TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ
»
MỤC LỤC |
NGUYÊN |
HANH |
LỢI |
TRINH
HANH TẬP
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16
NGỌC DỊCH LUYỆN
HÌNH PHÁP TẮC
Người sơ học làm việc vất
vả, bỗng nhiên vào được nơi Tĩnh Định Hư Không, tự nhiên cơ thể được
nghỉ ngơi, cho nên tứ chi không vận động. Không vận động nên cốt tiết
không dược thông sướng, đến điều mạch lạc bị úng tắc, khí huyét bị ngưng
trệ. Vì thế cần phải đề cập đến phép Thông Quan, Lọc Uế.
Phép này sử dụng đến Hành
Khí Chủ Tể, là khiếu Huyền Ưng,
khiếu này thông khí quản. Vì thế Huỳnh Đình Kinh nói: Huyền ưng khí quản
thụ tinh phù
玄
膺 氣 管 受 精 符 . Giây
phút thì tinh dịch ra đầy miệng, như nước giếng. Nhẹ nhàng súc miệng vài
lần, rồi từ từ dùng Chân Khí dẫn xuống Trùng Lâu (cổ họng), rồi tới Đán
Trung (Giữa hai vú), Cưu vĩ, Trung Quản, Thần khuyết (rốn), đến huyệt
Khí hải thời ngừng.
Rồi từ Khí Hải chia làm hai
đường, đi xuống hai vế đùi. Rồi từ đầu gối xuống huyệt Túc Tam Lýù,
xuống phía sau bắp chân, tới ngón chân cái. Rồi chuyển nhập vào huyệt
Dũng Tuyền, theo gót chân trở lên đùi rồi tới huyệt Vĩ Lư, hợp làm một
chỗ. Qua Thận đường, Giáp Tích, phân tống ra hai vai, hai cánh tay, đến
lưng bàn tay. Rồi từ ngón tay giữa chuyển vào lòng bàn tay, và cùng một
lượt triển hồi qua cùi tay, rồi từ bên trong cách tay dẫn lên đỉnh đầu.
Rồi lần xuống Minh Đường, xuống cúa, lấy lưỡi mà đón, đến khiếu Huyền
Ưng thì ngừng. Đó là đủ một vòng.
Dừng nơi đó một chút, rồi
lại làm như cũ. Như vậy sẽ thông suốt kinh mạch, và các khiếu cũng sẽ
thông. Tâm Ấn Kinh có nói: Thất khiếu
tương thông, khiếu khiếu quang minh
七 竅 相 通 竅 竅 光 明 (Thất
khiếu tương thông, khiếu khiếu sáng láng).
Trong thân người có một
khiếu Linh minh (Tâm, đan điền), trong trời đất, hay ngoài trời đất
trước sau vẫn là một, luôn luôn sáng soi. Sáng soi không được là vì có
hình hài. Nếu tu luyện mà Hình Thần câu diệu, thì sẽ trở lại Dữ Đạo hợp
chân.
Hành Khí phải dùng mắt. Tại
sao? Vì Thi Kiên Ngô nói:
Khí thị thiêm niên dược,
氣 是 添 年 藥
Tâm vi sử Khí Thần,
心 為 使 氣 神
Nhược tri hành khí chủ,
若 知 行 氣 主
Tiện thị đắc tiên nhân.
便 是 得 仙 人
Khí là thuốc tăng thọ,
Tâm điều khiển Khí Thần.
Nếu ai biết Hành Khí,
Người đó chính Tiên Nhân.
Người xưa nói: Mục chi sở
chí, tâm diệc chí yên, Tâm chi sở chí, khí diệc chí yên
目 之 所 至 心 亦 至
焉 心 之 所 至 氣
亦 至 焉 (Mắt đến đâu,
thì Tâm đến đó. Tâm đến đâu thì Khí đến đó).
Luyện hình phải dùng tân
dịch. Tại sao? Đạo gia gọi là: Đãng uế. Ngọc dịch là Tân; Ngọc trì là
Khẩu.
Huỳnh Đình nội cảnh viết:
Khẩu vi Ngọc Trì, Thái Hoà
quan,
口 為 玉 池 太 和 官,
Thấu yết linh dịch, tai bất
can,
漱 咽 靈 液 災 不 干,
Thể sinh quang hoa, khí
hương lan.
體 生 光 華 氣 香 蘭 .
Kiếp diệt bách tà, ngọc dịch
nhan,
劫 滅 百 邪 玉 液 顏,
Thẩm năng tu chi đăng Quảng
Hàn.
審 能 修 之 登 廣 寒 .
Miệng là Ngọc trì, Thái hoà
Quan,
Biết nuốt Linh dịch, bệnh
tai an,
Thân thể quang hoa, hơi thơm
phức,
Trừ diệt bách tà, diệt dung
nhan,
Biết tu phép này, lên Quảng
Hàn.
Bởi vì trong Dịch (nước bọt)
có Khí; trong Khí có Dịch. Dịch Khí sinh ra lẫn nhau, càng ngày càng
thịnh.
