HƯỚNG TINH THẦN
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
»
mục lục
| tựa |
chương 1
2
3
4 5
6
7 8
9
10 |
sách tham khảo
chương
7
DỊCH LÝ VỚI KHOA TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU
Sở dĩ chúng ta dùng Dịch
kinh và Dịch lý để tìm hiểu về các tôn giáo vì Dịch kinh là một bộ
sách tối cổ, không có mục đích gì khác hơn là tìm cho ra Bản thể của
vũ trụ, mọi sự biến thiên, công dụng của Bản thể ấy, những định luật
chi phối mọi sự biến thiên, thăng trầm trong hoàn võ, và mục phiêu
rốt ráo của cuộc biến dịch đại tạo ấy.
Người xưa còn cho rằng Dịch là một bộ sách
dạy cho chúng ta biết đường lối trở về với Trời, với Thượng đế.
Dịch kinh chẳng những là một
môn triết học tối cao, mà cũng còn là một môn toán học. Leibniz, sau khi
đã phát minh ra khoa toán học nhị nguyên (arithmétique binaire) – khoa
toán học hiện nay được áp dụng trong mọi loại toán điện cơ, điện tử – đã
để ra nhiều thì giờ nghiên cứu Kinh Dịch, nhất là các đồ bản Dịch. Ông
đã hết sức ngỡ ngàng khi khám phá ra rằng 64 quẻ trong vòng Dịch Tiên
Thiên có thể viết thành các con số liên tiếp nhau từ 0 đến 63 theo khoa
toán học nhị nguyên, và Ông đã đi đến kết luận là các tác giả Dịch đã
tìm ra khoa toán học này trước Ông hàng mấy nghìn năm!
Nói thế để chứng minh rằng
Dịch kinh là một khoa học, hết sức thực tế chứ không có thiên kiến; hết
sức phổ quát chứ không hẹp hòi, lại nữa nó đã được những bộ óc siêu việt
trong nhân loại viết nên, vì thế ta phải lấy nó làm tiêu chuẩn vô tư để
mà khảo sát và tìm hiểu các tôn giáo.
I. QUAN NIỆM «NHẤT THỂ VẠN THÙ» VỚI CÁC ĐẠO GIÁO
Dịch kinh chủ trương «Nhất
thể vạn thù». Đối với Dịch chỉ có một Bản thể duy nhất là Thái cực, là
Đạo đã phát sinh ra vạn vật, vạn hữu. Vạn vật vạn hữu chỉ là muôn vàn
hiện tượng, muôn vàn công dụng, muôn vàn trạng thái của một Bản thể hằng
cửu, y thức như 64 quẻ chỉ là những hiện tượng, những trạng thái nhất
đời, những công dụng, những lớp lang, tuần tiết dị biệt của một Thái Cực
đại đồng.
Các đạo giáo lớn trên thế
giới hầu hết đều chủ trương như vậy nhất là các tôn giáo Á đông.
Trong một cổ thư Ai Cập, nữ thần Isis
phán: «Ta là Bản thể muôn loài, là chủ tể quần sinh, vạn hữu, là nguồn
mạch thời gian, là chủ tể chúng thần, là nữ vương các vong linh, là tối
thượng thần trên trời. Mình ta tóm thâu hết chúng thần nam nữ. Ta toàn
quyền cai trị các vòm trời sáng láng, các luồng gió thuận ngoài bể khơi,
và sự tịch mịch âm thầm của địa phủ. Ta là thần minh duy nhất trong vũ
trụ, mà khắp hoàn võ tôn thờ dưới những danh hiệu, những hình thức khác
nhau, bằng những lễ nghi khác nhau. Người gọi ta là Mẹ chúng thần.»
Đối với Ấn giáo, thì Đại Ngã là chủ tể vạn
vật. Cũng y như mọi tai hoa đều qui về trục bánh xe, mọi vật, mọi thần,
mọi giới, mọi loài đều qui tụ về Đại Ngã.
Đại Ngã như vậy là nguồn gốc xuất sinh vạn
vật, là khuôn thiêng thêu dệt nên vạn hữu.
