 1963 Đại học Sorbonne cũng mời Olivier Lacombe dạy về môn triết
lý đối chiếu.
Giáo hội La Mã từ sau cộng
đồng Vatican II (1962– 1964) cũng đã khuyến khích giáo dân tìm hiểu và
bắt tay thân thiện với các đạo giáo khác.
III. ÍT NHIỀU TÔN CHỈ VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐỂ
KHẢO VỀ TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU
Khảo về tôn giáo, ngày nay
các học giả đã dùng nhiều phương pháp. Chúng ta sẽ bàn qua về những
phương pháp ấy. Như trước hết chúng ta nên nhận định rằng muốn khảo về
tôn giáo đối chiếu, điều cần nhất là phải thành tâm cầu học, thành khẩn
đi tìm chân lý, lòng phải vô tư cởi mở, trí phải miệt mài suy cứu, như
vậy sự học của mình mới có ích lợi, bằng không thời chỉ là chuyện mất
thì giờ vô ích, đoạn tháng qua ngày.
Tôn giáo đối chiếu là một
môn học hết sức khó khăn. Tài liệu thì nhiều, nhưng biết khai thác, biết
sắp xếp, biết gạn lọc các tài liệu ấy mới là cái khó.
Chúng ta cần có một khối óc
vô tư. Nếu chúng ta thiên kiến và cố chấp, chúng ta không thể nào thấy
được những cái hay, cái đẹp của các tôn giáo bạn.
Một ví dụ:
Hồi thế kỷ XVI, có nhiều vị
thừa sai công giáo đã sống rất nhiều năm ở Trung Hoa, nhưng ý kiến các
vị đó về Khổng giáo lại đối nhau như mặt trời mặt trăng, khác nhau một
trời một vực.
Lecomte, Fouquet, Prémare,
Bouvet, Abel Rémusat thì xác nhận rằng Khổng Tử và các môn đồ ngài vốn
có những ý niệm cao siêu về vũ trụ, và đã tôn thờ chân chúa trong một
đền thờ cổ kính nhất hoàn võ.
Ngược lại, Maigrot,
Navarette và Longebardi thì lại cho rằng người Trung Hoa chỉ biết cầu
khẩn trước những bài vị vô tri, hoặc những vong linh thấp kém, những
thần minh u tối.
Một bên thì cho rằng dân Trung Hoa đã biết
tôn thờ Thượng đế; một bên thì cho rằng họ tin vu vơ, thờ quấy, duy vật
vô thần, v.v.
Tóm lại một bên vô tư nên
nhìn thấy được những cái hay cái tốt của người. Một bên thời cố chấp,
thiên kiến nên không chịu tìm hiểu cho sâu rộng, hẳn hoi, nói quàng nói
bậy.
Cái khó hơn hết là làm sao
đi sâu được vào tinh hoa các đạo giáo, tìm ra được cái vẻ mặt cao siêu,
đẹp đẽ vĩnh cửu, và phổ quát của siêu nhiên, sau những lớp hóa trang của
lễ nghi, từ ngữ, hình thức, ý kiến và tâm tư con người.
Mục đích tối hậu của khoa
tôn giáo đối chiếu chính là tìm cho ra tinh hoa các đạo giáo, tìm cho ra
chân lý, chân đạo khuất lấp, ẩn áo sau những bức màn hiện tượng dày đặc
của các tôn giáo, và cũng là sống một cuộc đời đạo hạnh chân thực, hẳn
hoi, khinh khoát, thanh sảng.
Sau đây là ít nhiều phương
pháp đã được áp dụng để nghiên cứu về tôn giáo đối chiếu:
(1) Phương pháp sử học
(méthode historique)
(2) Phương pháp hiện
tượng học (méthode phénoménologique)
(3) Phương pháp văn học
và ngữ học (critique littéraire et méthode philologique)
(4) Phương pháp nhân
chủng học (méthode anthropologique ou ethnologique)
(5) Phương pháp tâm lý
học (méthode psychologique)
(6) Phương pháp xã hội
học (méthode sociologique)
Ngoài ra tôn giáo đối chiếu
còn khai thác khoa khảo cổ (archéologie), lịch sử nghệ thuật
tôn giáo (histoire de l’Art religieux), phong tục học
(folklore) v.v…
(7) Sau khi đã khảo về từng
đạo giáo mới áp dụng phương pháp đối chiếu đạo giáo (méthode
comparative).
