TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ
»
MỤC LỤC |
NGUYÊN |
HANH |
LỢI |
TRINH
HANH TẬP
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14
15 16
THAI TỨC QUYẾT
Viên Thiên Cương thai tức quyết
NGUYÊN KHÍ là căn
cơ Đại Đạo, là phụ mẫu của Thiên Địa. Một Âm, một Dương sinh dưỡng vạn
vật. Nơi con người là KHÍ HÔ HẤP. Trên trời là Khí Hàn Thử, Đó là Khí
thay đổi được bốn mùa. Muà Xuân ở quẻ Tốn (Đông Nam), có thể sinh vạn
vật; mùa Hạ ở quẻ Khôn (Tây Nam) có thề trưởng dưỡng vạn vật; mùa Thu
tại Kiền (Tây Bắc), làm cho vạn vật chín mùi, thành tựu; mùa Đông tại
Cấn (Đông Bắc) có thể hàm dưỡng vạn vật.
Cho nên học giả
cần nắm được Chính Khí bốn mùa, nạp vào thai trung, Đó là Chân Chủng.
Tích tụ Khí đó lâu ngày, thì Tâm sẽ định, Thần sẽ định, Tức sẽ định,
Long Hổ tương hội, kết thành Thánh Thai, gọi là Chân Nhân Thai Tức.
Thái Thủy thị Thai Tức quyết
Đạo là Thái Hư.
Thiên địa nhật nguyệt đều sinh từ Thái Hư. Cho nên Thiên Địa là Chân
Thai, Nhật Nguyệt là Chân Tức vậy.
Con người có thể
cùng Thái Hư đồng thể, thì Thiên Địa là Thai ta, Nhật Nguyệt là Hơi Thở
ta. Thái Hư bao la, thì ta cũng bao la. Như vậy con người có thể siêu
xuất Thiên Địa, Nhật Nguyệt, mà hòa hợp với Thái Hư, trở thành con người
có Hỗn Độn Nhất Khí vậy.
Đạt Ma Tổ Sư Thai Tức Kinh
Thai vì Phục Khí
(Tụ Khí) mà kết. Khí là do hơi thở cũa Thai. Khí nhập vào thân thì Sinh,
Thần mà ly Hình thì gọi là Tử. Biết nhờ Thần Khí nên mới trường sinh,
thì phải lấy Hư Vô mà dưỡng Thần Khí. Thần hành thì Khí hành, Thần trụ
thì Khí trụ. Muốn được trường sinh, Thần Khí phải quán trú, tâm bất động
niệm, vô lai, vô khứ, bất xuất, bất nhập, tự nhiên thường trụ, cứ siêng
năng thực hành, thì đó là Chân đạo lộ.
Trương Cảnh Hòa thai tức quyết
Chân Huyền, Chân
Tẫn, tự hô, tự hấp, như cá trong hồ xuân, như trăm loại trùng núp trong
đất (cá trong hồ, trùng trong đất phải nhờ ngoại khí mới sống), hạo khí
dung dung, Linh phong tập tập,
không đục không trong,
không phải mồm, không phải mũi,
không lại, không đi, phản bản, hoàn nguyên, ấy là Chân Thai Tức.
Vương Tử Kiều thai tức quyết
Người tu sĩ phải
hiểu 4 thời Tí, Ngọ, Mão, Dậu vì đó là cửa ra vào của Âm Dương.
Nhập định, ngừng tạp niệm đó
gọi là Thiền.
Nguyên Thần thông hòa, biến
hóa mọi sự, đó gọi là Linh.
Trí biết phán đoán vạn vật,
đó gọi là Tuệ.
Đạo và Khí hòa hài, tương
hợp, đó gọi là Tu.
Chân Khí qui nhập Đan Điền
đó gọi là Luyện.
Nguyên Thần, Nguyên Khí hòa
hài, đó gọi là Đơn thànb.
Liên lạc, dung thông được
Tam Đan Điền thì gọi là Liễu (Thành Công).
Cứ theo phép này mà tinh
tiến tu luyện dần dần, thì sẽ đạt Trường Sinh bất lão vậy.
Hứa Thê Nham thai tức quyết
Phàm người tu đạo
phải biết Nội Quan, để diệt Tam Thi
và khu trừ Lục Tặc.
Phải biết tụ khí
về Đan Điền, định Tâm ở Giác Hải. Tâm Định, Thần sẽ an, Thần an khí sẽ
trụ; khí trụ, Thai sẽ trưởng. Thai trưởng là do khí trụ. Không biết thở
không thành được Thai, không thai sẽ không thở. Biết thở sẽ trưởng dưỡng
được thai. Trụ tức trường thai là Thánh Mẫu, Thần Hài. Cho nên nói:
Thai tức định, nhi Kim Mộc
giao, Tâm ý ninh, nhi Long Hổ hội
(Thai tức định,
thì Kim, Mộc hợp,
Tâm Ý có ninh tĩnh, thì Thần, Khí mới hòa hài).