Phật giáo cũng chủ trương
đại loại rằng: «Trên mặt trùng dương Bản thể, gió nhân duyên đã làm nổi
lên sóng vạn tượng chúng sinh. Vạn tượng, vạn hữu sinh sinh, diệt diệt,
hoàn toàn bị chi phối bởi định luật nhân quả.
«Hiện tượng trong vũ trụ có sinh có diệt,
có thủy có chung nhưng bản thể thì bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm…
Bản thể gọi là Chân Như. Hiện tượng gọi là vạn pháp. Chân như thời hằng
cửu và hữu ngã…»
Quan niệm của Lão giáo cũng
y thức như vậy.
Đạo Đức Kinh chương I viết:
«Hóa Công hồ dễ đặt tên,
Khuôn thiêng hồ dễ mà đem
luận bàn.
Không tên sáng tạo thế
gian,
Có tên là mẹ muôn vàn thụ
sinh.
Tịch nhiên cho thấy uy
linh,
Hiển dương cho thấy công
trình huyền vi.
Hai phương diện một Hóa
nhi,
Huyền linh khôn xiết, huyền
vi khôn lường.
Người là chúng diệu chi
môn,
Cửa thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi.»
Khổng giáo, theo truyền
thống của Dịch kinh, dĩ nhiên cũng chủ trương quan niệm «nhất thể vạn
thù».
Linh mục Ricci phê bình chủ
trương này – dĩ nhiên là theo nhãn quan Công giáo – như sau:
«Trào lưu tư tưởng mà nhiều người hiện
nay, theo tôi có lẽ đã vay mượn ở một tà giáo (?) từ 500 năm nay (Tống
Nho). Quan niệm ấy là: Thiên địa vạn vật nhất thể, người vật cỏ cây, tứ
tượng đều hợp thành như một cơ thể duy nhất mà vạn vật là những phân bộ.
Từ quan niệm nhất thể ấy, họ rút ra nhiệm vụ bác ái đối với mọi người,
và chủ trương mọi người đều có thể nên giống Thượng đế.»
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo,
Do Thái giáo không quan niệm rằng vạn vật do Tuyệt đối thể, do Thượng đế
phóng phát (émaner) ra, nhưng vạn vật đã do Thượng đế tạo dựng nên.
Thiên Chúa giáo cho rằng vạn
vật đã được tạo dựng từ hư vô, dựa vào lời sách Maccchabées (I,
Macchabées, VII, 28).
Tuy nhiên, dùng quan niệm
«nhất thể vạn thù» làm tiêu chuẩn ta cũng có thể hiểu nhiều đoạn Cựu Ước
và Tân Ước một cách thấu đáo hơn.
Thực vậy nhiều đoạn thánh
kinh đã chủ trương Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật qua trung gian của
Đạo, của Logos. Để chứng minh điều ấy chúng ta hãy tìm đọc:
– Khải Huyền, I, 8– 21; 6,
2– 23.
– Romaine, XI, 36
– I, Cor., 8, 6.
– Phúc Âm thánh Joan, Phi
lộ, 2, 3.
– Col., I, 16– 17.
– Ecclésiastique 24, 1– 10.
– Minh triết, II, 17, v.v.
Trong thư gửi cho người
Colossiens, thánh Paul viết:
«Ấy chính ngài là hình ảnh của Chúa Trời
vô ảnh, là trưởng tử đứng đầu quần sinh. Vì muôn vật đã được dựng nên
trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật hữu hình hoặc vô hình,
hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chính, hoặc cầm quyền, đều
là bởi Ngài và vì Ngài mà dựng nên cả. Ngài có trước muôn vật và muôn
vật tồn tại trong Ngài… Vì Chúa đã làm cho Ngài chứa chan sự Viên mãn
của Chúa.
Các nhà bình luận thuộc
Thánh kinh Jérusalem, khi bình đoạn này, đã cho rằng Thánh kinh vốn chủ
trương vũ trụ tràn đầy sự hiện diện sáng tạo của Thượng đế, một quan
niệm hết sức phổ biến ở Hi lạp và La mã.
