HƯỚNG TINH THẦN
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
»
mục lục
| tựa |
chương 1
2
3
4 5
6
7 8
9
10 |
sách tham khảo
chương
4
CÁC TẦNG LỚP TRONG CON NGƯỜI VỚI
KHOA TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU
Trong chương trước chúng
ta đã bàn về quan niệm tam tài và lưỡng nguyên về con người. Chúng
ta đã cho ta thấy một cách khái quát giá trị và ý nghĩa các đạo
giáo.
Tuy nhiên, những hiện tượng
đạo giáo đối với ta hãy còn hết sức phức tạp. Chúng ta phải tìm thêm ít
nhiều tiêu chuẩn nữa để mọi sự trở nên sáng tỏ hơn.
Chúng ta sẽ phân tách con
người thành nhiều bình diện hơn. Sự phân tách của chúng ta chỉ có mục
đích nghiên cứu, tháo gỡ và phân loại các hiện tượng đạo giáo.
Sự phân tách con người thành
ít hay nhiều bình diện cũng không thành vấn đề. Điều cần thiết là làm
sao chúng ta trông nhìn được tinh tế, thấu triệt.
Xưa thánh Augustin cũng đã phân tâm hồn
con người thành ra 7 tầng cấp. Hai tầng cấp đầu tiên giống như cây cỏ,
muông thú. Tầng cấp thứ ba là tầng cấp con người. Trước khi lên đến tầng
cấp thứ 7, là tầng cấp chiêm ngưỡng chân lý, hay là tầng cấp thánh
thiên, tâm hồn con người phải thực hiện cả một cuộc hành trình qua tạo
vật. Con người phải hoàn toàn trở thành con người bằng thần trí, rồi mới
mong được hưởng sự bình yên và lạc thú thiên quốc.
Như vậy, nếu nay chúng ta
chia con người thành nhiều tầng lớp, để lấy đó là tiêu chuẩn, làm cứ địa
mà khảo sát các đạo giáo, thì không có gì là trái lý cả.
Phân tách con người thành
nhiều tầng lớp với những loại hiện tượng đạo giáo khác nhau, với những
công dụng, những giá trị khác nhau, sẽ giúp ta mở rộng quan niệm chúng
ta về con người.
Thiết tưởng không thể quan
niệm một cách hẹp hòi rằng con người chỉ nguyên có hồn, có xác, mà phải
quan niệm con người có đủ trời đất, người trong thân. Phía trong thì
liên kết với Thượng đế, với thần linh, quốc gia, xã hội, hoàn cảnh,
không gian và thời gian. Mọi biến cố bên trong hay bên ngoài con người
đều có ảnh hưởng đến con người. Như vậy con người là tất cả.
Dựa vào Nho giáo, vào Dịch
kinh và các học thuyết đông tây, ta có thể vẽ lại con người với các tầng
lớp nó như sau:
NGƯỜI: |
.Tính (Logos)
.Khí (Esprit)
.Tâm (Psyché)
.Trí (Mental)
.Xác (Corps)
.Gia đình, xã
hội (Famille, société)
.Hoàn cảnh vật
chất, bách nghệ
(Milieu physique, métiers et arts) |
Phân tách con người thành
nhiều bình diện khác nhau, ta thấy ngay rằng đạo giáo cũng có nhiều bình
diện, nhiều loại hiện tượng tương ứng với những bình diện ấy.
Ta cũng nhận định được rằng
đạo giáo tuy là một nhưng vẫn có thể phân chia thành nhiều tầng cấp cao
thấp, tinh thô hết sức khác nhau.
Vả lại ta cũng nhận định
thêm được rằng đạo giáo không phải do một người sáng lập, mà do muôn
ngàn người đã đóng góp công phu, trong số đó có đủ mọi hạng người, từ vị
giáo chủ, cho tới các môn đệ, cho tới hàng giáo phẩm, cho tới các học
giả, các văn nhân, thi sĩ, nghệ sĩ, cuối cùng là quần chúng. Vì thế dĩ
nhiên là đạo có nhiều sắc thái, nhiều trình độ để có thể thích ứng với
mọi hạng người. Phàm phu, tục tử một sớm một chiều cũng có thể theo đạo,
hành đạo, mà thánh hiền để suốt đời tìm hiểu, vẫn thấy đạo là cao siêu,
khó biết, khó theo.