1. PHƯƠNG PHÁP SỬ HỌC (méthode historique)
Phương pháp sử học có mục
đích khảo sát sự biến thiên của các đạo giáo qua các thời đại, và ảnh
hưởng của thời cuộc đối với đạo giáo.
Muốn hiểu rõ sự biến thiên
của đạo giáo chúng ta cần phải đặt nó vào những khung cảnh lịch sử tự
nhiên.
Ví dụ muốn biết về sự biến
thiên của đạo Do Thái, sự tiến triển của thánh kinh ta cần biết những
nét chính yếu về lịch sử dân tộc Do Thái và các nước trong vùng cận
đông. Đại khái:
1. Ai Cập thịnh trị:
1600–1200 tcn. Lúc ấy Do Thái bị lưu đày ở Ai Cập và dân số tăng từ 70
đến 3.000.000.
2. Do Thái xuất Ai Cập dưới
sự lãnh đạo của Moise khoảng 1200 tiến vào Canaan lập quốc (1250–1200).
3. Thời kỳ lập quốc nhờ công
lao của các Quan xét (Juges), Saul, David, Salomon (1200–931).
4. Thời kỳ Nam Bắc triều
Juda và Israel (931– 731).
Thời này là thời suy, nên
thấy xuất hiện nhiều tiên tri. Nhiệm vụ các Ngài là bảo vệ kẻ hèn yếu
chống với cường quyền, và hô hào công bình xã hội, như: Élie (860,
Israel), Élisée (850, Israel); Amos (750, Israel), Osée (750, Israel),
Isaie (740, Juda), Michée (740, Juda).
5. Thời Assyrie toàn thịnh
(900–607) với các vua danh tiếng như Sargon (721–705), Sennachérib
(705–681) Asarhadon (680–669). Assyrie tàn phá Israel (Bắc triều) và bắt
đi đày sang Assyrie năm 712. Các tiên tri kỳ này toàn thuộc Juda (Nam
triều): Sophonie (630), Jérémie (627), Nahum (612), Habacue (600),
Ezéchiel (600). Các thánh thư đã được soạn thảo trong kỳ này: Deutérome
(622), Josué, Các Quan xét, Sách Samuel, sách các Vua (622)…
6. Thời Babylone toàn thịnh
(606–536) Judée và Jérusalem bị tàn phá, dân Judée bị đày sang Babylone
năm 586. Các vua danh tiếng thời ấy là Nabopolassar (625– 602), và
Nabuchodonosor (604–562). Thời này là thời hoạt động của Ezechiel cùng
lưu lạc với chúng dân sang Babylone. Các sách viết thời này: Deutéro -
Isaie (đoạn 40– 55) (550).
7. Thời Ba Tư toàn thịnh
(606–536) với các vua danh tiếng Cyrus (555–529), Cambyse (529–522). Năm
538 Cyrus giáng chiếu cho Do Thái trở về lập quốc. Thời này có các tiên
tri Aggée (520), Zacharie (520), Malachie (450). Các thánh thư viết
trong thời kỳ này: Job, Châm ngôn, Tình Ca, Ruth, nhiều Thánh vịnh,
Jonan, Tobie v.v… Phần thứ 3 của sách Isaie (Trito Isaie từ đoạn 55 đến
66) cũng được viết vào thời kỳ này.
8. Thời kỳ Hy Lạp toàn thịnh
(330–146) với hai dòng vua: dòng họ Lagides cai trị Ai Cập, dòng họ
Séleucides cai trị Syrie. Thời này Do Thái bị Hi Lạp đô hộ. Các sách
viết thời này: Bản dịch kinh thánh Septante (300), Ecclésiaste, Esther,
Daniel (165). Do đó người ta mới hiểu tại sao sách Esther và Daniel có
những đoạn viết bằng tiếng Hi Lạp.