II. QUAN NIỆM THIÊN NHÂN TƯƠNG DỮ CỦA
DỊCH KINH VỚI CÁC ĐẠO GIÁO
Trương Kỳ Quân, một học giả
Trung Hoa lỗi lạc hiện thời, đã viết như sau trong tạp chí «Trung Quốc
nhất chu» và trong «Trung hoa ngũ thiên niên sử» của Ông như sau:
«Trung Quốc tự thời Đường Ngu (Nghiêu,
Thuấn) tới nay đều có chủ trương Trời người có thể kết hợp… Kính Trời
cốt để yêu người, yêu người cốt để kính Trời… các thánh triết lịch đại
chỉ cốt làm sáng tỏ lẽ «Thiên Nhân hợp nhất».
Trong bài khảo luận của Ông về Chu Dịch,
ông cũng viết: «Sách Dịch thật mênh mông bao quát, nhưng đại khái là cốt
xiển minh lẽ «Thiên nhân tương dữ».
Chủ trương Thiên nhân hợp
nhất, hay nói nôm na, chủ trương Trời chẳng xa người, chính là một chủ
trương căn cốt của các đạo giáo, tuy xưa nay ít được khai thác một cách
thỏa đáng.
Ít ngày trước khi bị khổ nạn
chúa Jésus đã khẩn nguyện cùng đức Chúa Cha như sau:
«Ấy chẳng những vì họ mà con cầu xin thôi
đâu, nhưng cũng vì kẻ sẽ nghe lời họ mà tin con nữa, để cho ai nấy hiệp
làm một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha, để cho họ cũng ở
trong chúng ta…»
Ngài lại nói: «Ta sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ
ban cho các ngươi một Đấng yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời
tức là Thần Chân lý mà thế gian không thể tiếp nhận được vì chẳng thấy
và chẳng biết Ngài, nhưng các ngươi biết Ngài vẫn ở với các ngươi, và
sẽ ở trong các ngươi.»
Trong bài thuyết trình tại Thượng viện Hi
lạp, thánh Paul nói: «Ngài đã khiến cho muôn dân, sinh ra cùng một tông
tổ, tràn lan khắp mặt đất, đã ấn định cho họ thời gian, và đã giới hạn
cơ ngơi cho họ, để cho con người rờ rẫm, tìm kiếm và đạt tới thiên vị,
tìm ra được thiên thể; vả chăng Trời cũng chẳng có xa người. Thật
vậy chúng ta sống động và sinh tồn trong Ngài. Vả lại một triết
gia của quí quốc cũng đã nói: «Chúng ta là dòng dõi Ngài.»
Khảo thánh thư Ấn giáo, ta
thấy Áo Nghĩa thư đã viết:
«Ngã (Atman) ở trong tim tôi nhỏ hơn hạt
thóc, nhỏ hơn hạt mì, nhỏ hơn hạt cải, nhỏ hơn hạt kê, nhỏ hơn nhân hạt
kê, cũng Atman ở trong tim tôi đó lại lớn hơn không gian, lớn hơn muôn
ngàn vũ trụ.»
«Đó là Chân tâm trong lòng tôi, đó
chính là Brahma.»
Áo Nghĩa Thư cũng đưa ra đại
công thức Tat Tvam Asi: Cái đó chính là Con.
«Sự thực, con ơi, cái thực
thể tế vi mà con không tự giác được, chính nhờ cái thực thể tế vi ấy mà
cây vả này mọc lên…
Con ơi, con hãy tin rằng, cái thực thể tế
vi ấy đã tạo thành cả thế giới, toàn thể vũ trụ. Đấy là thực tại, đấy là
Atman. Chính con là cái ấy. Tat Tvam Asi.»
Cho nên cái học cao siêu
nhất là học để tìm cho ra được đấng vô cùng.
«Biết rằng trong dạ có
Trời,
Rối ren ngu muội tức thời
tiêu tan.»
Công phu tu luyện cao siêu
nhất là được kết hiệp với Atman, với Thượng đế.
«Từ nay âu đã thành thần,
Từ nay mơ ước hồng trần
tiêu tan.
Người phàm nay đã siêu
phàm,
Lòng trần nay đã biến
sang lòng Trời.»
