HƯỚNG TINH THẦN
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
»
mục lục
| tựa |
chương 1
2
3
4 5
6
7 8
9
10 |
sách tham khảo
chương
2
ÍT NHIỀU NHẬN ĐỊNH KHÁI QUÁT
VỀ TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU
I. CÓ NHIỀU ĐẠO GIÁO LÀ
CHUYỆN DĨ NHIÊN
Nói về khoa tôn giáo đối
chiếu thiệt là khó.
Cái khó ở đây không phải là
sự khan hiếm tài liệu. Không, tài liệu không khan hiếm, vì ngày nay sách
vở viết về tôn giáo đối chiếu không thiếu gì.
Cái khó ở đây cũng không
phải là do đề tài khó. Đề tài tuy khó, nhưng nếu ta chịu suy tư, chịu
khảo sát, thì cái khó cũng trở nên dễ.
Cái khó ở đây chính thực là
làm sao tránh được sự va chạm, tránh được sự hiểu lầm, mà đồng thời vẫn
phục vụ được chân lý, vẫn giữ nguyên được sự thành khẩn, sự bất khuất
của người thức giả, thực tình muốn phục vụ lý tưởng và chân lý.
Cho nên trước khi vào đề tài
tôi xin có đôi lời thanh minh cùng quí vị.
Trước tiên xin quí vị đừng
coi tôi như một nhà truyền giáo của một tôn giáo nào. Nhận nói về vấn đề
này, tôi đã nguyện với lòng để cho tâm tư rộng mở, rũ bỏ mọi chấp trước,
thiên kiến, để cho sự nhận xét của tôi được trung thực.
Xin quí vị cũng đừng nghĩ
rằng tôi có ác ý muốn đả kích một tôn giáo nào. Không! Trong khi khảo
cứu về các đạo giáo, tôi đã cố giữ một lòng cung kính của một tín đồ, và
tôi đinh ninh rằng các vị giáo chủ xưa nay đều là những bậc vĩ nhân,
siêu phàm, nhập thánh, có thể dạy mình nhiều điều hữu ích. Vả nếu các
ngài không là những bậc vĩ nhân, siêu quần bạt tụy, thì làm sao mà được
hàng muôn triệu con người kính thờ?
Khảo về các tôn giáo, tôi
chỉ muốn tìm hiểu cho sâu rộng về các vấn đề quan thiết đến bản tính và
định mệnh con người, ý nghĩa và cứu cánh của đời người cũng như của toàn
thể vũ trụ.
Tôi cố gắng đi tìm cho ra
chân lý vĩnh cửu, phổ quát, ẩn áo sau các bức màn tôn giáo biến thiên,
đượm màu sắc dân tộc, địa dư và lịch sử.
Nếu Thượng đế là Chân lý, thì đi tìm Chân
lý, tức là đi tìm Thượng đế.
Sự khác biệt giữa các đạo
giáo cũng không làm cho tôi nản chí. Trái lại nó làm cho tôi vui thích.
Học về các đạo giáo, tôi có
cảm tưởng như mình đi chu du sơn thủy, xem được các danh lam, thắng cảnh
của đất trời, lúc thì thấy biển muôn trùng ào ạt sóng cồn; lúc thì thấy
núi cao giăng mắc ven trời tung mình vút lên trên các chòm mây bạc; lúc
thì thấy sa mạc bao la với những sóng cát vàng, đua đuổi nhau cho tới
chân trời thẳm; lúc thì thấy những khu rừng rậm rạp bao la; lúc thì thấy
những cánh đồng phì nhiêu bát ngát.
Và, nếu bao giờ mà phương
tiện lý tài cho phép, tôi sẽ đi khắp hoàn cầu để khảo sát các di tích
đạo giáo ở khắp nơi.
Tôi sẽ đi thăm các hang động
ở Âu Châu như Altamira (Tây Ban Nha), Pont de Gaume hay Lascaux (Pháp),
để xem những bức bích họa thần kỳ, bao trùm một bầu không khí đạo giáo
thần kỳ của những người tiền sử.
Tôi sẽ đi Trung và Nam Mỹ để
xem các di tích đạo giáo của những dân Astéques và Incas.
Tôi sẽ sang Phi Châu để xem
xét về các đạo cổ sơ của những dân tộc bản xứ. Tôi ao ước được bước chân
lên những bậc đá các kim tự tháp Chéops, Chéphren và Mykérinos, muốn
được chính mắt trông thấy con quái thú khổng lồ nằm trầm tư dưới chân
kim tự tháp ở Gizeh, nhìn vào đôi mắt đá của nó, xem nó đã dấu ẩn những
gì của những kỳ bí xa xưa.
Tôi cũng muốn được tới Thánh
địa Palestine, viếng Jérusalem, Bethléem, Nazareth, biển hồ Tibériade,
vườn Gietsemani, núi Golgotha để nhớ lại cuộc đời cao siêu của Chúa Cơ
đốc và cảm thông nỗi đau thương của ngài trong những ngày thọ nạn cuối
đời.
Tôi ước ao sang Rome để ngắm nhìn bảy ngọn
đồi lịch sử của thành phố,
chiêm ngưỡng vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh đường Sixtine,
vào thăm thư viện Vatican, v.v.
Tôi cũng muốn tới thánh địa
Hồi giáo La Mecque, hay viếng thăm các đền thờ Hồi giáo nổi tiếng ở
Médine, ở Damas hay ở Isphahan.
Tôi ao ước được sang Ấn Độ
để thực mắt nhìn thấy sông Hằng danh tiếng; đến Bénarès để xem ngày nay
còn dấu vết nào của đức Thích Ca phảng phất nơi đây, hay tuế nguyệt đã
xô lùi hình ảnh vị đại giáo chủ vào sâu trong lòng huyền thoại.
Tôi cũng muốn viếng thăm các
đền thờ Ấn giáo, chiêm ngưỡng những tượng thần Brahma, Shiva, Vishnu,
hoặc những nơi tu trì hay yên nghỉ của Ramakrishna, Vivekananda, Tagore,
v.v.
Một ngày nào đó, tôi sẽ tới
Athènes, trèo lên Acropole hay sẽ tới Olympe để cố mường tượng cho thấy
các vị thần Jupiter, Apollon, Hermès đang cưỡi mây du ngoạn trên vòm
trời trong sáng của miền Địa Trung Hải.
Tôi cũng ao ước được sang
Trung Hoa trèo lên đền thờ Trời cổ kính nhất thế giới, nếu những biến cố
lịch sử dồn dập gần đây chưa nỡ lòng tàn phá.
Và nếu có dịp tôi sẽ sang xứ
Anh Đào để khảo sát về Thần đạo ngắm nhìn những ngôi chùa duyên dáng xây
cất giữa một vùng non nước hữu tình, với núi Phú Sĩ làm bối cảnh lẩn sau
những làn mây trắng nhạt, ở tận phía xa xôi.
Tôi cũng sẽ không quên tìm
đến xứ Ba Tư huyền bí với những dòng sông kỳ dị bỗng dưng biến mất trong
sa mạc, xứ Ba Tư với những nét vàng son của đạo Bái Hỏa xa xưa.
Trong khi chưa có phương
tiện đi du lịch khắp nơi và khảo sát, tôi sẽ để cho tâm thần phiếm du
trong các thánh thư các đạo giáo, như thánh kinh Công giáo; Coran Hồi
giáo, Upanishads, Bhagavad Gita Ấn Độ giáo; Kim Cương, Lăng Nghiêm, Pháp
Hoa của Phật giáo; Tứ Thư, Ngũ Kinh Khổng giáo; Đạo Đức kinh, Nam Hoa
kinh, Xung Hư Chân kinh, Thanh Tĩnh kinh, Âm Phù kinh và các bộ đơn kinh
của Lão giáo.
Tôi cũng đã tham khảo các
đạo giáo cận kim như Mormos, Bahai, Cao Đài, Thông Thiên Học, Subút; các
môn phái huyền học như Rose-Croix, Kaballe, v.v.
Càng đọc tôi lại càng thấy thích thú, và
liên tưởng đến một câu của Hoelderlin: «Những sự mâu thuẫn, dị biệt;
những tiếng đàn ngang cung, lạc phách trong hoàn võ này cũng giống như
cuộc cãi vã của những cặp nhân tình. Cãi nhau đấy, rồi lại làm lành cùng
nhau đấy; chia rẽ đấy, rồi lại đoàn tụ đấy. Các mạch máu phân tán đi,
rồi lại trở về tim. Tất cả đều là một sự sống động duy nhất,
vĩnh cửu và huy hoàng, rực rỡ.»
II.