Vương Phương Bình thai tức quyết
Phàm muốn tu
hành, trước hết phải định Tâm Khí. Tâm Khí mà định thì Thần sẽ ngưng.
Thần ngưng Tâm sẽ an. Tâm an Khí sẽ thăng. Khí thăng sẽ quên cảnh. Quên
cảnh sẽ Thanh Tĩnh. Thanh Tĩnh sẽ Vô Vật. Vô Vật thời Mệnh toàn. Mệnh
toàn thời Đạo sẽ sinh. Đạo sinh Tướng sẽ tuyệt; Tướng tuyệt sẽ Giác
Minh. Giác Minh sẽ Thần thông.
Kinh viết: Tâm
thông, vạn pháp thông. Tâm tĩnh vạn pháp diệt (Tâm thông vạn pháp thông,
Tâm tĩnh vạn pháp diệt).
Xích Đỗ Tử thai tức quyết
Khí Huyệt,
người xưa còn gọi
là Sinh Môn, Tử Hộ, hoặc là Thiên Địa chi căn. Nếu ngưng Thần ở đó, lâu
ngày, Thần Khí sẽ sung vượng.Thần sung vượng, Khí sẽ thư sướng. Khí thư
sướng, Huyết Khí sẽ sung mãn. Khí huyết sung mãn, gân cốt sẽ mạnh mẽ.
Gân cốt mạnh mẽ, xương tủy sẽ thịnh mãn. Xương tủy thịnh mãn, ruột gan
sẽ no đầy. Ruột gan no đầy, hạ thể sẽ khinh kiện, đi đứng sẽ nhẹ nhàng.
Hoạt động không mệt, tứ chi sẽ khang kiện, mặt mũi sẽ trẻ đẹp, con người
sẽ sống gần thần tiên.
Tính Không Tử thai tức quyết
Bản thể của ta
vốn tự viên minh. Viên Minh là Chân Thai của trời đất trong thân ta.
Bản thể của ta
vốn không tịch. Không Tịch là Chân Tức của Nhật Nguyệt trong thân ta.Chỉ
có Trời Đất trong ta mới có Chân Thai (Kim Đơn) mà thôi. Vì Kim Đơn
trong trời đất và Kim Đơn trong ta có thể hỗn hợp mà thành Kim Đơn trong
ta. Nhân vì Nhật Nguyệt trong ta có Thai Tức, cho nên Thai Tức của Nhật
Nguyệt và Thai Tức trong ta có thể hỗn hợp mà thành Thai Tức trong ta.
Vì Bản Thể của ta vốn là Hư Vô, cho nên cái Hư Không của Thái Hư với cái
Hư Không của Bản thể ta có thể dung hợp để thành cái Hư không trong ta
vậy.
Ảo Chân tiên sinh Thai Tức quyết
36 lần nuốt.
Trước mỗi lần nuốt phải nhả. Nhả phải nhè nhẹ, Nạp phải miên miên. Nằm
ngồi cũng vậy, đi đứng cũng thế. Không được thâu hút tạp khí, kỵ hôi
tanh. Tạm gọi là Thai Tức, thực ra là Nội Đơn. Có thể trị bệnh, có thể
diên niên; lâu ngày tên sẽ nêu trên bảng Thượng Tiên.
Các khẩu quyết
trên về Thai Tức, chỉ là nói Đại Lược, tất cả đều ghi trong đan kinh
không thể kể hết.
Trập tàng công
phu (Đem Thần Khí phục ẩn, hàm tàng tại Đan Điền Khí Huyệt), cũng như
vạn vật tàng ẩn trong lòng đất. Thần nhập vào lòng đất, cũng như thiên
Khí giáng xuống đất. Thần Khí giao hợp, cũng như Địa Đạo thuận thừa
Thiên Đạo.
Tham Đồng Khế
nói: Hằng thuận địa lý; thừa Thiên bố tuyên (Luôn theo địa lý, hưởng
sương móc của Trời). Dịch Kinh viết: Chí tai Khôn Nguyên, Vạn vật tư
sinh.
Khôn Nguyên cao
trọng xiết bao,
Muôn loài đều
phải nương vào cầu sinh.
Vào tháng 10
thuần Khôn, thì vạn vật sẽ qui căn, Côn trùng sẽ chui vào hang ổ, thu
hình nép bóng, vạn vật sẽ bế tắc thành Đông. Mùa Đông tuy chủ Bế Tàng,
nhưng đến năm sau, thì công trình phát dục lại từ đó nảy sinh, thế chính
là vạn vật đã phôi thai lại từ đó.