Vả lại tìm Tuyệt đối thể,
không phải lìa đời, không phải lên thâm sơn, cùng cốc, vì Tuyệt đối thể
ở ngay trong lòng con người, ở ngay trong tâm khảm con người.
«Chân tâm nhỏ tựa ngón
tay,
Lồng trong tâm khảm muôn
loài thụ sinh.
Tâm thần trí lự bao
quanh,
Ai mà biết được trở thành
thần tiên.»
Thánh thư Coran của Hồi giáo cho rằng
Thượng đế ở gần con người hơn tĩnh mạch cổ con người.
Quan niệm «Thiên nhân tương
dữ» đã thấy có từ xa xưa ở Trung Hoa.
Kinh Thi viết:
«Quân Thương Ân bạt ngàn
Mục Dã,
Một rừng người chật cả sa
tràng.
(Cho ba quân thêm dạ sắt
gan vàng.)
(Võ Vương kêu:) Thượng đế
ở cùng ta đó,
Ba quân hãy vững lòng
vững dạ.»
Lời kêu gọi đó đã làm cho
binh sĩ nhà Châu hứng khởi, ào lên đánh tan quân Thương Ân trong một
buổi sáng…
Trương Hoành Cừ chủ trương:
«Người theo đạo Nho sẽ từ chỗ toàn thiện tới chỗ minh triết hoàn toàn.
Cho nên «Thiên nhân hợp nhất» là tuyệt đỉnh của sự học vấn, và như vậy
con người có thể thành thánh …»
Sách Đại Đỗng chân kinh của
đạo Lão chủ trương:
«Nhân Thiên bản tự vô sai
biệt,
Nhất điểm linh quang hỗn
Thái Huyền.»
Mục đích của đạo Lão chính
là vươn lên trên tầm kích thường nhân để kết hợp với Thượng đế. Vì thế
Đại Đỗng chân kinh mới viết:
«Tận nhân dĩ hợp Thiên.»
Nhưng Trời phải hiển hiện
trong lòng con người, thì lúc ấy mới có thể gọi là đạt đạo.
Vì thế Lão tử mới nói: «Kết
hợp với Trời là tuyệt điểm tinh hoa của cổ nhân.»
III. QUAN NIỆM VẠN VẬT TUẦN HOÀN CHUNG
NHI PHỤC THỦY VỚI CÁC ĐẠO GIÁO
Dịch kinh chủ trương vạn vật
biến thiên tiến thoái theo hai chiều tinh thần, vật chất, âm dương, vãng
lai phản phúc, tuần hoàn.
Chiều từ tinh thần ra vật
chất, ngoại cảnh là chiều THOÁI (involution). Chiều từ vật chất về lại
tinh thần là chiều TIẾN (évolution).
Người xưa nói: «Hậu thăng,
tiền giáng định nhất chu.»
後 升 前 降 定 一 周
(Giáng trước, thăng
sau định một vòng.)
Vì có vãng lai phản phúc
tuần hoàn, nên lúc khởi đầu cuộc đại tạo vạn vật đều hồn nhiên, vô tội,
và đến lúc chung cuộc lại trở nên tinh toàn.
Đó là ý nghĩa câu: «Thiên
địa tuần hoàn chung nhi phục thủy.»
Thiệu Khang Tiết một nho gia
tinh thông Dịch lý đã toát lược lẽ vãng lai phản phúc như sau: «Vạn vật
từ Trung điểm (Tuyệt đối) phát xuất ra, cuối cùng lại trở về Trung
điểm.»
Đại Đỗng chân kinh viết:
«Thủy chung như nhất.»
Lão Tử viết:
«Muôn loài sinh hóa đa
đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn
bản nguyên.
Hoàn bản nguyên an nhiên,
phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường vĩnh
vô cùng.»
Sách Khải Huyền của Thiên
Chúa giáo viết: «Ta là Thủy và là Chung.» (Apocalypse, 18, 21; 6, 2–
23).
Nếu mà Thủy Chung như nhất,
mà Thủy và Chung chính là Thượng đế, thì thủy và chung đều phải hết sức
tốt đẹp.
Vì vậy mà trong Sáng thế ký,
khi Chúa tạo dựng nên muôn loài đã phải khen muôn loài đẹp đẽ.