9. Thời kỳ La Mã toàn thịnh
(146–470). Do Thái lại bị La Mã đô hộ. Các môn phái Pharisiens,
Saducéens, Esséniens thành hình.
Áp dụng những chuyển biến
lịch sử trên vào công cuộc khảo sát đạo Do Thái, ta nhận thấy ít nhiều
điểm quan trọng như sau:
(1) Vì bị lưu đày, nên nhãn
giới của người Do Thái trở nên rộng rãi hơn, và do đó quan niệm về
Thượng đế cũng trở nên phổ quát, không còn tính cách địa phương như xưa.
(2) Vì không còn đền thờ để
tụ tập thờ phụng, nên đạo giáo trở nên tinh túy hơn, nội tại hơn, bớt
hình thức hơn.
(3) Những liên lạc ảnh hưởng mật thiết đối
với các nước lân bang hùng mạnh như Assyrie, Babylone, Perse, Hi Lạp ảnh
hưởng rất nhiều đến công trình sáng tác của thánh kinh. Ảnh hưởng lịch
sử nói trên giúp ta hiểu những vay mượn của thánh kinh đối với các huyền
sử Babylone về sự tạo thiên, lập địa, về Hồng thủy, về địa đàng, v.v.
hoặc những vay mượn của thánh kinh đối với Bái hỏa giáo như tên quỉ
Asmodée trong sách Tobie (Tobie 3,17), chuyện Chúa và Satan trong Job.
(4) Những dữ kiện lịch sử trên cũng giúp
ta hiểu sách Daniel chẳng hạn không thể nào được chép vào thời vua
Nabuchodonosor (604–562) mà thực ra đã được chép vào thời Hi Lạp sau này
(164), vì có đoạn viết bằng tiếng Hy Lạp. Vì viết lâu về sau, nên đã có
nhiều sai lầm khi đề cập đến thời các vua Babylone thời trước. Chẳng hạn
Balthazar, Daniel cho là con vua Nabuchodonosor, và là vua Babylone,
nhưng thực ra ông là con vua Nabonide, và Balthazar không hề làm vua bao
giờ. Daniel nói về Darius le Mède, mà khảo lịch sử không có ai tên như
vậy mà được làm vua cuối đời Babylone, trước khi bị Cyrus vua Ba Tư
(Cyrus le Perse) chinh phục. Khung cảnh triều đình tân Babylone được mô
tả bằng những danh từ gốc Ba Tư. Hơn nữa những nhạc khí triều
Nabuchodonosor lại có những tên phiên từ tiếng Hi Lạp sang.
Ngoài ra sách Daniel còn mô tả rõ ràng những trận tranh hùng giữa hai
dòng vua Hi Lạp là giòng họ Lagides (Ptolémée) và Séleucides.
Một quãng triều vua Antoichus Épiphane (Hi Lạp thuộc giòng Lagides, trị
vì: 175–164) được mô tả rất kỹ lưỡng với nhiều chi tiết.
Do đó, nhiều truyện mà truyền thống trước
kia cho là Daniel nói tiên tri, nay trở thành hậu thuật.
(5) Nhờ so sánh thánh kinh
với những dữ kiện lịch sử, ta cũng tìm ra được rằng quyển Isaile chẳng
hạn không phải do một mình Isaie viết vào khoảng thế kỷ VIII, mà thực đã
do nhiều người viết vào những thời kỳ khác nhau.
a. Quyển I (từ đoạn 1 đến
39) viết vào khoảng thế kỷ VIII, khi Juda còn độc lập.
b. Quyển II (Deutéro–Isaie
từ đoạn 40 đến 55), viết vào khoảng thế kỷ 6, khi vua Cyrus đã chinh
phục và tàn phá Babylone, nên mới xưng tụng đích danh Cyrus là đấng
Messie hay Kitô (45–I), và mô tả sự sụp đổ của Babylone (41: 17–19; 43:
19–20).