PHONG TRÀO KHẢO SÁT TÔN GIÁO TỪ XƯA ĐẾN NAY
Phong trào khảo sát tìm hiểu
các tôn giáo không phải gần đây mới có.
Ở Á Đông từ đời nhà Hán đến đầu đời nhà
Tống, các Nho gia, đạo sĩ, tăng già đều có cái ý niệm «tam giáo thống
nhất» và những thuyết sau đây đã được nêu lên: «Nho Phật nhất
trí», «Lão Phật đồng thể dị dụng», «Tam giáo nhất trí», v.v. Trương
Dung đời Nam Tề, lúc lâm chung, tay trái cầm Hiếu Kinh, và Lão Tử Đạo
Đức Kinh, tay phải cầm Pháp Hoa Kinh, ấy là biểu tượng thuyết «Tam
giáo nhất trí» vậy.
Ở Âu Châu, sự khảo sát về các tôn giáo
cũng đã có từ xa xưa. Cicéron (106–43), Plutarque (45–125), Salluste
(86– 35) đã viết nhiều về bản chất và tương quan giữa các thần minh La
Hi.
Thời Trung Cổ, Hồng Y Nicolas de Cusa đã
có ý nghĩ thành lập một liên minh tôn giáo.
Bẵng đi một thời gian, phong trào này lại
được chính thức phục hưng ở Anh quốc, dưới triều đại nữ hoàng Elizabeth
(1533–1603), vào khoảng đầu thế kỷ XVII, và người khởi xướng là ông
Herbert de Cherbury (1581–1648).
Gần đây, các đạo giáo cũng
như muốn xích lại gần nhau để tìm hiểu nhau, bắt tay thân thiện cùng
nhau nếu chưa đi được đến chỗ hợp nhất.
Phong trào hòa đồng Thiên
Chúa giáo nhóm họp lần đầu tiên ở Edimburg năm 1910 và ở Stockholm năm
1925.
Năm 1948, Hiệp Hội giáo hội hoàn cầu đã
được thành lập.
Từ cuối thế kỷ XIX người ta
cũng tổ chức nhiều hội nghị liên tôn, trong đó các đại diện các tôn giáo
được tự do thuyết trình về đạo giáo mình, ví dụ: đại hội tôn giáo ở
Chicago khai mạc ngày 11/9/1893, hoặc đại hội các tôn giáo ở Lahore
(Pakistan) họp vào tháng 12, năm 1896, v.v.
Từ sau công đồng Vatican II
(1962–1964), giáo hội Công giáo cũng đã chính thức khởi xướng phong trào
hòa đồng tôn giáo.
Khảo lại lịch sử, ta thấy
xưa nay nhân loại đã nhiều lần muốn tìm cho ra một thứ tôn giáo phổ
quát, hòa đồng.
Ta đã từng thấy có:
1. Đạo Mani, do Mani sáng
lập từ đầu thế kỷ III và đã được lưu truyền ở nhiều địa điểm từ đông
sang tây trong vòng 1000 năm. Thánh Angustin cũng đã theo đạo này một
thời gian.
2. Đạo Sikhs, do Nanak sáng
lập ở miền Punjab, bắc Ấn Độ, khoảng đầu thế kỷ XVI và đến nay vẫn còn
tồn tại. Đạo Sikhs phối hợp hai tôn giáo: Hồi và Ấn.
3. Vua Akbar (1546–1605)
khoảng cuối thế kỷ 16 cũng đã có ý muốn thành lập một tôn giáo đại đồng
qui tụ tinh hoa của mọi đạo giáo, tuy vua là tín đồ Hồi giáo.
4. Ở Calcutta thời có Thượng đế hội
(Brahmasamaj) do Râm Mohin Roy sáng lập năm 1828.
Ở Việt Nam ta thấy có đạo
Cao Đài và Tam Tông Miếu hay đạo Minh Lý.
Các đạo giáo hoặc các phong
trào nói trên đều muốn thâu lượm lấy tinh hoa của các đạo giáo Á Âu,
hoặc của tam giáo Nho Thích Lão.
Từ năm 1939 cho tới nay,
nhiều đại học Âu Mỹ đã chính thức giảng dạy về khoa tôn giáo đối chiếu.
Như vậy, ngày nay, cho dù
chúng ta làm gì hay nói gì về vấn đề này cũng đã lạc hậu lắm.
Phong trào khảo sát đối
chiếu các tôn giáo, phong trào hòa đồng tôn giáo ngày nay đang được xúc
tiến mạnh trên thế giới. nó được thúc đẩy có lẽ một phần cũng vì các đạo
giáo đã nhận thức được những nhược điểm mình trước sự tấn công dồn dập
của khoa học, cũng như trước hiểm họa vô thần và cộng sản.
Trước làn sóng đỏ đang ào ạt
dâng lên và lan tràn khắp chốn nơi, mọi tôn giáo cảm thấy như cùng ngồi
trên một con thuyền, nếu không bắt tay nhau để “đồng chu cộng tế”, thì e
có ngày chìm đắm.
Ngoài ra còn có nhiều lý do
khác khiến nhân loại phải khảo sát lại các hệ thống tư tưởng đạo giáo
của tiền nhân.
Xin đan cử ít nhiều lý do
chính yếu:
1. Người xưa tưởng mình đã
đạt được chân lý rốt ráo về vũ trụ cũng như về con người. Nhưng lịch sử
đã chứng minh rằng cho đến ngày nay kiến thức con người vẫn còn chưa
tiến được bao lăm, và trong tương lai còn phải cố gắng tiến bộ hơn nữa.
2. Lịch sử cũng đã chứng
minh rằng trong dĩ vãng con người đã có rất nhiều quan niệm sai lạc về
vũ trụ cũng như về con người.
Ví dụ:
– Quan niệm xưa về không
gian thời gian hết sức là thiển cận, tưởng trái đất như một mặt phẳng im
lìm ở trung tâm vũ trụ; tưởng vạn vật mới được tạo dựng nên cách đây
khoảng chừng 6 hay 7 nghìn năm, và đang sắp sửa bị tiêu diệt vì tận thế.
– Quan niệm xưa về thế giới
cũng rất hẹp hòi. Âu châu tưởng thiên hạ chỉ nguyên có khu vực Địa Trung
Hải. Trung Hoa gọi thiên hạ là Trung quốc và ít nhiều nước phụ cận.
– Quan niệm xưa kia về con
người cũng rất thiếu sót. Người xưa đâu có biết ngoài ý thức, con người
còn có tiềm thức, đâu có biết con người hàm tàng những khả năng vô biên,
và có thể tiến hóa mãi mãi.
– Người xưa thường tự túc,
tự mãn coi thiên hạ bằng nửa con mắt và cho rằng chỉ có nước mình, dân
mình, phương mình mới là có chân lý, ngoài ra nhân loại là man rợ, u mê,
lầm lạc hết.
– Vì có nhiều vấn đề không
thể, hay chưa thể kiểm chứng được, nên người xưa nhiều khi đã lấy uy
quyền mà bắt buộc dân con phải nhận thế này là đúng, thế nọ là sai, dùng
ngụy biện, ngụy chứng để lộng giả thành chân.
– Xưa nay, tuy đã có nhiều
vị giáo chủ siêu việt giáng trần, nhưng vì tư tưởng các ngài quá cao
siêu, nên những môn đệ, những tín đồ sau này thường lại không thấu triệt
được những tư tưởng cao siêu của các ngài, nên đã bỏ mất tinh hoa, mà
chỉ giữ được sáo ngữ và hình thức.
– Nhiều điều người xưa cho
là chân lý vĩnh cửu phổ quát, nhưng theo đà văn minh tiến bộ, con người
ngày nay nhận ra rằng thực ra đó chỉ là những qui ước, những sự tin
tưởng, chấp nhận đã ăn sâu vào tâm tư quần chúng. Những qui ước ấy thực
ra chỉ là những chân lý giả tạo có giá trị trong một khoảng thời gian
nào, có năng lực đoàn kết nhân tâm trong khoảng một giai đoạn lịch sử
nào, nhưng dần dà không chóng thì chày sẽ có người chứng minh được rằng
đó không phải là thứ chân lý phổ quát, và vĩnh cửu, và như vậy chẳng
chóng thì chày chúng sẽ bị đào thải và thay thế.
– Ngày nay nhiều người, nhất
là những người có đầu óc, chịu suy tư, tìm hiểu không còn có cái tin
tưởng dễ dãi, nhất là đối với những vấn đề trọng đại như tôn giáo. Ngược
lại, họ luôn luôn soát xét và kiểm điểm. Tóm lại ngày nay nhiều người đã
không còn có thái độ nô bộc, ù lì, bảo sao nghe vậy, mà họ đòi quyền
được tìm, được kiếm, được xét, được suy, được kiểm chứng, được so sánh,
cân nhắc ngay cả trong các vấn đề đạo giáo.