Cũng vì vậy, mà khi đề cập
đến buổi bình minh nhân loại thì Á cũng như Âu đều cho đó là một thời
hoàng kim…
Sách Khải Huyền chủ trương,
lúc chung cuộc, Trời sẽ chung sống với người, trong một thế giới mới,
trong một thành Jérusalem mới, huy hoàng rực rỡ, cạnh dòng sông Trường
sinh trong vắt, và cạnh cây Trường sinh đầy hoa quả tốt tươi. (Khải
Huyền, chương 21).
Nếu đầu mà hay, cuối cùng
lại đẹp, thì lúc nhân loại lao lung, cùng khốn, khổ cực nhất là khi lịch
sử nhân quần diễn biến tới lúc nửa đời, nửa đoạn, nửa cuộc, nửa chừng.
Các tai họa mà các đạo giáo
mô tả sẽ xảy ra trong ngày thế mạt, thực ra chỉ là những hồi chuông cảnh
tỉnh, những tai họa báo tri một khúc quanh lịch sử vô cùng quan trọng,
lúc mà nhân loại thức tỉnh thực sự, để nhận thức được rằng Trời chẳng xa
người, lòng trời đã lồng ngay trong lòng sâu con người.
Dịch viết: «Phục kỳ kiến
Thiên địa chi tâm hồ.»
復 其 見 天 地 之 心 乎.
Thật là vô cùng thâm thúy. (Xem Dịch kinh nơi quẻ Phục).
Khúc quanh lịch sử ấy cũng
tương tự như ngày Đông chí của một năm. Ngày Đông chí tuy là ngày tối
tăm, lạnh lẽo nhất trong năm, nhưng lại là ngày mà vừng dương trở gót
lại trên đường trời, để trở về cùng trái đất, đem ánh sáng, đem ấm áp
dần về cùng trái đất, và chuẩn bị một mùa xuân mới huy hoàng rực rỡ.
IV. DỊCH KINH VỚI QUAN NIỆM THIỆN ÁC
Dịch kinh chuyên dạy cách xu
cát tị hung, tức là dạy cho mọi người biết cách trừ diệt lầm than, khổ
ải, và mưu cầu hạnh phúc, sung sướng.
Dịch kinh cho rằng Thiện là
những gì hợp với đạo lý, tâm lý, vật lý, là những gì hỗ trợ cho cuộc
tiến hóa quần sinh, là những gì đem lại an bình, hạnh phúc cho nhân thế;
ác là những gì đi ngược lại các định luật vũ trụ, tâm lý, sinh lý, vật
lý, v.v. tất cả những gì làm cho con người hủ hoại, thoái hóa, tất cả
những gì làm cho con người lầm than cơ cực.
Dịch kinh cho rằng con người
sở dĩ lầm than, khổ sở là vì còn đang sống trong tương đối, trong không
gian thời gian, là vì không am tường đạo lý, tâm lý, vật lý, không có
cái nhìn bao quát thấu đáo về thực tế, không biết cách tiến thoái cho
hợp thời hợp cảnh, không biết cách thích nghi với hoàn cảnh; không biết
cách chế ngự hoàn cảnh; lại còn chia rẽ, không đoàn kết, không đồng lao
cộng tác, lại còn mất tự tín, tự chủ, tự cường.
Vậy muốn được thắng lợi,
được thành công, được hạnh phúc, cần phải biết suy tư nghiên cứu để hiểu
rõ hoàn cảnh mình đang sống, những khó khăn mình đang gặp, để tìm cho ra
những phương pháp chế ngự được hoàn cảnh, khắc phục được mọi nỗi khó
khăn; phải biết tự tín, tự cường; phải biết bình tĩnh và bền gan khi gặp
hoạn nạn; phải biết khiêm cung, thận trọng khi đắc thời, đắc thế; phải
tuân theo đạo lý, thiên lý, tâm lý, vật lý; phải biết đoàn kết, tương
ái, tương thân để cùng nhau xây đắp tương lai.