c. Quyển III (Trito - Isaie
từ đoạn 56 đến 66) viết khi dân Do Thái đã được trở về Palestine phục
quốc theo chiếu chỉ của Cyrus ban bố năm 538, vì thế nên mới nói Do Thái
đã đền xong tội nợ, về sự quật khởi, phục hưng của Jérusalem, và những
ngày hoàng kim sắp đến…
2. PHƯƠNG PHÁP HIỆN TƯỢNG HỌC (Méthode
phénoménologique)
Phương pháp này có mục đích
khảo sát xem từ những yếu tố đạo giáo căn bản, các đạo giáo đã biến hóa
thành những hình thức khác nhau ra sao. Ví dụ khảo sát xem đạo giáo quan
niệm thế nào về Thượng đế, về giải thoát, về lai sinh. Các đạo giáo có
những cách thức thờ phụng bên ngoài ra sao, và quan niệm thế nào về đời
sống tâm thần, v.v.
3. PHƯƠNG PHÁP VĂN HỌC VÀ NGỮ HỌC (Critique
littéraire et méthode philologique)
Phương pháp văn học khảo về
từ ngữ dùng trong các thánh thư, khảo về ý nghĩa, nguyên nghĩa những từ
ấy, cũng như cách hành văn của thánh thư.
Phương pháp ngữ học so sánh
từ ngữ nước này với nước kia để tìm ra những gốc rễ tương đồng, những ý
nghĩa tương đồng.
Các nhà ngữ học cho rằng từ
ngữ mà tương đồng, thì quan niệm cũng tương đồng, tín ngưỡng cũng tương
đồng, do đó ngữ học có thể giúp ta tìm ra được chân đạo đại đồng nguyên
thủy khi mà từ ngữ chưa qua phân. Đó là ước mơ của các nhà ngữ học.
Dẫu sao khảo về văn từ, về
từ ngữ cũng là một công chuyện hết sức quan trọng để tìm hiểu đạo giáo.
Các nhà học giả khảo về các đạo giáo thường học các cổ ngữ như Sanscrit,
Hán, Hébreux, Araméen, Grec, v.v. để hiểu thánh thư cho thấu đáo, vì
dịch thường là phản (traduttore, traditoire), vì người dịch thường
đem quan niệm tư tưởng, tín ngưỡng mình lồng vào nguyên tác, và những
thêm bớt, cắt xén không phải không có.
Không hiểu rõ từ ngữ không
tìm ra được tinh hoa đạo giáo. Một vài thí dụ:
Chữ Đạo
道
của Trung Hoa vừa có nghĩa
là Thiên, là Thần là Bản thể của vũ trụ, vừa
có nghĩa là tôn giáo, là đường.
Chữ Hư
虛,
chữ Vô
無
của Lão và Phật, đều có
nghĩa là Tuyệt đối thể chứ không phải là hư vô như các học
giả Âu châu thường hiểu lầm.
Nhờ phương pháp ngữ học,
người ta đã tìm ra được ít là ba dòng từ ngữ chính:
– Dòng Sémitique gồm các
tiếng Do Thái, Cận đông, và Bắc Phi (Hébreux, Babylonien, Phénicien,
Carthaginois, Arabe).
– Dòng Indo-Européen hay
Aryen gồm các tiếng Ấn độ và Âu châu (Sanscrit, Pháp, Tây Ban Nha, Đức,
Ý, Latin, Hi Lạp, Celtique, Slave, v.v.)
Nhờ khảo về văn từ, về cách
hành văn mà học giả Julius Wellhausen (chết năm 1918) đã tìm ra được
rằng bộ Ngũ Kinh mà trước kia ta tưởng là do Moise chép thật sự đã do
nhiều người chép vào những thời kỳ khác nhau. Nó gồm:
– Tài liệu J. vì dùng chữ
Yahweh (gọi là J. vì tiếng Đức viết là Jahweh), để chỉ Thiên Chúa. Tài
liệu này viết ở Nam triều Juda vào khoảng năm 850.