Có người hỏi Vivekananda xem
có nên áp dụng phương pháp khảo sát, dùng trong khoa học, để khảo cứu
đạo giáo không.
Vivekananda đáp: «Nên, và ông thêm: càng
sớm càng tốt. Nếu một tôn giáo mà bị phá hủy bằng sự khảo sát, thì nó
chỉ là một sự mê tín vô ích và bất xứng. Nó càng tiêu ma sớm, càng hay…
Cái gì là cặn bã sẽ bị vứt bỏ; cái gì thiết yếu sẽ tồn tại và sẽ toàn
thắng.»
Keshab Chunder Sen cũng
viết: «Đừng có bắt chước những kẻ mê tín, chấp nhận cái gì, vì tin
suông. Khoa học phải là đạo các bạn, Chúa đã phán thế…
«Đừng có lừa bịp mình bằng những huyền
nhiệm, thần bí! Đừng mơ mộng viễn vông! Hãy nhìn cho rõ, xét suy cho
đúng. Phải giảo nghiệm mọi sự, và cái gì đúng mới chịu theo. Trong mọi
niềm tin tưởng, trong mọi câu kinh nguyện của bạn, bạn hãy để cho đức
tin và lý trí hòa hợp cho thành một khoa học chân thực.»
Người Á Đông chúng ta sau
hằng trăm năm nô lệ của người Âu châu lại càng phải có óc quật khởi hơn
bao giờ hết.
Thánh Gandhi đã phải thốt ra
những lời lẽ ai oán như sau: «Tây phương đã đánh quị ta trong chiến
tranh, lại làm hư ta trong thời bình. Kẻ chống lại họ, thì đã bị giết
chết. Kẻ đã đầu hàng họ như ta, thì phải chịu một kiếp nhục nhã hơn, ấy
là phải mất linh hồn.
«Họ không những đã bóc lột của cải vật
chất, mà còn làm cho ta mất đức tin, để rồi đem tư tưởng của họ nhét
vào. Rốt cuộc, họ đã làm cho chúng ta lầm tưởng rằng hay hơn hết là
chúng ta nên đồng hóa với họ. Và thế là chúng ta đã chết cho chúng ta.»
III. TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU VÀ
TRIẾT LÝ VỀ TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi
này, tôi không thể trình bày dài dòng về khoa tôn giáo đối chiếu được.
Tôi chỉ có thể đưa ra ít
nhiều phương pháp tổng quát để khảo về các đạo giáo, ít nhiều nhận định
khái quát về giá trị của các đạo giáo.
Nếu muốn đi sâu vào vấn đề,
chúng ta cần phải để ra nhiều tháng, nhiều năm khảo cứu, suy tư.
Nguyên về phần kinh điển
chẳng hạn, ta đã thấy không biết cơ man nào mà xuể! Có học giả đã tính
số chữ của các kinh điển, thì thấy:
Thánh kinh Công giáo có
3.000.000 chữ.
Bộ Tam tạng của Phật giáo
Tiểu thừa có 27 triệu chữ.
Bộ Đại thừa trong ấn bản tại
Nhật năm 1927 có 40 triệu chữ in thành 55 quyển lớn.
Bộ Mật tông (Tantras) của Tây tạng, theo
giáo sư Glasenapp gồm 50 ngàn quyển, thật là mênh mông như biển cả.
Ấy là chưa kể đến các bộ
thánh thư vĩ đại của Ấn giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Bái hỏa giáo, Hồi
giáo v.v…
Các đạo giáo lớn nhỏ cùng
với các tông chi môn phái đạo giáo trên thế giới hiện nay có tới cả
ngàn. Đạo nào, môn phái nào cũng cho rằng mình mới độc chiếm chân lý,
đạo nào cũng cho mình là vầng dương chân thực tỏa quang huy làm át hết
mọi ánh sao tà thuyết, tà giáo. Không nói đâu xa, ngay trong thành phố
Sài Gòn này, đạo giáo thường thay đổi hình thái tùy theo mỗi một phố
phường. Chúng ta gặp gỡ nhau thường ngày, có thể rất gần gũi nhau vì xã
giao, vì nghề nghiệp nhưng thực ra rất xa cách nhau về tâm tư và tín
ngưỡng, thế là cùng chen chúc nhau dưới một mái nhà, cùng đi lại như
nhau trên một đường phố, một vỉa hè mà chúng ta thực sự sống trong những
thế giới khác nhau, thế là gần trong gang tấc mà cách ngoài quan san,
quan san đây không phải là núi non thành lũy hữu hình bên ngoài, mà
chính là những núi non thành lũy tâm tư, đạo giáo vô hình ở phía bên
trong.
Tuy nhiên, đứng trước thiên
hình vạn trạng tôn giáo ấy, chúng ta vẫn tìm ra được những cách thức
những lề lối để khảo sát, để so sánh không mấy khó khăn.
Các nhà khảo cứu về tôn giáo
đối chiếu thường theo ba đường lối sau đây:
1. Mô tả các đạo giáo
(Histoire des Religions)
2. Tìm cho ra những định
luật chi phối các hiện tượng đạo giáo (Science des Religions)
3. Tìm cho ra ý nghĩa và giá
trị các đạo giáo (Philosophie des Religions).
1. Mô tả các đạo giáo hay
lịch sử các đạo giáo (Histoire des Religions)
Mô tả các đạo giáo thực ra
không mấy khó khăn.
Chúng ta chỉ cần đặt mỗi đạo
giáo vào bối cảnh lịch sử, địa dư của nó, khảo sát đời sống các vị giáo
chủ, toát lược các thánh kinh, và nói sơ lược về sự biến thiên của mỗi
đạo giáo qua các thời đại, cũng như những công trình kiến trúc, văn
chương, nghệ thuật đặc biệt mà mỗi đạo giáo đã thực hiện được.
2. Tìm cho ra những định
luật chi phối các hiện tượng đạo giáo hay khoa học đạo giáo (Science des Religions)
Thứ đến là đi tìm cho ra
những định luật chi phối sinh hoạt đạo giáo, những duyên do thành bại
của mỗi đạo giáo, những cung cách giảng giáo, những phương pháp dùng để
lôi cuốn quần chúng, những nghệ thuật nắm giữ quần chúng của mỗi đạo
giáo.
Sự khảo sát này đưa tới
những nhận định hoặc những định luật sau đây:
– Đạo giáo được bành trướng
nhờ sức hấp dẫn và thu hút quần chúng của các vị giáo chủ.
– Xây dựng nên những thần
tượng là điều cần thiết để quảng bá đạo giáo, vì thế nên ta thấy các vị
giáo chủ thường được thần thánh hóa tới mức tối đa.
– Một đạo giáo càng giản dị,
càng bình dân bao nhiêu lại càng lôi cuốn được nhiều người bấy nhiêu.
– Một đạo giáo càng có nhiều
giáo sĩ trung kiên, có nhiều giáo hữu chân thực bao nhiêu, càng có triển
vọng bành trướng thêm bấy nhiêu.
– Càng biết cách giảng giáo,
càng biết cách lôi cuốn quần chúng bằng những phương pháp tuyên truyền,
cổ động, như kịch nhạc, đình đám, hội hè, rước sách, giảng giáo, càng dễ
thu hút quần chúng.
– Càng có tôn ti trật tự bao
nhiêu, càng nắm vững được quần chúng bấy nhiêu.
– Càng nhắc đi nhắc lại một
điều gì thường xuyên bao nhiêu, càng ghi tạc vào lòng người bấy nhiêu,
và cuối cùng những điều giảng giáo sẽ trở nên chân lý thực đối với người
thụ huấn.
– Càng nhỏ tuổi càng dễ ấn
tượng, càng dốt nát càng nghèo khổ càng dễ tin theo, cho nên trẻ con và
lê thứ, bần dân là những lớp người dễ giảng giáo, dễ uốn nắn nhất.
Các phương thế mà ngày nay
các đảng phái dùng để phổ biến chủ nghĩa; đả kích, hạ bệ đối phương; thu
hút quần chúng hoặc bằng lý, hoặc bằng tình, hoặc bằng bạo lực; các
phương thế để bành trướng thế lực, kiểm soát tâm tư, lồng quần chúng vào
trong một khuôn khổ chung, giúp chúng ta hiểu rất nhiều về các nỗ lực
tương tự của các đạo giáo trong công cuộc thu hút và nắm giữ quần chúng.
Thứ đến là khảo sát về những
nguyên nhân xa gần đã ảnh hưởng đến sự phát sinh, sự bành trướng, sự tồn
tại, và sự suy vi, mai một của các đạo giáo. Ví dụ ta khảo về:
– Ảnh hưởng của thời gian,
của lịch sử đối với đạo giáo.