Cơ sở Tân Dịch là thuốc báu
cho thân thể. Huống chi Tân Dịch, có thể Xuyên Quan, Thấu Tiết, không
nơi nào mà không đến.
Xưa có bài ca:
Hoa trì thần thuỷ, tần thôn
yết,
華 池 神 水 頻 吞 咽,
Tử Phủ[3]
Nguyên Quân[4]
trực thượng bôn.
紫 府 元 君 直 上 奔 .
Thường sử khí thông quan
tiết thấu,
常 使 氣 通 關 節 透,
Tự nhiên tinh mãn Cốc Thần[5]
tồn.
自 然 精 滿 谷 神 存 .
Nếu mà nước bọt thường hay
nuốt,
Tử Phủ Nguyên Quân sẽ đi
lên.
Sao cho cốt tiết được thông
thấu,
Tự nhiên tinh mãn, Cốc Thần
tồn.
Vả Huyền Quan nhất khiếu, là
biển Tinh Dịch, là nguồn sinh hoá, tẩm rưới khắp thân, đều gốc ở đó.
Cho nên đức Thái Thượng nói:
Thiệt hạ Huyền Ưng sinh tử
ngạn,
舌 下 玄 膺 生 死 岸,
Tử nhược ngộ chi thăng thiên
hán.
子 若 悟 之 升 天 漢 .
Huyền Ưng dưới lưỡi, sinh tử
ngạn,
Nếu hiểu biết ra, thăng
Thiên Hán.
Pháp Hoa Kinh luận vân:
Bạch Ngọc xỉ biên lưu Xá Lợi
(Tân Dịch).
白 玉 齒 邊 流 舍 利,
Hồng Liên thiệt thượng phóng
hào quang.
紅 蓮 舌 上 放 毫 光 .
Hầu trung Cam Lộ quyên quyên
nhuận,
喉 中 甘 露 涓 涓 潤,
Tâm nội đề hồ (nước bọt)
trích trích lương.
心 內 醍 醐 滴 滴 涼 .
Bên răng Bạch Ngọc, lưu tân
dịch,
Trên lưỡi, sen hồng phóng
hào quang,
Trong hầu, Cam Lộ từng giọt
nhỏ,
Tâm nội Đề Hồ trích trích
lương.
Đó là Phép Tiểu Ngọc Dịch
luyện hình.
Khổng khiếu trong người là
cốt để thông Hư Không, làm cho Khí thông sướng, chu lưu trong thân thể.
Nếu bị bế tắc, sẽ bị ứ đàm, bị úng huyết, làm cho kinh mạch trong người
chẳng lưu thông, sinh ra bệnh tật. Nếu dùng phép này, ngày bốn năm lần,
thì khí huyết sẽ lưu thông, bách mạch sẽ hoà sướng, và bệnh sẽ hết. Nó
cùng với: phép Thoái tàng cứu hoä, là hai mặt trong ngoài, không tương
phản lẫn nhau.
Hàm Dưỡng Bản Nguyên tuy là
khử Tình Thức, nhưng thật ra là trừ Sinh Diệt Tâm. Tâm mà không sinh
diệt, thì Thân cũng không sinh diệt, chắc là như vậy.
Muốn trừ Sinh Diệt Tâm, phải
bắt đầu bằng Vô Niệm. Khi đã tập được Vô Niệm cho thuần thục, tức sẽ
không còn Mộng.
Khi đã Tĩnh Định, đã Vô
Niệm, thì sẽ đạt tới Vô Sinh. Vô Mộng là đại sự bây giờ, Vô Niệm là đại
sự về sau. Vô Sinh sẽ Vô Tạo, Vô Mộng sẽ Bất Hoá. Bất Tạo, Bất Hoá, tức
Bất Sinh, Bất Diệt.
Người học Đạo, không sợ
không thành, mà sợ không chuyên cần. Nếu đã chuyên tinh, cần mẫn. Nếu
lập chí không kiên, tin đạo không vững, sáng làm, chiều đổi. Mới thì
chuyên cần mà cuối cùng lại chểnh mảng, mới đầu thì thích, nhưng lâu sau
lại chán nản. Thế mà muốn thọ cùng trời đất, thì chẳng khó hay sao?
Sách Nội Quan viết: Biết Đạo
thì dễ, tin Đạo thì khó. Tin Đạo dễ nhưng hành đạo khó.
Hành Đạo dễ, đắc Đạo khó.
Đắc Đạo dễ, trì thủ được Đạo khó. Nếu không khó, thì Thần Tiên đầy chợ.
Có gì là lạ đâu?
Bởi vì tu
Đạo, y như nông phu diệt cỏ. Phải diệt tận gốc, thì Thiên Chân chủng tử
trong ta tự nhiên phát sinh vậy. Huống chi một chữ Pháp Môn này, từ đầu
đến cuối, thật dễ làm, thật dễ nghiệm. Dùng nó sơ sơ, có thể tăng tuổi,
trừ bệnh, dùng nó đến nơi, đến chốn, sẽ Siêu Phàm, Nhập Thánh. Tuỳ ở chỗ
người tu sĩ dụng công nhiều ít mà thôi.
______________________________
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16
|