Sự phân tích trên còn cho ta
thấy đạo giáo nào cũng có những lễ nghi hình thức bên ngoài, cũng có một
số giáo lý, cũng có những giới răn, giới luật, cũng muốn đem lại cho con
người một đời sống thanh sảng, cũng muốn đưa con người đến chỗ rốt ráo,
tinh hoa, trở thành thánh thần. Thế là trong cái khác nhau về hiện
tượng, chúng ta đã tìm thấy cái giống nhau của khuôn khổ, của căn cơ.
Ít nhiều đồ bản sau đây giúp
ta hiểu rõ hơn những điều vừa mới trình bày ở trên.
|
1. Tính (Logos)
2. Khí (Esprit)
3. Tâm (Psyché)
4. Trí (Mental)
5. Xác (Corps)
6. Gia đình,
xã hội
(Famille et société)
7. Hoàn cảnh
vật chất
(milieu physique) |
1. Tính (Logos)
2. Khí (Esprit)
3. Tâm (Psyché)
4. Trí (Mental)
5. Xác (Corps)
6. Gia đình, xã hội
(Famille et société)
7. Hoàn cảnh vật chất
(milieu physique)
|
|
1. Huyền
đồng, phối Thiên (Mysticisme)
2. Đời
sống nghệ thuật (Esthétique et grâce)
3. Luân
lý và giới luật
(Moral et ascèse)
4. Giáo
lý (Dogme)
5. Lễ
nghi, hình thức
(Rites,
Cérémonies)
6. Đoàn
thể đạo giáo
7. Nghề
nghiệp có tính chất tôn giáo
(sách vở, ảnh tượng v.v.)
|
1 |
Tính |
Huyền đồng |
Thánh |
Phật |
2 |
Khí |
Sống nghệ thuật |
Hiền |
Bồ tát |
3 |
Tâm |
Luân lý, giới luật |
Quân tử |
La hán |
4 |
Trí |
Giáo lý |
Sĩ |
Duyên giác |
5 |
Xác |
Lễ nghi |
Phàm phu |
Thanh văn |
6 |
Gia đình xã hội |
Đoàn thể đạo giáo |
|
|
7 |
Hoàn cảnh
vật chất |
Nghề nghiệp có
tính chất đạo giáo |
|
|
|
Mỗi tầng lớp con người, mỗi
một loại hiện tượng đều có thể thu hút cả đời sống con người, và tùy
theo hoạt động ở bình diện nào, con người sẽ có một bộ mặt khác, một vai
trò khác, một lề lối sống khác, một tầm mắt khác.
Cho nên ta đừng tưởng con
người đều sống chung trong một thế giới, mà thực ra phải quan niệm họ
sống trong nhiều thế giới khác nhau, có những tâm tư khác nhau, những sở
thích khác nhau, những hoạt động khác nhau, tùy như họ đang sống trên
bình diện nào, đang trút hết cả tâm thần ý chí vào loại hiện tượng nào.
Cũng vì thế mà mỗi đạo giáo
đều có nhiều phương diện để thích ứng với mọi người.
Đối với phàm phu, tục tử,
thì bày ra lễ nghi, chuông trống, đàn sáo, hương hoa bên ngoài. Cho hạng
sĩ tử thì trưng ra một số lý thuyết, một số giáo lý, xếp đặt sao cho
thành một hệ thống mạch lạc. Cho hạng người muốn tu tâm, thì đưa ra một
nền luân lý hay những nếp sống khổ hạnh tu trì. Nhiệm vụ của các giáo
hội đến đây là chấm dứt…
Tiến sâu hơn nữa, tiến cao
hơn nữa là thuộc phạm vi mỗi cá nhân. Con người còn có thể biến đời sống
mình thành bài thơ, thành khúc nhạc, thành một nghệ phẩm (Esthétique,
grâce).