– Ảnh hưởng của địa dư đối
với đạo giáo.
– Ảnh hưởng của chủng tộc
đối với đạo giáo.
– Ảnh hưởng của các đạo giáo
bạn hoặc trước, hoặc đương thời đối với đạo giáo.
– Ảnh hưởng của chính trị,
của kinh tế đối với đạo giáo.
– Ảnh hưởng của các học
thuyết triết học, của các phát minh khoa học đối với đạo giáo, v.v.
3. Tìm cho ra ý nghĩa và
giá trị các đạo giáo hay triết lý đạo giáo
(Philosophie des Religion)
Chúng ta có thể đi tìm những
giả thuyết, những lý thuyết giúp ta phối kết được các đạo giáo, sắp xếp,
phân loại được các đạo giáo, tìm ra được ý nghĩa và giá trị các đạo
giáo, cũng như tìm cho ra được đâu là chân đạo, là đại đạo.
Các lý thuyết về đạo giáo
thực ra rất nhiều. Dưới đây chỉ xin đan cử ít nhiều lý thuyết chính.
(1) Thuyết thoái hóa (Chân
đạo tại tiền
真 道 在 前)
Có nhiều người cho rằng các đạo giáo đều
là biến thái của một chân đạo nguyên thủy. Đó là lý thuyết do André
Lang,
Wilhelm Schmidt, Nathan Söderbolm,
R.Pettazoni chủ xướng.
Theo thuyết này, thì các dân
tộc nguyên thủy đều tin có Thượng đế, tin vào một đấng tối cao. Sau này
dần dà, nhân loại mới tin vơ thờ quấy. Nói cách khác độc thần có trước
đa thần. Ta cũng có thể gọi thuyết này là thuyết thoái hóa, vì chủ
trương càng xưa càng hay, càng nay càng dở.
(2) Thuyết tiến hóa
(Théorie évolutionniste:
Chân đạo tại hậu 真 道 在 後)
Thuyết này chủ trương bất kỳ
cái gì cũng phải tiến từ thấp đến cao, từ thô đến tinh.
– Sự tiến hóa ấy theo những
quá trình in hệt như nhau ở khắp nơi, nhưng theo nhịp điệu nhanh chậm
khác nhau.
– Sự tiến hóa thường theo
định luật tiệm tăng, tiệm tiến, chứ không bột biến, bột phát.
– Các đạo giáo không hình
thành được trong một ngày mà phải chập chững, dò dẫm lâu dài, không phải
độc đáo tuyệt luân, mà cũng đã phải vay mượn, nhờ vả vào các đạo giáo
hoặc cựu thời hoặc đương thời.
Đa số các học giả khác về tôn giáo đã mặc
nhiên theo lý thuyết trên đây, và nhiều sách vở thường bắt đầu bằng
những đạo cổ sơ rồi đi dần dần đến những hình thức đạo giáo cao siêu
hơn.
Người ta cho rằng người cổ sơ tin có một
linh khí bàng bạc khắp đất trời, gọi là Mana theo từ ngữ dân
Mélanésiens.
Linh khí ấy có thể trụ và
cây, cỏ, người, vật. Như vậy vạn vật đều có hồn thiêng (animisme). Vật
nào hấp thụ được nhiều linh khí thì trở nên linh thiêng hơn, vì thế được
gọi là linh phù (fétiche), linh vật, hay vật tổ (totem).
Cái gì thuộc về linh khí ấy
thì linh thiêng (sacré, tabou). Cái gì thuộc về hình hài sắc tướng bên
ngoài thì là phàm tục (profane).
Từ quan niệm linh khí bàng bạc vô biên hay
Thượng đế vô ngã ấy
người ta đã dần dần đi đến những quan niệm chúng thần hữu ngã, hoặc nam,
hoặc nữ, rồi cuối cùng đi đến quan niệm một chúa tể duy nhất.
Như vậy hình thức thô sơ
nhất của các đạo giáo là linh khí, linh vật, rồi đến đa thần, độc thần.
Đạo giáo nào càng xuất hiện
về sau càng cao siêu hơn, hoàn bị hơn.
Nhưng thực ra giả thuyết này
không đúng với thực tế và lịch sử. Chẳng hạn ta thấy dân tộc Trung Hoa
đã thờ Trời từ Hoàng Đế khoảng 2600 trước kỷ nguyên.
Vả lại chấp nhận lý thuyết
trên thì đạo nào ra đời sau, sẽ hay hơn đạo ra đời trước. Và như vậy đạo
Do Thái sẽ hay hơn đạo Babylone; Công giáo sẽ hay hơn đạo Do Thái; Hồi
giáo sẽ hay hơn Công giáo, đạo Bahai sẽ hay hơn Hồi giáo, Cao Đài sẽ hay
hơn Bahai. Đó là điều mà dĩ nhiên không ai chấp nhận được.
(3) Chân đạo ở vào thời đại
trục (Chân đạo tại trung 真 道 在 中)
Jaspers cho rằng thời đại quan trọng nhất
đối với đạo giáo là thời đại trục (Achenzeit: période axiale). Đó là
khoảng thời gian từ 800 đến 200 trước kỷ nguyên. Thời ấy là thời nhiều
vị giáo chủ giáng trần và là thời nhân loại đạt tới một trình độ tâm
thần cao siêu nhất. Thời ấy ta thấy có Lão Tử (600– ?), Phật (560–480),
Khổng Tử (551–479), Mặc Tử, Trang Tử, Liệt Tử, Zoroastre (660–583),
Platon (429–347), Ezéchiel (thế kỷ VI), Jérémie (650–590), v.v.
Cho dầu lý thuyết trên rất
hấp dẫn nhưng nó vẫn không ăn khớp với thực tại.
Thực vậy cái mà ta tưởng là độc đáo,
thường lại đã được trình hiện ra trong quá vãng. Trước Sáng thế ký của
Do Thái đã có Sáng thế ký của Babylone mà ngày nay người ta mới tìm ra
được khi khai quật các cổ tích, cổ văn ở Accad, Lagash, Nippur gần đế đô
Babylone xưa,
trước luật Moise đã có luật Hammourabi,
trước đạo Công giáo đã có đạo Do Thái và nhất là giáo phái Esseniens.
Những cổ văn vừa khám phá được ở Quram gần Biển Chết đã chứng tỏ rất
nhiều điểm tương đồng giữa thư tịch phái Esséniens với Tân Ước Công
Giáo.
Giáo sư Duport Sommer còn đi xa hơn nữa.
Ông đã chứng minh có rất nhiều điểm tương đồng giữa đời sống của vị Tôn
Sư Công Chính với đời sống Chúa Cơ đốc.
Khảo thư tịch Á đông ta thấy
trước Phật Thích Ca đã có nhiều vị Phật khác, trước Lão Tử còn có Hoàng
Đế, trước Khổng Tử còn có Nghiêu Thuấn, Võ, Thang, Văn …
Glassenapp viết: «Sự khác
biệt vô cùng về cách thức phát biểu tư tưởng tâm tình và ý chí về phương
diện đạo giáo nổi bật lên khi chúng ta nhận định được rằng chẳng những
ngày nay hiện có vô vàn quan niệm về tôn giáo, mà trong suốt quá trình
tiến hóa của nhân loại ước lượng khoảng chừng 600.000 năm và nhất là
trong khoảng 6.000 năm có thể gọi được là văn minh, đã có vô vàn số quan
niệm tôn giáo mà ngày nay không còn.
«Có lẽ nào vô vàn vô số tín
ngưỡng ấy chẳng ít thì nhiều đã dựa trên một sự sai lầm mà chỉ có một
tôn giáo xuất hiện ở một nơi và một thời nhất định lại có được một chân
lý toàn bích.
«Trong khi khảo sát lịch sử các đạo giáo,
ta thấy nhiều đạo đã có sinh có tử; nguyên điều này cũng đã dạy chúng ta
rằng chẳng có một đạo nào có cái gì là rốt ráo, mà chúng ta có quyền coi
mọi đạo như là những hình thức phát biểu được phần nào chân lý toàn
bích.»
(4) Thuyết Âu Châu: Tự nhiên
và mặc khải
(Chân đạo tại Thánh thư 真 道 在 聖
書)
Âu Châu thường phân chia tôn
giáo ra làm hai loại:
– Đạo tự nhiên (religions
naturelles) và đạo mặc khải (Religions révélées).
– Đạo tự nhiên như Ấn giáo,
Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo đều do con người lập ra, và vì thế
khuyết điểm.
– Đạo mặc khải như Do thái
giáo, Cơ đốc giáo, Hồi giáo do chính Chúa Trời truyền, như vậy dĩ nhiên
chính xác và hoàn bị.