Vả bao lâu mà hình hài,
ngoại cảnh còn làm chủ con người, thì bấy lâu con người còn lao đao, lận
đận; bao lâu con người còn sống trong xung khắc mâu thuẫn, dù là trên
bình diện nội tâm, hay trên bình diện ngoại cảnh, thì bấy lâu con người
còn khắc khoải, khổ đau. Bao giờ tâm thần con người làm chủ, mà ngoại
cảnh chỉ đóng vai phụ bật, bao giờ con người hòa hợp được tâm thần mình
với ngoại cảnh, với tha nhân, với vũ trụ, với Toàn thể, bao giờ con
người vượt được lên trên cái thế giới tương đối, mâu thuẫn này, thì bấy
giờ con người mới thoát khổ.
Tuy nhiên, dở hay ở trên đời
này, tất cả đều là những yếu tố giúp cho con người lập được đại công,
đại nghiệp …
Tuy Dịch kinh không nói rõ
ràng như vậy, nhưng những tư tưởng trên ẩn ước và bàng bạc trong suốt bộ
Dịch, từ Thoán đến Tượng, từ quẻ đến hào, từ Kinh đến Truyện, cho nên
người học Dịch sẽ tìm ra được những quan niệm ấy không mấy khó khăn.
Các đạo giáo thiết tưởng
không thể nào dạy được gì cao siêu hơn.
V. Ý NGHĨA CUỘC BIẾN HÓA CỦA MUÔN LOÀI
Dịch là biến hóa. Dịch kinh
chủ trương vạn vật đều biến hóa không giây phút nào ngừng nghỉ.
Nhưng, như trên đã nói, sự
biến hóa của Dịch kinh là một vòng tuần hoàn, chứ không theo một đường
thẳng đẵng như các học thuyết Âu châu.
Thuyết biến hóa của Dịch có
hai chiều giáng, thăng, thoái hóa (involution), tiến hóa (évolution) chứ
không một chiều một hướng như thuyết tiến hóa của Lamarck, Darwin.
Dịch chủ trương biến hóa từ
thần đến vật, rồi lại từ vật đến thần, để thủy chung như nhất, chứ không
tiến hóa một chiều, lửng lơ từ vật đến người, như thuyết tiến hóa của
Darwin.
Dịch lại cho rằng vạn vật
biến hóa để thực hiện bản thể, tinh hoa của mình, để cuối cùng trở về
hợp nhất với Thái Hòa (Dịch, Kiền quái).
Như vậy vạn vật biến hóa có
mục phiêu, chứ không phải biến hóa mù quáng, bừa bãi, theo như nhãn quan
biến hóa duy vật.
Thuyết vạn vật biến hóa của
Dịch, mục phiêu biến hoá của Dịch cho chúng ta một niềm hi vọng vô biên
về tương lai.
Dịch cũng giúp chúng ta hiểu
được một đoạn văn hết sức bí ẩn của thánh Paul trong thư gửi người
Romains. Ngài nói: «Thực vậy, tôi tưởng rằng những sự đau khổ của thời
buổi này chẳng có thể so sánh được với vinh quang rồi đây sẽ hiển dương
trong chúng ta. Tất cả tạo vật đang nóng lòng chờ đợi sự xuất hiện của
những con Thiên Chúa.» (Rom. 8, 18).
Thế là đối với thánh Paul,
sự biến hóa của cuộc đại tạo này chỉ có mục đích giúp con người thành
thần minh, thành những Con Thiên Chúa thật sự.
Tư tưởng này từ hơn một thế
kỷ nay càng ngày càng trở nên rõ rệt.
Lecomte du Noüy gần đây cũng chủ trương
rằng mục đích xa xăm của cuộc tiến hóa là thực hiện một giống người siêu
đẳng, những «thần nhân».
Teilhard de Chardin viết:
«Tôi tin rằng vũ trụ tiến
hóa.
«Tôi tin rằng cuộc tiến hóa
sẽ tiến tới Thần Linh.
«Tôi tin rằng Thần Linh sẽ
kết thúc trong Thượng đế hữu ngã.
«Tôi tin rằng Thượng đế hữu
ngã tuyệt đối là đấng Christ đại đồng phổ quát.»
Radakhrishnan viết: «Thủy
chung như nhất.»
Ông lại viết thêm; «Lịch sử diễn biến từ Thần và lại trở về Thần.»