– Tài liệu E vì dùng chữ
Elohim để chỉ Thiên Chúa. Tài liệu này viết ở Bắc Triều Israel vào
khoảng năm 750.
– Tài liệu D tức là bộ
Deutéronome viết vào khoảng năm 630.
– Tài liệu P tức là bộ Lévitique (P =
Priestly Code) viết vào khoảng năm 450 sau khi dân Do Thái đã từ chốn
lưu đày trở về hưng quốc.
Thuyết này đã được bộ Bible de
Jérusalem công nhận.
Nói về ngữ học chúng ta
không thể nào không nhắc tới hai vĩ nhân là Champolion và Henri
Rawlinson.
Champolion đã từ bia đá Rosette khắc chiếu
chỉ vua Ptolomée V bằng ba thứ tiếng cổ Ai Cập, Tân Ai Cập, Hi Lạp, đã
tìm ra được cách đọc loại chữ cổ Ai Cập (hiéroglyphe), sau bốn năm
nghiên cứu (1818– 1822).
Năm 1835, Henri Rawlinson khám phá ra một
tấm bia lớn ở trên núi Behistun cách Babylone 200 dặm về phía Đông, khắc
ghi sự nghiệp vua Darius bằng ba thứ tiếng Ba Tư, Elamite và Babylone.
Ông Rawlinson biết tiếng Ba tư. Sau 18 năm nghiên cứu và so sánh ông đã
tìm ra được cách đọc cổ ngữ Babylone (cunéiforme) và do đó cả một kho
tàng văn học cổ Babylone đã có thể khai thác ra được.
4. PHƯƠNG PHÁP NHÂN CHỦNG HỌC (Méthode
anthropologique ou ethnologique)
Phương pháp này chuyên khảo
về các đạo giáo và tín ngưỡng của các dân tộc còn sơ khai khắp năm châu
như:
– Người lùn Pygmée ở vùng
Congo (Phi)
– Người Bushmen hay Nigrito
ở Nam Phi.
– Người Azande ở vùng Soudan
(Phi)
– Người dân đảo Adaman (vịnh
Bengale)
– Các sắc dân ở Mélanésie
(Nam Dương quần đảo)
– Các bộ lạc da đỏ Mỹ như
Nevaho, Apache, Chiricahua, Mescalero, Zuni Pueble v.v…
Các học giả chủ trương rằng
tìm hiểu về đạo giáo và tín ngưỡng những dân tộc còn sơ khai sẽ gián
tiếp giúp ta hiểu được đạo giáo của người tiền sử và sẽ tìm được xem các
đạo giáo lúc ban sơ ra sao.
Sự khảo cứu này giúp ta hiểu
biết rằng người xưa quan niệm Tuyệt đối là vô ngã, vô biên, mà họ gọi là
Linh khí (Mana). Linh khí ấy có thể trụ vào những linh nhân, linh vật,
linh mộc, linh thảo, làm cho chúng trở nên thiên liêng đáng trọng kính.
Đó là những vật tổ (totem) vật linh (Fétiche) hay những vật cần phải
kiêng dè, úy kị (tabou) v.v…
Đọc bài
Chính khí ca
正 氣 歌
của Văn Thiên Tường
文 天 祥,
chúng ta sẽ hiểu thế nào là linh khí, linh nhân, linh vật hơn:
«Anh hoa chính khí đất
trời,
Khoác hình vật chất khắp
nơi vẫy vùng.
Tràn mặt đất tuôn sông,
kết núi,
Vút trời mây chói lói
trăng sao,
Trần ai lẩn bóng anh hào,
Muôn nghìn khí phách rạt
rào tầng xanh…»
(Thiên địa hữu chính khí,
天 地 有 正
氣
Tạp nhiên phú lưu hình.
雜 然 賦 流
形
Hạ tắc vi hà
nhạc,
下 則 為 河 嶽
Thượng tắc vi nhật tinh.
上 則 為 日
星
Ư nhân viết hạo nhiên,
於 人 曰 浩
然
Phái hồ tắc thương minh.