Nhưng phân tách kỹ càng, thì
thuyết này cũng không thể đứng vững.
Trước hết, Ấn giáo từ xa xưa
vẫn coi các thánh thư mình đều là do Thượng đế mặc khải.
Trung Hoa cũng cho rằng Dịch
kinh hay Hồng Phạm Cửu Trù đều là do Thượng đế mặc khải cho Phục Hi, Văn
Vương và Đại Võ.
Đằng khác, vị giáo chủ nào
mà chẳng được mặc khải, được giác ngộ.
Moise khi truyền luật cho
dân Do Thái thì tuyên bố rằng luật ấy do chính Chúa truyền, nhưng sau
này thánh Paul không chịu theo luật ấy nữa và gọi đó là luật Moise. Giáo
hội Công giáo sau này cũng tự ý đổi 2 điều răn trong mười điều răn Thiên
Chúa, và cho rằng mình có quyền làm như vậy.
Thánh thư Coran thì cho rằng Thượng đế
không thể nào sinh Con; vả Thượng đế là chí tôn vô đối, duy nhất, chứ
không có 3 ngôi như Công giáo chủ trương.
Thế là một mặt thì đạo nào
cũng cho thánh kinh của mình đã được Thượng đế mặc khải, và hoàn toàn
không thể nào sai lạc. Một mặt thì Thánh kinh đạo này lại phê bình Thánh
kinh đạo kia là sai lầm hoặc còn khiếm khuyết, không toàn hảo!
(5) Thuyết xã hội: Chân giả
tùy xã hội định đoạt
Durkheim (1858–1917) cho
rằng: phần thiêng liêng là phần quan trọng nhất của đạo giáo, mà cái
thiêng liêng ấy là do xã hội công nhận.
Như vậy nền móng đạo giáo
không phải là do Trời mà là do xã hội, do đoàn thể con người lập nên.
Thuyết này có phần đúng,
nhưng cũng có phần sai.
Đúng vì đã nêu cao được vai
trò quan trọng của đoàn thể, của xã hội về phương diện đạo giáo. Sai vì
đã lãng quên mất vai trò của các vị giáo chủ tức là vai trò của ít nhiều
cá nhân siêu việt đã thay đổi được đường hướng suy tư, đối đãi của nhân
loại.
(6) Chân đạo tại nhân tâm 真 道 在 人
心
Ngược lại đa số thánh hiền
Đông Tây thời chủ trương rằng Chân đạo chẳng có ở đâu xa mà đã tiềm ẩn
ngay trong lòng con người. Cái tinh hoa muôn thủa ấy hằng có ở trong
lòng mọi người, mọi nơi mọi đời, nhưng phàm phu tục tử không thể nào
nhận ra được. Thánh hiền chính là những người đã có công chỉ vẽ chân lý
ấy cho nhân loại.
Như vậy chân đạo đã phát
xuất từ một nguồn, đó là tâm thần con người, sau dần dà biến hóa thành
nhiều thứ tôn giáo khác nhau. Ngày nay các tôn giáo phải cố làm sao tìm
về cái đạo tương đồng nguyên thủy ấy.
Trong bài tựa cuốn «Kim Liên
Chánh Tông» của đạo Lão, ta cũng thấy có quan niệm tương tự: «Đạo không
đầu cuối, giáo có trước sau … Đạo thời chân thường siêu việt; giáo thời
dạy cách độ người. Đạo là bản thể ngàn đời không hề biến dịch; giáo là
công dụng, có lúc thịnh, có lúc suy.»
Thẳng thắn mà xét thì vấn đề
«Chân đạo tại nhân tâm» là một quan niệm mà chỉ có một số ít
chính nhân, quân tử, hiền thánh mọi nơi mọi đời chấp nhận.
Nó đòi hỏi một sự suy xét
sâu xa, một tâm hồn tế nhị có thể thâu nhận được những ý niệm từ đáy
lòng hiện lên tâm thức. Đó là công việc mà những người tầm thường không
làm nổi.
Quan niệm này vì không có tầm kích không
gian thời gian, nên không lồng được vào khuôn khổ lịch sử, và trước mắt
quần chúng nếu đó chẳng phải là tà thuyết, thì cũng là không ngôn, vì
hoàn toàn vượt trên tầm suy tưởng của họ.
Theo quan điểm này, thì đạo
tự nhiên hay thiên tạo chính là đạo dựa vào lương tâm, lương tri con
người, đạo qui ước hay nhân tạo là đạo dựa vào những sách vở, những kinh
điển bên ngoài.
Dẫu sao, thì lương tâm lương
tri cũng có giá trị phổ quát, đại đồng, bất biến, bất dịch. Dẫu sao, thì
sách vở, kinh điển cũng là nhân tạo và chỉ có một giá trị lịch sử, địa
dư, dân tộc hữu hạn.
(7) Chân đạo phải phổ quát
và vĩnh cửu
Gần đây có một số triết gia
và học giả như Aldous Huxley, Coomaraswany, Frithjob, Shuon, René Guénon
chủ trương có «một triết lý vĩnh cửu». Các ông cho rằng:
– Chân lý rốt ráo về Thượng
đế và về vũ trụ không thể trực tiếp phát biểu bằng lời lẽ được.
– Những chân lý ấy phải duy
nhất, bất biến mọi nơi, mọi đời. Những tôn giáo mặc khải vì khác nhau ở
rất nhiều điểm quan trọng, nên chỉ có thể đúng một cách tương đối. Mỗi
một cuộc mặc khải đều thích ứng với nhu cầu của thời đại và với trình độ
tâm thần của người thụ giáo.
Theo Coomaraswany thời chỉ duy có một điều
phi lý đó là chủ trương chỉ có một tôn giáo đã hoàn toàn nắm giữ được
chân lý. Thực ra tôn giáo chỉ là những khía cạnh khác nhau của một chân
lý duy nhất. Chân lý duy nhất ấy được trình bày khác nhau tùy thời và
tùy trình độ tâm thần của xã hội liên hệ.
(8) Quan niệm Tam Tài với
đạo giáo
Sau hết ta cũng có thể dựa
vào quan niệm Tam Tài để phân loại các đạo giáo, và để tìm cho ra bổn
phận và mục đích chân thực của các đạo giáo.
1. Vì con người ai cũng
có xác, nên trước hết là có Vật đạo hay Địa đạo.
Vật đạo hay Địa đạo cốt là
lo cho con người có đủ ăn, đủ mặc, có một hoàn cảnh vật chất khả quan.
Đó cũng là một hình thức đạo
giáo, vì hằng ngày trong khi cầu nguyện xin ơn, trong 100 người, thì 99
người cầu cho mình và cho gia đình được đủ ăn đủ mặc, bình yên khỏe
mạnh.
Trong kinh Lạy Cha chúa
Jésus cũng dạy mọi người xin cho được hằng ngày dùng đủ.
Ramakhrishna nói: «Kẻ bụng rỗng không thể
theo đạo.»
Phương ngôn Việt Nam cũng
nói: «Có thực mới vực được đạo.»
Vivekananda viết: «Tôi đã đi khắp Ấn độ và
tôi rất đau lòng khi thấy cảnh nghèo nàn cơ cực của dân chúng. Tôi không
cầm được nước mắt. Và ngày nay, tôi tin chắc rằng không lo giúp cho họ
bớt nghèo nàn khổ sở thì giảng đạo cho họ cũng vô ích.»
Vivekananda muốn đạo giáo phải dạy con
người biết tự tin vào mình, biết kính trọng kẻ khác, có thể nuôi dưỡng
được kẻ đói khát, lướt thắng được sự cơ cực, nâng cao được trình độ quần
chúng. Theo Ông, muốn tìm Thượng đế hãy phục vụ con người.
2. Vì con người ai cũng
có tâm hồn, nên thứ đến có Nhân đạo.
Nhân đạo có mục đích dạy mọi người ăn ở sao cho hợp tình, hợp lý, xứng
đáng với danh nghĩa con người để mọi người cùng nhau sống trong tình
huynh đệ, không còn ai bị áp bức, cưỡng đoạt, lợi dụng, bóc lột.
Các tiên tri Do Thái như Élie, Amos, Osée
v.v… đều là những người hăng say bênh vực quyền lợi dân chúng chống lại
bạo quyền. Chúa Jésus,
cũng như Hillel,
cũng như Khổng Tử,
cũng như Thánh Thư Ấn Độ giáo,
không hẹn nhau, mà đều đồng thanh kêu gọi
mọi người phải coi người khác như chính mình, cũng đều chủ trương «Kỷ sở
bất dục vật thi ư nhân»
己 所 不 欲, 勿 施 於 人! … Các đạo
giáo đều dạy chúng ta đem tình thương mà đối đãi với mọi người.