Nhưng con người còn có thể tiến hơn được
nữa, tiến tới tuyệt đỉnh, tuyệt đích, tiến tới hoàn thiện, tiến tới chỗ
kết hợp với Thượng đế,
tìm ra thanh bình trong hỗn loạn, tìm được vĩnh cửu giữa mọi biến thiên,
tìm được sự hiệp hòa trong chia rẽ. Người xưa gọi thế là các bậc chân
nhân, chí nhân vì đã đạt được mục đích của đời sống, đạt được lý tưởng
của con người.
Ta có thể mượn tạm lời Trang
Tử trong chương Ứng Đế Vương của Nam Hoa Kinh mà mô tả những bậc chân
nhân, chí nhân ấy như sau:
Chân nhân rũ bỏ phù hoa,
Vui trong Đạo cả cao xa tuyệt vời.
Sống trong Vị Thủy chơi vơi,
Cưỡi chim khinh khoát,
bay ngoài lục hư.
Làng Vô hà hữu ngao du,
Sống trong «Vô hữu» lặng tờ tịch liêu.
Vô vi như thể Trời
cao,
Vô vi trác tuyệt nói sao
cho cùng.
Bao trùm vô tận thinh
không,
Mịt mù tông tích ai lùng cho ra.
Tâm hồn gương sáng,
sáng lòa,
Chiếu soi muôn vật đâu là riêng tây.
Các ngài như Quảng Thành Tử
tuy còn ở trần gian mà vẫn sống trên thượng giới:
Kìa xem vạn vật vân
vi,
Rồi ra tro bụi trở về bụi
tro.
Thôi ở lại ta vô cùng
cực,
Cửa vô cùng ta sắp vô
chơi.
Cánh đồng vô tận chơi
vơi,
Ta cùng nhật nguyệt sáng
ngời hào quang.
Cùng trời đất miên
man sống mãi,
Mặc cho đời phải trái
cạnh tranh.
Mặc người tử tử, sinh
sinh,
Ta nay muôn kiếp siêu linh, trường tồn.
Nhưng những hạng người trên đây, thường bị
xã hội đương thời phản đối hay hãm hại,
một là vì tư tưởng các ngài quá cao siêu phóng khoáng, thoát ra mọi
khuôn khổ chật hẹp thường dùng để giam giữ phàm nhân, hai là vì các ngài
dùng những từ ngữ siêu phàm, xưng mình là Thiên tử, Thiên sứ, ba là vì
các ngài đưa ra đường lối ngược với thế nhân, dạy người tìm nước Trời
trong thâm tâm, như vậy là mặc nhiên phủ nhận giá trị của những tổ chức
đạo giáo hiện hữu bên ngoài, bốn là vì các ngài chủ trương con người có
thể phối hợp hòa đồng với Thượng đế, đó là một điều mà chúng nhân cho là
ngạo mạn, phạm thượng… hay ít ra cũng là điên cuồng vu khoát…
Nhưng thực ra các ngài không
phủ nhận giá trị các tổ chức hiện hữu, mà chỉ muốn đem hoàn thiện tới
cho nhân loại. Các ngài xây dựng cho thêm hoàn toàn chứ không phá bỏ.
Mục đích các Ngài là mở
đường, dẫn lối cho hiền nhân quân tử muôn thế hệ biết rõ các nấc thang
giá trị, biết rõ đầu đuôi gốc ngọn của cuộc đời, để đỡ lần mò vất vả.
Nói cách khác, các vị sáng
lập đạo, đều đã sống trong sự hòa đồng cùng Thượng đế, cố chỉ vẽ cho
nhân loại diễm phúc tuyệt đối ấy, nhưng vì điều đó huyền vi ẩn áo, nên
ít người thấu hiểu được. Vì thế ta thấy liên tiếp nhau trong thời gian
những nếp sống đạo giáo mới xuất hiện.
Hoặc là nghệ thuật
(Esthétique, grâce).
Hoặc là tu trì nhặt nhiệm,
luân lý, kỷ luật (Ascèse, morale et règles)
Hoặc là tôn sùng lý thuyết,
giáo lý (dogmatisme)
Hoặc là tôn sùng hình thức
lễ nghi bên ngoài (formalisme).