沛 乎 塞 蒼
明 )
5. PHƯƠNG PHÁP TÂM LÝ HỌC (Méthode
psychologique)
Phương pháp này khảo sát về
tâm lý con người, những mơ ước của con người, những khát vọng siêu nhiên
vốn có nơi con người, cũng như những ảnh hưởng đạo giáo đối với con
người.
Ta cũng có thể tìm hiểu về
những phương pháp các đạo giáo đã dùng để kích động, lôi cuốn con người,
thu phục con người, v.v.
6. PHƯƠNG PHÁP XÃ HỘI HỌC (Méthode sociologique)
Phương pháp này khảo về đời
sống các đoàn thể đạo giáo lớn nhỏ, các cách tổ chức cũng như những cách
thức đã dùng để bành trướng, để duy trì, để đối phó với thời cuộc, v.v.
Ta thấy đoàn thể có một ảnh
hưởng quyết định về chính tà, chân giả, dở hay. Và tùy mỗi đoàn thể chân
lý lại có một bộ mặt khác.
Một ví dụ: Đạo Do Thái và
Đạo Tin Lành chấp nhận Cựu Ước tất cả chỉ có 39 quyển, các quyển khác
đều là ngụy thư.
Trái lại Cựu Ước Công giáo gồm những 46
quyển (ngoài 39 quyển mà Do Thái và Tin Lành công nhận, Công giáo còn có
thêm Jusith, Tobie, Macchabées I và II, Livre de la Sagesse,
Ecclésiastique, Baruch ấy là chưa kể những phần phụ thêm và sách Esther,
và Daniel). Như vậy những quyển mà Do Thái và Tin Lành là ngụy thư, thì
Công giáo lại cho là Thánh Thư.
Ví dụ Công giáo tin Đức Mẹ vô nhiễm nguyên
tội, nhưng Giáo hội chính thống lại không tin vậy,
v.v.
7. ĐẠO GIÁO VỚI CỔ TÍCH - CỔ SỬ
Khoa khảo cổ cũng có công
thực lớn đối với khoa tôn giáo đối chiếu.
Gần đây nhờ sự khai quật các
tầng lớp đất miền Cận Đông, người ta đã tìm thấy những văn tự, những
hình tích có từ trước thời Hồng thủy ở Sippar và ở Ur.
Nguyên ở Sippar (Accad),
người ta đào được một thư viện gồm 60.000 văn bản.
Ở Nippur (Cahneh), người ta
cũng đã đào được 50.000 văn bản khoảng 300 năm trước Thiên Chúa, trong
đó có toàn bộ sách vở của một thư viện gồm 20.000 quyển biên khảo về mọi
bộ môn văn học.
Nhờ vậy mà ta biết được huyền thoại về tạo
thiên lập địa của Babylone, truyện vườn Địa Đàng Eridu gần Thành Ur,
truyện Hồng Thủy Babylone hay Anh Hùng ca Gilgamesh và Utnapishtim (Noe
Babylone) và thấy chúng tương tự như các chuyện trong Cựu Ước về các vấn
đề nói trên.
8. NGHỆ THUẬT TÔN GIÁO VÀ PHONG TỤC
Khảo về lịch sử nghệ thuật
tôn giáo cũng như về phong tục cũng giúp ta hiểu biết về đạo giáo rõ
hơn.
9. PHƯƠNG PHÁP ĐỐI CHIẾU CÁC ĐẠO GIÁO (Méthode
comparative)
Cuối cùng chúng ta mới khảo
về các đạo giáo, so sánh các đạo giáo. Công trình này được thực thi qua
ba giai đoạn:
(1) Lược thuật về các đạo
giáo (Hiérographie)
(2) So sánh và phân loại đạo
giáo (Hiérologie)
(3) Nhận định về giá trị các đạo giáo về
nội dung cũng như về hình thức. Tìm ra một lý thuyết về đạo giáo
(Hiérosophie)
Ba giai đoạn này chính là ba
giai đoạn của mọi khoa học.