Như vậy chân đạo không xa
lánh cuộc đời, mà chính hằng lo lắng sao cho xã hội loài người ngày một
trở nên hoàn mỹ.
3. Sau hết, vì con người
còn có tinh thần (Esprit), nên còn có Thiên đạo.
Thiên đạo có mục đích dạy
con người một lề lối sống hoàn thiện phối kết với Thượng đế. Các đạo
giáo Âu Châu gọi thế là cuộc sống huyền đồng (vie mystique). Khổng Tử,
Lão Tử gọi thế là «Phối Thiên» 配 天.
Bà
la môn giáo gọi thế là sống hợp nhất với Atman, hay sống hợp nhất với
Thượng đế. Phật giáo gọi thế là «đáo bỉ ngạn»
到 彼 岸 (sang tới bờ bên kia)
hay nhập Niết Bàn.
Thiên đạo theo thánh kinh
công giáo chính là thờ phượng Thượng đế bằng tâm thần và bằng chân lý,
vì Thượng đế là Thần, nên chỉ có Thần con người mới có thể tìm cầu và
kết hợp với Thượng đế. Thiên đạo theo Nho giáo chính là Đạo Trung Dung,
vì Nho giáo chủ trương cần phải tìm cho ra Thượng đế làm trụ cốt, làm
Tâm điểm cho hoàn võ và cho lòng con người; gạn đục khơi trong tâm hồn
để đạt tới tinh hoa nhân loại, trở nên thuần túy chí thiện. Thiên đạo
đối với Phật giáo, Ấn Độ giáo, hay Lão giáo chính là vượt lên trên mọi
hình tướng biến thiên phù phiếm, biến dịch để trở về với hay để thực
hiện vĩnh cửu, bất diệt, bất hoại. Đó là thực hiện Kim cương thân, hoặc
Pháp thân, hoặc Tiên đan.
Hoặc đi tìm Thượng đế, kết
hợp với Thượng đế, hoặc băng qua hình tướng để trở về cùng Bản thể Tuyệt
đối; hoặc vượt tầm không gian thời gian, để trở về cùng vĩnh cửu bất
sinh, bất diệt, tất cả những từ ngữ tuy có khác nhau về hình thức nhưng
nội dung vẫn chỉ là một: đó là sống đời toàn thiện kết hợp với Thượng
đế…
Ba thứ đạo: vật đạo, nhân
đạo, thiên đạo nói trên cao thấp, nông sâu hết sức khác nhau.
Vật đạo thấp nhất, rồi đến
nhân đạo, rồi đến thiên đạo. Lắp liền ba thứ đạo ấy với nhau, ta sẽ được
một chiếc thang Jacob bắc từ đất lên đến trời, nối liền trời đất người.
Đất là xác thân, là hoàn cảnh ở bên ngoài; người là tâm hồn ở bên trong;
trời là tâm thần ở khuất lấp trong đáy lòng sâu thẳm. Như vậy ta mới
hiểu: «Nước trời chẳng ở đâu xa mà đã ở ngay trong lòng chúng ta.» (Luc
17, 21).
Tiêu chuẩn chân đạo:
Như vậy chân đạo không phải
là một mớ lý thuyết suông mà chính là những phương pháp khoa học, thiết
thực để khai thác ngoại cảnh, cải tạo tâm hồn con người, giúp con người
đi sâu được vào cảnh giới tâm linh để gặp gỡ Thượng đế, và sống phối kết
với Thượng đế.
Ngày nay chân lý không còn
là một chiếc tàu hỏa mà các đạo giáo Âu Châu là như đầu máy tàu, và các
toa hạng nhất hạng nhì lịch sử, còn các đạo giáo Á Châu thời bị coi như
là những toa hạng ba, hạng tư, toa chót toa đuôi, lôi thôi luộm thuộm.
Không! Chân lý phải được coi
như một vòng tròn mà mỗi đạo giáo, ít là về phương diện gian trần, là
một đường bán kính. Các đạo giáo tuy khác xa nhau ở các tầng lớp bên
ngoài, nhưng sẽ gặp gỡ nhau nơi tâm điểm, mà tâm điểm ấy chính là Thượng
đế.
Như vậy đúng như lời Tolstoi đã nói:
«Chúng ta sẽ gặp nhau, khi chúng ta về đến đích.»
Suy cho cùng thì Thiên chúa
giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Lão giáo, Khổng giáo và tất cả
các đạo lớn trong thiên hạ cũng đều đề cao một đời sống công chính, đều
chỉ vẽ rằng đức bác ái và tình huynh đệ là con đường đưa tới một đời
sống hẳn hoi, cho cá nhân cũng như cho nhân quần xã hội.
Chắc chắn cũng là một Thượng đế, một Thần
linh nội tại đã hoạt động trong lòng mọi người. Nếu chúng ta lưu tâm đến
chân lý sống động hơn là đến giáo lý, tín điều – duyên do làm cho chúng
ta chia rẽ nhau – thì có lẽ Thượng đế đã hoạt động hữu hiệu hơn. Nếu
chúng ta phá bỏ những bức tường chia rẽ ngăn cách chúng ta, thì có lẽ
Ngài có nhiều chỗ mà thực thi ý nguyện hơn.
Vivekananda cho rằng đạo
giáo cao siêu nhất là đạo giáo dạy cho con người biết tự tin mình; có
những phương thế để cải tạo đời sống vật chất, xã hội, tinh thần để nhân
loại ngày một tiến hóa hơn, trở nên cao đại, thanh quí hơn.
Và đây là những lời tâm
huyết của Vivekananda: «Chúng ta phải biết tin tưởng vào chúng ta. Nếu
các bạn tin vào 330 triệu thần minh huyền thoại của các bạn, nhưng nếu
các bạn không tin vào nơi các bạn, thì các bạn sẽ không được cứu rỗi.
«Hãy tin vào các bạn, hãy
bám víu vào niềm tin ấy. Tại sao chúng ta, một dân tộc 330 triệu người,
thế mà trong hàng ngàn năm, chúng ta đã bị cai trị bởi một nhúm người
ngoại quốc? Đó là tại vì họ tin tưởng vào họ, mà chúng ta không tin
tưởng vào chúng ta … Chúng ta phải chịu trách nhiệm về sự sa đọa của
chúng ta. Những bậc tiền bối quyền quí của ta đã trèo đầu cưỡi cổ lên
đám dân đen trong nước, nên họ mới trở nên hèn kém, đến nỗi, sống trong
đọa đày, những kẻ xấu số ấy quên mất rằng họ cũng là những con người.
«Họ bị đọa đày vào những
tình trạng bần cùng, đốn mạt đến nỗi họ tin tưởng rằng họ sinh ra để làm
thân tôi mọi.
«Các bạn vỗ ngực cho rằng
mình là những người yêu nước thương nòi, các bạn là những nhà cách mạng,
có bạn có cảm thấy lòng dạ xuyến xao vì hàng triệu người thuộc dòng dõi
thần linh và thánh hiền nay đã trở nên gần ngang hàng với muôn thú, vì
triệu triệu người đang chết đói, vì triệu triệu người đã chết đói từ bao
thế kỷ nay?
«Các bạn có cảm thấy không:
sự dốt nát đang bao phủ xứ này như một đám mây mù?
«Các bạn có thấy bàng hoàng
vì thế chăng? Các bạn đã vì thế mà mất ăn mất ngủ chưa? Các bạn đã vì
những thảm cảnh ấy mà muốn phát điên lên chưa? …
«Từ bao thế kỷ nay, người ta
đã dạy cho dân ta một thứ tôn giáo đốn hèn. Người ta đã dạy cho quần
chúng trên khắp mặt đất này rằng họ chẳng có giá trị gì cả. Họ đã dọa
dẫm đám dân đen từ nhiều thế kỷ nay và làm cho họ trở nên như những bầy
súc vật...
“Hãy đứng lên, hỡi các bạn.
Hãy tỉnh dậy hỡi các bạn. các bạn đừng bao giờ dừng chân trước khi chưa
tới đích. Các bạn hãy tỉnh dậy, đừng bị thôi miên, đừng bị mặc cảm rằng
mình yếu hèn ...