Đi từ Huyền đồng dần xuống
lễ nghi hình thức là càng ngày càng tiến ra bên ngoài, càng ngày càng
xuống thấp, mà càng xuống thấp thì càng dễ phổ cập vào đại chúng. Nhưng
khi đã phổ cập được tới đại chúng, thì tinh hoa đạo lý đã mất, mà chỉ
còn phảng phất lại chút dư hương, chỉ còn le lói một chút sáng thừa của
vừng dương đã bị mây mù che lấp hết. Càng lạc lỏng vào hiện tượng, càng
lạc mất bản thể, mà khi con người đã bị hoàn cảnh, thôi miên, đã bị trào
lưu lối cuốn thì sao còn sáng suốt mà nhận định, sao còn tự chủ mà tìm
được đúng hướng đi?
Lão Tử viết:
Hễ Đạo
mất, nặng tình với Đức,
Đức không còn, lục tục theo Nhân.
Hết Nhân, có Nghĩa theo chân,
Nghĩa không còn nữa, thất thuần Lễ
Nghi.
Nên Nghi Lễ là chi khinh
bạc,
Cũng là mầm loạn lạc chia
ly,
Bề ngoài rực rỡ uy nghi,
Bề trong tăm tối, ngu si,
ngỡ ngàng.
Nên quân tử chỉ ham đầy
đặn,
Chứ không ưa hào nháng,
phong phanh
Chỉ cần thực chất cho
tinh,
Chẳng còn bóng bảy, lung
linh bên ngoài.
Bắc cần khinh trọng cho
tài,
Biết đường ôm ấp, biết bài dễ đuôi.
Đứng trên bình diện hiện tượng và bình tâm
mà xét, thì đạo giáo nào cũng có bấy nhiêu tầng cấp, bấy nhiêu phương
diện, bấy nhiêu giai đoạn lịch sử. Từ hình thức lễ nghi, giáo lý
mà xét, thì đạo nào cũng Hán Sở chia phôi, Đông Tây cách trở; từ tinh
hoa thuần túy mà trông, thì thấy bốn bề đều vang lên một Nhã ca đồng
nhất.
Cho nên cái hay của con người không phải
là ở chỗ theo đạo này hay theo đạo kia,
mà chính là ở chỗ biết phân biệt cái chính cái tùy của mỗi đạo, cái tinh
cái thô của mỗi đạo, các lớp lang, tầng cấp của mỗi đạo, để biết đường
tiến lên, tiến mãi tới Thượng đế, cố gắng cho tâm thần mình ngày thêm
rực rỡ đượm muôn ánh hào quang, sống phiêu diêu, khinh khoát, giữa trần
cấu cuộc đời, mở rộng tâm hồn để chứa đựng muôn phương, thâu tóm hết
tinh hoa trời đất, không gian, và thời gian vào tấc dạ.
CHÚ THÍCH
Pour l’évêque
d’Hippone, l’âme comprend sept degrés. Les deux premières sont communs
aux végétaux at aux êtres animés; le troisième degré au contraire est
propre à l’homme: il lui permet de jouir de la culture humaine. Avant de
parvenir au septième degré qui est celui de la contemplation de la
vérité et donc de la sainteté, l’âme doit avoir accompli tout un voyage
à travers la création. Il faut être devenu entièrement homme par esprit
avant d’espérer connaître la paix et la joie céleste (Critique, Octobre
1961, No 173, Mystique byzantine, p. 210).
[2]
Qui autem adhoeret Domino, unus spiritus est (Celui qui s’unit au
Seigneur n’est avec lui qu’un seul esprit, I Cor., VI, 17 Bible de
Jérusalem.
Celui qui s’approche de Dieu
et s’attache à lui devient un même esprit avec Lui. (Sainte Thérèse,
Le Château de l’âme, Edition du Seuil).
[3]
Điêu trác phục phác. 雕 琢 復 朴.
[4]
Thể tận vô cùng, nhi du vô trẫm. 體 盡 無 窮 而 遊 無 朕.
[5]
Tự dĩ vi vị thủy học nhi qui. 自 以 為 未 始 學 而 歸.
[6]
Thừa phù mãng diêu chi điểu, dĩ xuất lục cực chi ngoại, nhi du vô hà hữu
chi hương. 乘 夫 莽 眇 之 鳥, 以 出 六 極 之 外, 而 遊 無 何 有 之 鄉.
[7]
Lập hồ bất trắc nhi du ư vô hữu giả dã. 立 乎 不 測 而 遊 於 無 有 者 也.