– Giai đoạn (1) là giai
đoạn quan sát và mô tả các hiện tượng đạo giáo (Observation et
description des phénomènes religieux)
– Giai đoạn (2) là giai
đoạn đi tìm cho ra những định luật chi phối các hiện tượng ấy
(Établissements des lois)
– Giai đoạn (3) là giai
đoạn đi tìm những lý thuyết khả dĩ giải thích thỏa đáng được mọi hiện
tượng tôn giáo (Élaboration des théories)
Các sách khảo sát về tôn
giáo đối chiếu thường theo phương pháp nói trên.
Ở đây chúng ta chỉ chú trọng
nghiên cứu triết lý về tôn giáo đối chiếu, nên chúng ta chỉ đặc biệt đi
tìm cho ra những tiêu chuẩn chính yếu khả dĩ giải thích được mọi hiện
tượng đạo giáo, tìm ra được những hiện tượng tương đồng tương dị giữa
các đạo giáo, những tiêu chuẩn chân lý, và ý nghĩa cũng như công dụng
chân thực của đạo giáo.
Tóm lại, chúng ta lần lượt
khảo cứu:
(1) Ít nhiều tiêu chuẩn và
phương pháp để khảo sát về khoa tôn giáo đối chiếu.
(2) Ít nhiều nhận định khái
quát về tôn giáo đối chiếu.
(3) Quan niệm tam tài và
lưỡng nguyên với khoa tôn giáo đối chiếu.
(4) Các tầng lớp trong con
người với khoa tôn giáo đối chiếu.
(5) Những quan niệm khác
biệt giữa Đông và Tây về tôn giáo (về Thượng Đế, về thân thế, và định
mệnh con người).
(6) Tượng hình (Symboles)
với khoa tôn giáo đối chiếu.
(7) Dịch lý với khoa tôn
giáo đối chiếu.
(8) Đi tìm ít nhiều nguyên
tắc để làm tiêu chuẩn chân lý.
(9) Phân loại đạo giáo:
Ngoại giáo và nội giáo. Thiên nhiên và qui ước.
(10) Đồng
qui nhi thù đồ.
CHÚ THÍCH
H. Ringgren et A. V. Ström,
Les Religions du Monde, p. 116.
[2]
Xem Văn Hóa Á Châu, tập I số 5, trang 66 trở đi, và tập II, số 15
tháng 6 năm 1959 trang 13 trở đi.
[3]
Xem Max Müller, Essai sur l’histoire des religions, từ tr. 251
đến 394.
[4]
Bái hỏa giáo tức là Zôroastrisme ở Ba Tư do Zoroastre sáng lập vào
khoảng 660 trước Thiên Chúa giáng sinh.
[5]
Xem Max Müller, Essai sur l’histoire des Religions, tr. 227.
[6]
Max Müller, Essai sur l’histoire des religions, p. xiv (préface).
[7]
Asmodée, ce mot reproduit le zend Aêsma daêva.
Max Müller, Essai sur
l’histoire des Religions, p. 207 và 514.
[8]
Bible de Jérusalem, p. 982.
[9]
Ibid., p. 982.
[10]
Ibid., p. 982.
[11]
Cf. Bible de Jérusalem, p. 982.
[12]
John J. Dougherty, Searching the Scriptures, p. 65.
[13]
Bible de Jerusalem, p. 4.
[14]
Halley, Pocket Bible Handbook, p. 52 và 43.
[15]
Halley, Pocket Bible Handbook, p. 52 và 43.
[16]
Chính Khí Ca, trích bản dịch
của Nguyễn Văn Thọ.
[17]
Xem Halley, Pocket Bible Handbook, p. 26, 27 và Bible de
Jerusalem, p. xi.
[18]
Antoine Wenger, a.a. Vatican II, p. 219.
[19]
Halley, Pocket Bible Handbook, p. 48; 49; 61; 64; 76.
[20]
Ba danh từ Hiérographie, Hiérologie, Hiérosophie là ba danh từ do linh
mục H. Pinard de la Boullaye, S.J. tạo ra trong quyển Étude comparée
des religions do Ông viết.
»
mục lục
| tựa |
chương
1
2
3 4
5
6 7
8
9 10 |
sách tham khảo
|