«Các bạn hãy đứng lên, chúng ta cần một
thứ đạo dạy chúng ta trở nên những con người xứng đáng! Chúng ta cần có
những học thuyết dạy cách cho chúng ta trở nên những con người xứng
đáng. Và đây là đá thử vàng cho chúng ta biết thế nào là chân lý: Bất kỳ
cái gì làm cho các bạn trở nên hèn yếu về phương diện xác chất về phương
diện tâm trí, về phương diện siêu nhiên, các bạn hãy vứt bỏ đi. Đó là
liều thuốc độc. Sự sống không có ở đó. Chân lý không có ở đó. Chân lý là
sức mạnh. Chân lý là tinh hoa. Chân lý là ánh sáng. Chân lý là nguồn
mạch mọi năng lực. Các bạn hãy từ bỏ những lối đạo hạnh làm suy nhược
con người và hãy trở nên hùng mạnh. Tất cả những chân lý trọng đại trên
đời này đều giản dị, giản dị như cuộc sống các bạn vậy!»
Như vậy đạo giáo không phải
là sự ù lì, chịu đựng, mà là sự cố gắng tìm cầu. Đạo giáo là một sự
triển dương tấm kích của lý trí và tâm hồn cho tới cùng cực.
Con người đạo hạnh chân
chính luôn ước muốn có một đời sống phong phú hơn, sâu xa hơn, khoáng
đạt hơn, hùng dũng hơn. nói cách khác, con người đạo hạnh muốn vươn lên
cho tới chỗ cao đại. Sự cứu rỗi, sự giải thoát đối với họ chính là sự
vượt tầm kích phàm nhân mà tiến vào tầm kích siêu nhân, thần thánh. Cũng
có thể gọi đó là sống một cuộc sống đẹp đẽ hơn, ý nghĩa hơn, rộng rãi
hơn, cao siêu hơn, sâu xa hơn… Đạo giáo chẳng qua là nhịp cầu bắc từ hữu
hạn tới vô hạn, để giúp cái hữu hạn tiến về cái vô hạn.
Đạo giáo nhắc cho con người
nhớ rằng phân thể bao giờ cũng phải lệ thuộc vào toàn thể. Phân thể vì
vậy không thể nào tách rời khỏi toàn thể.
Vì thế nên Shelling mới định
nghĩa đạo giáo là sự hợp nhất giữa ta và Bản thể tự hữu.
Max Müller thì cho rằng: đạo giáo là một
sự cố gắng để quan niệm cái «bất khả quan niệm» để nghị luận cái «bất
khả tư nghị», để ao ước muốn vươn lên cho tới vô cùng.
KẾT LUẬN:
Sự khảo sát trên đây cho
chúng ta thấy rằng chân đạo không phải ở đầu thời gian, ở cuối thời
gian, ở giữa thời gian; chân đạo không có ở trong sách vở; chân đạo
không ở bên Đông, cũng chẳng ở bên Tây, chân đạo không có quốc gia cũng
như không có giang sơn bờ cõi; chân đạo cũng không ở trong đoàn thể, các
tổ chức xã hội, chân đạo không ở trong đền đài, miếu mạo, hay ở trong
tay những kẻ có uy quyền, mà chân đạo đã ở ngay trong tâm thần mỗi một
người.
Thượng đế vì vô biên vô tận,
nên chẳng những ở trên trời, mà còn ở khắp nơi trong vũ trụ bao la này
cũng như đồng thời đã ẩn áo ngay sẵn trong lòng con người.
Như vậy con đường dẫn tới
Thượng đế gần nhất là con đường nội tâm. Những tâm hồn tinh khiết, thanh
cao, những khối óc thông minh, sáng láng chẳng chóng thì chày sẽ nhận ra
được chân lý tối sơ ấy.
Ram Linson viết: «Giây liên lạc nối kết ta
với Đại thể thực đã ở ngay trong tầng sâu các cơ cấu tâm tình ta, ở bên
dưới các lớp lang ý thức sâu xa và thầm kín nhất.»
Cho nên dẫu các đạo giáo từ
xưa tới nay đã bày biện ra muôn vàn lễ nghi, hình thức bên ngoài, dẫu
các thánh thư từ trước tới nay đã dùng mọi phương cách, đã dài dòng dạy
dỗ con người; tất cả những cái đó cũng không ngoài mục đích giúp con
người gạn đục khơi trong tâm hồn, để có thể cảm thông trực tiếp được với
Thượng đế, bằng tâm thần mình.
Chân lý, chân đạo bao giờ
cũng giản dị, cũng trong sáng, cũng vĩnh cửu và phổ quát. Chân lý chân
đạo bao giờ cũng đem lại cho con người tự do và hạnh phúc, y thức như
cơm áo bao giờ cũng đem lại no ấm cho con người. Cho nên tất cả những
cái gì rắc rối, tần phiền, tất cả những cái gì thằng thúc, trói buộc, đè
nén con người, tất cả những cái gì làm cho con người trở nên ngu si, đần
độn, khổ sở, khốn nạn về tinh thần cũng như về vật chất, tất cả những gì
làm tiêu ma nghị lực con người, làm suy giảm nhân phẩm con người, tất cả
những cái đó đều không phải là chân lý, chân đạo.
Trên phương diện thực hành,
thái độ chân chính nhất của một người đạo hạnh chân thực là không mất
thì giờ chê đạo này, đạo nọ; mà phải luôn luôn cố gắng tiến bước trên
đường nhân nẻo đức, tiến tới hoàn thiện tinh hoa; luôn cố gắng cho lòng
mình rộng mở để bao dung, thông cảm với người; cho lòng mình rung cảm
trước những nỗi đau thương của đồng loại và ra tay tế độ.
Bất kỳ chúng ta theo đạo nào
và dầu cho đạo ấy cao siêu mấy đi chăng nữa, nếu mà lòng chúng ta vẫn
còn thô lỗ, còn đầy oán hờn, còn đầy ghen ghét, còn đầy mưu gian chước
độc, mà tâm trí chúng ta còn hẹp hòi, còn tối tăm, rối rít, còn khổ sở,
còn đốn hèn, còn bị lo âu, còn bị dày vò, còn trống rỗng và vô vị, thì
thực thà mà nói, chúng ta vẫn là những con người vô đạo, hay ít là những
ảnh hưởng tốt đẹp của các đạo giáo chưa có chút tác động nào trên tâm
thần chúng ta, đạo giáo mới chỉ là những thời trang phủ trên người chúng
ta những lớp xa hoa phù phiếm mà thôi.
Tôi sở dĩ đã mạo muội nói về
đề tài này cùng quí vị, là mong muốn được nói lên một tiếng nói nhỏ bé
của tôi cốt để kêu gọi mọi người hãy tỏ ra khoan dung, độ lượng, thông
cảm lẫn nhau và đừng để cho màu sắc tôn giáo làm phai nhạt tình huynh
đệ, tình đồng bào đồng chủng.
Cái quan hệ của chúng ta
không phải là ở chỗ theo đạo này, đạo nọ, mà cái quan hệ chính là ở nỗ
lực tìm cầu chân lý, nỗ lực sống theo lý tưởng mình tin theo.
Ramakrishna viết: «Bất kỳ bạn theo đường
nào, điều quan hệ là phải thành khẩn khao khát chân lý. Thượng đế biết
rõ những bí ẩn của lòng bạn, và dẫu bạn có đi lầm đường cũng không sao,
miễn là bạn thành khẩn, Thượng đế sẽ đưa bạn về đường ngay nẻo chính …
Mà có con đường nào thoát lầm lạc đâu! Ai cũng nghĩ rằng đồng hồ mình
đúng nhưng kỳ thực chẳng ai có giờ đúng. Cái đó cũng chẳng ngăn trở công
việc.»
Vậy chúng ta hãy nên chịu
khó cố gắng tìm hiểu lẫn nhau, học lấy cái hay của nhau, tránh cái dở
cho nhau, bắt tay nhau cùng xây dựng tương lai, cho trần hoàn chóng trở
thành nơi lạc cảnh.
Nếu các
đạo giáo đều cố gắng tạo nên những mẫu người lý tưởng theo nhãn quan của
mình, thì ta cũng có thể hấp thụ tinh hoa của các đạo giáo để trở nên
những con người lý tưởng chân thực. Nếu trong tương lai, nhân loại bắt
tay được với nhau để cùng tiến tới tinh hoa hoàn thiện, thì đẹp đẽ biết
là bao. Thi hào Tagore đã nói: «Nhân cách vô biên của con người chỉ có
thể thực hiện khi các chủng tộc hòa hợp thân ái với nhau…»
Ước mong cái ngày hoàng kim ấy sớm thực hiện.
CHÚ THÍCH
«… (que) Dieu est
vérité et (que) la vérité est divine.» G. Van Der Leeuw, La Religion
dans son essence et ses manifestations, p. 592.
[2]
Đồi Coelius, Aventin, Exquilin, Viminal, Capitole, Palatin, Quirinal.
[3]
«Les dissonances du monde ressemblent aux disputes entre amoureux. La
réconciliation survient au milieu du conflit et tout ce qui était séparé
se retrouve. Les artères qui divergent reviennent au coeur; tout est
vie, unique, éternelle, flamboyante.»