[8]
Vô vi danh thi, vô vi mưu phủ, vô vi sự nhiệm, vô vi tri chủ, thể tận vô
cùng nhi du vô trẫm. 無 為 名 尸. 無 為 謀 府. 無 為 事 任. 無 為 知 主. 體 盡 無 窮 而 遊 無
朕.
[9]
Chí nhân chi dụng tâm nhược kính, bất tương, bất nghịch, ứng nhi bất
tàng. 至 人 之 用 心 若 鏡, 不 將, 不 逆. 應 而 不 藏.
[10]
cf. Nam Hoa Kinh, chương Tại Hựu, đoạn C: Kim phù
bách xương, giai sinh ư thổ nhi phạn ư thổ; cố dư tương khứ nhữ, nhập vô
cùng chi môn, dĩ du vô cực chi dã. Ngô dữ nhật nguyệt tham quang. Ngô dữ
thiên địa vi thường. Đương ngã hân hồ, viễn ngã hôn hồ. Nhân kỳ tận tử
nhi ngã độc tồn hồ. 今 夫 百 昌, 皆 生 於 土 而 反 於 土. 故 余 將 去 女, 入 無 窮 之 門, 以 遊
無 極 之 野 吾 與 日 月 參 光 吾 與 天 地 為 常 當 我 緡 乎, 遠 我 昏 乎 人 其 盡 死 而 我 獨 存 乎 .
[11]
Điển hình nhất là vụ án Chúa Jésus Christ, và vụ án Al Hallâj bên phía
Hồi giáo. Ông bị cầm tù từ năm 915 đến ngày 23-3-922 thì bị chặt chân
tay, đóng đInh trên thập giá, sau cùng bị chặt đầu vì tội dám phối hợp
lẫn lộn Trời người (confondre le divin et l’humain) gây hoang mang cho
mọi người. (Cf. Henri Corbin, Histoire de la
philosophie islamique, p. 277)
[12]
Mysticisme.
[13]
Esthétique, Grâce.
[14]
Morale.
[15]
Dogmatisme.
[16]
Formalisme.
[17]
Cố thất Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu Nhân, thất Nhân nhi hậu Nghĩa,
thất Nghĩa nhi hậu Lễ, Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ.
Tiền thức giả, Đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy. Thị dĩ đại trượng phu xử
kỳ hậu, bất cư kỳ bạc; xử kỳ thực, bất cư kỳ hoa. Cố khứ bỉ, thủ thử. 故
失 道 而 後 德, 失 德 而 後 仁, 失 仁 而 後 義, 失 義 而 後 禮, 夫 禮 者 忠 信 之 薄, 而 亂 之 首. 前 識
者, 道 之 華, 而 愚 之 始. 是 以 大 丈 夫 處 其 厚, 不 居 其 薄; 處 其 實, 不 居 其 華. 故 去 彼 取 此.
Đạo Đức Kinh, ch.38.
[18]
Un dogme, c’est une cristillisation d’une pensée… Le dogme est une
matérialisation et la matérialisation est un emprisonnement. Ce qu’il
faut chercher, c’est l’essence, car seule l’essence est esprit. Cf.
IIlan de Casa Fuerte, La Religion essentielle, p.
17.
[19]
Cf. Camille Debret, La vie de Gandhi, p.
100.
… «Après une longue étude et
une longue expérience, je suis venu à cette conclusion: toutes les
religions sont vraies, toutes ont en elles quelque erreur. Toutes me
sont aussi chères que mon propre Hindouisme. Ma vénération pour autres
fois est la même que pour ma propre foi. Comment peut-on avoir une vraie
fraternité, si on croit détenir une vérité supérieur?
Il ne faut pas dans ses
prières dire à Dieu:
«Donne-lui la lumière que tu
m’a donnée», mais donne lui toute la lumière et toute la vérité dont il
a besoin pour son plus haut développement … .
(Bị chú: Chương này hầu hết
đã được rút từ bộ Trung Dung Tân Khảo của
tác giả, nơi chương Bản thể và Hiện
tượng luận).
»
mục lục
| tựa |
chương 1
2
3
4 5
6
7 8
9
10 |
sách tham khảo
|