Như vậy theo lẽ Dịch thì vạn
vật đều biến hoá không ngừng để thực hiện định mệnh, thực hiện tinh hoa.
Một người đạo hạnh chân
chính, theo đúng lẽ Dịch của trời đất, cũng phải biết luôn:
Biến hóa hoàn cảnh để cho
đời sống vật chất thêm đẹp tươi.
Biến hóa tâm tư, cải thiện
đồng loại, để xã hội ngày càng thêm công bình trật tự.
Biến hóa tâm thần để trở nên
tinh toàn hoàn thiện, phối hợp với Thượng đế.
CHÚ THÍCH
Dịch chi vi thư giáo
nhân hồi Thiên chi đại kinh đại pháp dã. 易 之 為 書, 教 人 回 天 之 大 經 大 法 也.
Thái Cực quyền bổng đồ thuyết, tr. 52.
[2]
Voici un texte d’Apulée où la déesses Isis proclame elle-même son empire
unitaire et rélève par là les tendances égyptiennes elles-mêmes: «Je
suis la Nature même de toutes choses, la Maîtresse des éléments, la
source et l’origine des siècles, la Souveraine des divinités, la Reine
des mânes et la dieux et toutes les déesses. Je gouverne à mon gré les
éclatantes voutes du ciel, les vents salutaires de la mer et le triste
silence des enfers. Je suis la seule divinité qui soit dans l’univers,
que toute la terre révère sous plusieurs formes, avec des cérémonies
diverses et sous des noms différents. L’on m’appelle la Mère des dieux.»
(Sertillanges, Le Problème du mal, p. 30).
[3]
Verily this Self is the overlord of all things, the king of all things.
As all the spokes are brought together in the hub and felly of a wheel,
so are all things, all gods, all worlds, all breathing spirits, all
these selves, brought together in this Self.
(Brahadaranyaka Up.
2.5.14-15) (R. C. Zaehner, The Comparison of Religions, p. 67).
[4]
Ib. 3,8, 6-8 và R.C. Zaehner, The Comparison of Religions, p. 67.
[5]
Vũ trụ bình đẳng bản thể chi thượng, khởi nhân duyên sở sinh chi phong,
nhi thành vạn tượng sai biệt chi ba… Sinh nhi diệt, diệt nhi sinh, kỳ
gian nhân quả chi quan hệ bất dung thiếu muội… Vũ trụ chi hiện tượng,
hữu sinh diệt, hữu thủy chung. Kỳ bản thể tắc bất sinh, bất diệt, bất
tăng bất giảm. Thử Bản thể vị chi Chân Như. Hiện tượng vị chi vạn pháp.
Chân như giả phi vô thường, diệc phi vô ngã dã… 宇 宙 平 等 本 體 之 上, 起 因 緣 所
生 之 風, 而 成 萬 象 差 別 之 波 生 而 滅, 滅 而 生, 其 間 因 果 之 關 係 不 容 少 昧 宇 宙 之 現 象 有
生 滅, 有 始 終, 其 本 體 則 不 生 不 滅, 不 增 不 減 此 本 體 謂 之 真 如 現 象 謂 之 萬 法. 真 如 者
非 無 常, 亦 非 無 我 也. Bản thể Niết Bàn, hiện tượng tử sinh. 本 體 涅 槃 現 象 死 生.
P. Léon Wieger, Histoire des croyances religieuses et des opinions
philosophiques en Chine, p. 548 et ss…
[6]
Lão tử Đạo Đức Kinh chương I.
[7]
Mais l’opinion la plus suivie actuellement et qui me paraît (pare)
empruntée à la secte des idoles depuis 500 ans (philosophie des Song)
c’est que tout ce monde est fait d’une seule substance et que la
création du monde avec le ciel et la terre, les hommes et les animaux,
les arbres et les végétaux, et les quatre éléments, forment un corps
continu dont les divers êtres sont les membres. C’est cette unicité de
substance que l’on déduit le devoir de la charité envers les hommes et
la substance que l’on déduit le devoir de la charité envers les hommes
et la possibilité pour tous de devenir semblables a Dieu. (Henri Bernard
Maître, Sagesse chinoise et philosophie chrétienne, p. 108).