G. Van Der Leuuw, La
religion dans son essence et dans ses manifestations, p. 586.
[4]
Bửu Cầm, Tống Nho, tr.17.
[5]
A.C. Bouquet, Comparative Religion, p.17.
[6]
Ibid., p. 17.
[7]
A.C. Bouquet, Comparative Religion, p.17.
[8]
H. Ringgren et A. V. Ström, Les Religions du Monde, p. 116.
[9]
E. Royston Pike, Dictionnaire des Religions.
[10]
«Les mêmes méthodes d’investigation que nous appliquons dans les
sciences et la connaissance extérieure, doivent-elles être appliquées,
dans la science de la religion? Je dis: Oui. Et j’ajoute: Le plus tôt
sera le mieux. Si une religion est détruite par cette investigation,
elle était donc une superstition inutile et indigne; plus tôt elle
disparaîtra, et mieux cela vaudra. Je suis absolument convaincu que sa
destruction sera le mieux qui put arriver. Tout ce qui est scorie sera
enlevé; mais les parties essentielles ressortiront triomphantes.»
(Vivékananda, l’Idéal d’une religion universelle, II, p. 138. –
Romain Rolland, La vie de Vivékananda et l’évangile universel,
II, p. 78).
[11]
«Vous n’acceptez rien, de confiance, comme font les superstitieux. La
science sera votre religion, ainsi dit le Seigneur notre Dieu… Ne
mystifiez pas votre esprit par des mystères occultes! Ne vous livrez pas
à des rêves et des fantaisies! Mais avec une vision claire et un
jugement sain, non troublé, prouvez tout chose, et tenez-vous ferme à ce
qui a été prouvé vrai. Dans toutes vos croyances et toutes vos prières,
la foi et la raison devront s’harmoniser en la vraie Science.» (Ibid.,
p. 79, note 2).
[12]
«Ils nous ont rompus dans la guerre et corrompus dans la paix. Ceux qui
leur ont résisté ont péri, mais ceux qui, comme nous, leur ont cédé, ont
peut-être connu un sort pire: Ils ont perdu leur âme. Ils ne nous ont
pas seulement exploités, ils nous ont séduits … Ils nous ont fait perdre
notre foi pour nous bourrer de leur idées … Ils ont fini par nous faire
accroire que rien ne serait plus désirable pour nous que d’être eux. Et
ainsi nous sommes morts à nous-mêmes!» (Xem Civilisation et notre
délivrance, p.15 và Văn Hoá Á Châu, tháng 4, 1960, tr. 39).
[13]
(Véritable océan immensurable) Xem Mystères bouddhiques, p. 52 và
Văn Hóa Á Châu, tháng 4, 1960, tr. 34.
[14]
Théories du monothéisme primitif et intermédiaires.
H. Ringgren et A.V. Ström,
Les Religions du Monde, p.18.
[15]
H. Ringgren et A. V. Ström, Les Religions du Monde, pp. 19 et ss.
[16]
Mana là tiếng của dân Mélanésiens. Các dân tộc khác cũng có những tiếng
tương tự để chỉ Mana như Manitou (Algonquins), Orenda (Ironquoi),
Walanda (Sioux), Arungquilta (Arunta ở Australie), Mulungu (Bantu)… (Xem
Jack Pinegan, The Archeology of World Religions, p. 12, 13.
[17]
Mana, force anonyme à la fois matérielle et spirituelle, répandue
partout: «Dieu impersonnel», selon Durkheim (Xem Félicien Challaye,
Petite Histoire des Grandes Religions, p. 262).
[18]
Xem Thời đại trục với truyền thống Á Châu của Dung Đạo, in trong
Văn Hóa Á Châu, tháng 4, 1960, tr. 118.
[19]
Pocket Bible Handbook, tr. 61, 75.
[20]
Félicien Challeye, Petite Histoire des Grandes Religions, p. 135.
[21]
A. Powell Davies, The meaning of The Dead Sea Scrolls, p. 101,
108.
[22]
Edmund Wilson, The Scroll from the Dead Sea, p. 91.
[23]
H. De Glassenapp, Les Cinq Grandes Religions du Monde, p. 552,
553.
[24]
For Mohammed’s very intense conviction, the unity of God – absolute and
unqualified – is the foundation of all true religious faith. Hence the
Christian doctrine of the Trinity – this bizarre idea of the three gods
in one – seemed to him a blasphemous error; it is a covert form of
polytheism, however disguised.
… It is very unseemly to
believe of God the He should beget a son. (Edwin A. Burtt, Man seeks
the divine, p. 435).
[25]
Xem Lecomte du Noüy và học thuyết viễn đích của tác giả, tr.
336-337.
[26]
Xem R. C. Zaehner, Mysticism sacred and profane, p. 27.
«Triết lý vĩnh cửu» được gọi
là Philosophia perennis theo từ ngữ các học giả nói trên.
[27]
La religion n’est pas pour les ventres vides (Vie de Vivekananda,
I, p. 34).
[28]
J’ai voyagé par toute l’Inde, et c’a été pour moi une torture de voir la
pauvreté et la misère terribles des masses. Je ne puis retennir mes
larmes. C’est à présent ma ferme conviction qu’il est inutile de prêcher
aux malheureux la religion, sans soulager leur pauvreté et leurs
souffrances (Ibid., 38).
[29]
Une Religion qui nous donne la foi en nous et le respect des autres, le
pouvoir de nourrir les affamés, de vaincre la misère, de relever les
masses. Si vous voulez trouver Dieu, servez l’homme (Ibid., 18).
[30]
Ainsi tout ce que vous désirez que les autres fassent pour vous
faites-le vous mêmes pour eux. Voilà la Loi et les Prophètes. (Matthieu
7, 12. – Luc 6, 31).
[31]
Do not unto others that which is hateful to you. This is the whole of
the Law, all the rest is commentary. (Rabbi Hillel, Talmud) (Xem Joseph
Gaer, The Wisdom of the Living Religions, 161).
[32]
Confucius was asked: «Is there one word that sums up the basis of all
good conduct?» All, he replied, «Is not reciprocity, that word? What you
yourself do not desire, do not put before others.» (Analects XV, 23;
XII, 2) (Trung Dung XIII).
[33]
Ne fais pas aux autres ce que tu ne voudrais pas qu’on te fit; et
souhaite aux autres ce que tu désires le plus ardemment toi-même. C’est
là l’essence du Dharma. Retiens-le bien. Mahabharata. (B. L. Atreya,
Aspects de la Culture Indienne apud Originalité des Cultures, p. 158).
[34]
Trung Dung, ch. 31; Đạo Đức kinh, ch.
68.
[35]
Nous nous rencontrons quand nous serons arrivés. (La vie de
Vivekananda II, p. 112).
[36]
A. Powell Davies, The Meaning of the Dead sea scroll, p. 131.
[37]
Cf. La vie de Vivekananda, I, p. 124-125.
[38]
Tout s’explique en la vie religieuse dès qu’on voit dans sentiment
religieux le sentiment de l’Infini, dans la religion un lien établi
entre le fini et l’infini.
Pour Schelling (1775-1854)
«La religion est l’unité absolute de notre être et de l’Être».
Pour Max Müller (1823-1900),
la religion est «un effort pour concevoir l’inconcevable, pour exprimer
l’inexprimable, une aspiration vers l’Infini.» (Félicien Challaye,
Petite histoire des grandes religions, p. 266-267).
[39]
Xem Lecomte du Noüy và Học thuyết Viễn đích của tác giả, tr. 299.
[40]
Quel que soit le chemin que vous suiviez, le point vital est le désire
ardent de la vérité. Dieu connaît les secrets de votre coeur; et il
importe peu vous preniez le mauvais chemin; il faut seulement que vous
ayez la sincérité. Lui-même vous ramènera dans le bon chemin … On sait
bien qu’aucun chemin n’est sans erreur. Chacun croit que sa montre va
bien; mais en fait, personne n’a l’heure exacte. Cela n’empêche pas de
travailler … (Vie de Ramakrishna, p. 645).
Sur la voie de tels
rapprochements entre les plus hautes aspirations humaines, l’humanité
pourrait accomplir de merveilleux progrès. Peut-être est-ce un aussi
sublime avenir que prophétise la grand indou Rabindranath Tagore
(1861-1941) lorsqu’il écrit empruntant aux Oupanishads une mystérieuse
formule: «L’Infinie Personnalité de l’homme ne peut être accomplie que
dans une grandiose harmonie de toutes les races humaines…» (Félicien
Challaye, Petite Histoire des grandes Religions, p. 277).
»
mục lục
| tựa |
chương 1
2 3
4
5 6
7
8 9
10 |
sách tham khảo
|