[8]
Col. I, 16-17.
[9]
Trung Quốc tự Đường Ngu dĩ lai tức hữu Thiên nhân hợp nhất chi tư tưởng.
Kính Thiên sở dĩ ái nhân, ái dân sở dĩ tôn Thiên. Lịch đại thánh triết
mạc bất kế tục hoành dương thử Thiên nhân hợp nhất chi đạo. 中 國 自 唐 虞 以
來 即 有 天 人 合 一 之 思 想. 敬 天 所 以 愛 人. 愛 民 所 以 尊 天. 歷 代 聖 哲 莫 不 繼 續 宏 揚 此 天 人
合 一 之 道. Trung Quốc nhất chu, kỳ 623, tr. 21 – Trung Hoa ngũ thiên niên
sử III, chương Lão Tử.
[10]
Dịch chi vi thư quảng đại tất bị, nhi ngữ kỳ yếu qui tắc vi Thiên nhân
hợp nhất chi đạo. 易 之 為 書 廣 大 悉 備. 而 語 其 要 歸 則 為 天 人 合 一 之 道. Trung Hoa
ngũ thiên niên sử, chương Chu Dịch, tr. 123.
[11]
Jean, 17, 20-21.
[12]
Jean, 14, 16-17.
[13]
Actes 17, 26-28.
[14]
Chandogya Upanishad, 3. 14. 3.
[15]
Ib. 3, 14. 4.
[16]
Verily, my dear, that finest essence which you do not perceive, verily,
my dear, from that finest essence, this great Nya-grodha (sacred fig)
tree thus arises.
Believe me, my dear, said
he, that which is the finest essence – this whole world has that as its
soul – That is Reality. That is Atman (Soul). That art thou, Svetaketu.
(Chandogya Up. 6. 12.2.3.)
[17]
He who knows that, set in the secret place (of the heart), he here on
earth, my friend, rends asunder the knot of ignorance. (Mundaka
Upanishad. 2. 1-10).
[18]
When are liberated all
The desire that lodge in
one’s heart,
Then a mortal becomes
immortal,
Therein he reaches Brahma.
(Brihad Aranyaka Up. 4.4.7.)
[19]
Svetasvatara Up. 3. 13.
[20]
Coran, Sourate 50, 16.
[21]
Thương Ân chi lữ, Kỳ hội như lâm, Thỉ vu Mục Dã, Duy dư hầu hâm, Thượng
đế lâm nhữ, Vô nhị nhĩ tâm.
[22]
Tống Nguyên học án, Hoành Cừ học án, quyển XVII tr. 55.
[23]
Xem Đại Đỗng chân kinh, I các tr. 5, 12 và 5b.
[24]
Xem Đại Đỗng chân kinh, I các tr. 5, 12 và 5b.
[25]
Xem Đại Đỗng chân kinh, I các tr. 5, 12 và 5b.
[26]
Lão Tử Đạo Đức kinh, chương 68.
[27]
Vạn vật tòng Trung nhi khởi, tòng Trung nhi chung (Thiệu Tử).
[28]
Đại Đỗng chân kinh, I, 7.
[29]
Đạo Đức Kinh, ch. 16.
[30]
Sáng thế ký, I, 31.
[31]
Xem Dignité humaine, p.20. – Lecomte du Noüy và Học thuyết Viễn đích của
tác giả, tr. 239.
[32]
Je crois que l’univers est en évolution,
Je crois que l’évolution va
vers l’Esprit.
Je crois que l’Esprit
s’achève en Dieu personnel.
Je crois que le Personnel
suprême est le Christ universel.
George Magloire, Teilhard de
Chardin, p. 123.
Xem thêm Lecomte du Noüy và
Học thuyết Viễn đích của tác giả, tr. 420.
[33]
There is coincidence of the beginning and the end. (Radakhrishnan.)
[34]
«The process of history has come from the divine spirit and to the
divine spirit it returns.» (Radakhrishnan) (Cf. Grace E. Cairns,
Philosophy of History, p. 312).
»
mục lục
| tựa |
chương 1
2
3 4
5
6
7
8
9 10 |
sách tham khảo
|