Thực ra Nhất
Dương không phải sinh từ quẻ Phục mà sinh từ quẻ Khôn. Khôn tuy là Âm
nhưng trong Âm có Dương, và Đại Dược cũng sinh từ đấy. Lúc Đại Dược
sinh, cũng giống đàn bà khi mới hoài thai, phải bảo toàn Chân Chủng,
không được phóng dật. Đi đứng phải hẳn hoi, ẩm thực phải tiết dục, tránh
phiền não, giận hờn, ngoài không được làm lụng vất vả, trong không được
lao tâm khổ tứ. Đi đứng nằm ngồi nhất nhất phải có qui củ. Đi phải đi
trên đường bằng phẳng, đứng phải ngưng thần vào Thái Hư, ngồi phải thở
cho hẳn hoi, nằm phải chắt chiu viên ngọc nơi hạ đơn điền. Hành, Trú,
Tọa, Ngọa lúc nào cũng để ý đến nó.
Lời Bàn
của Dịch giả
I. BÀN VỀ
THAI TỨC
Chương này nói
nhiều về Thai Tức, nhưng không định nghĩa Thai Tức là gí?
Tôi tìm hiểu và
định nghĩa Thai Tức.
1. Thai Tức còn
được gọi là «Tề Hô Hấp», «Đan điền hô hấp», nghĩa là không không dùng
mũi mồm để thở, nhưng lại hô hấp tựa như bằng rốn, như kiểu thai nhi. Vì
thế gọi là Thai Tức. Bão Phác Tử nói: «Được Thai Tức là không hô hấp
bằng mũi mồm, mà như là Bào Thai.» (Đắc Thai Tức giả, năng bất dĩ khẩu
tị hư hấp, như tại bào thai chi trung.)
«Hô Hấp Chân Khí,
không dùng cách Hô Hấp bằng mũi mồm. Mũi mồm chỉ là môn hộ để hô hấp;
Còn Đan Điền mới là bản Nguyên của Khí, là nơi thánh nhân hạ thủ, để thu
tàng Chân Nhất.» Đó là cách thở bằng bụng rất khó.
Thai Tức Kinh gọi
thai tức cũng là phép luyện Nội Đơn (Giả danh Thai Tức, thật viết Nội
Đan).
1. Thai tức lấy Điều Tức làm chủ, khiến sao cho Hô
Hấp Thổ Nạp miên miên, không dùng Khẩu Tị, thủ Thần bên trong, như Anh
Nhi tại mẫu phúc trung, cho nên gọi là Thai Tức.
2. Người tu đạo thường phục khí ở dưới rốn, giữ
Thần ở trong thân, Thần Khí Tương Hợp mới sinh Huyền Thai, [...] thế là
nội đơn bất tử chi đạo vậy.
3. Thai tức chi Pháp là Thần Khí Tương Hội.
4. Người xưa còn cho rằng Thai Tức là Điều Khí,
yết tân.
Ngoài những khẩu
quyết về Thai Tức trên, sách Trung Quốc Khí Công Đại thành còn có một
chương ghi lại nhiều khẩu quyết khác về Thai Tức.
II. BÀN VỀ TAM ĐAN ĐIỀN
Tính Mệnh Khuê
Chỉ thường xuyên nói về Thượng, Trung, Hạ Đan điền nhưng vị trí của
chúng hết sức là mơ hồ. Sách thường xuyên bàn về Hạ Đan Điền, nhất là
khi bàn về Thai Tức, và cho rằng Thai Tức là tụ Thần Khí vào Hạ Đan
Điền.
Tôi xin dùng tài
Liệu rút từ Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển và Trung Quốc Khí
Công Đại Thành để trình bày về Tam Đan Điền.
1. Trước hết, Trung Quốc Khí Công Đại Thành, tr.
190, xác định như sau:
Tam Đan Điền là
nơi cư ngụ của Tinh Khí Thần.
Hạ Đan Điền
hay Quan Nguyên là nơi cư ngụ của Tinh. Trung Đan Điền hay Giáng Cung là
nơi cư ngụ của Khí. Thượng Đan Điền hay Nê Hoàn là nơi cư ngụ của Thần.
Sách lại nói Khí
Hải có hai: một là Khí Hải ở dưới rốn, Hai là Khí Hải, theo sách Tố Vấn,
thì lại là huyệt Đán Trung, ở giữa hai vú.
Sách cho rằng nói
Khí Hải ở dưới rốn mà lại là nơi cư ngụ của Khí thì là sai, nó phải là
nơi cư ngụ của Tinh, mà Khí Hải thật sự phải ở Trung Đan Điền, và nơi cư
ngụ của Thần thì phải là Thượng Đan Điền. Đó là ý kiến của Lý Dã
(1192-1279), tự Nhân Khanh, hiệu Kính Trai, đời Nhà Nguyên.
2. Bây giờ bàn về Tam Đan Điền theo Trung Hoa Đạo
Giáo Đại Từ Điển.
THƯỢNG ĐAN ĐIỀN
Có nhiều tên: Tổ
Khiếu, Nê Hoàn Cung, Kiền Cung, Kiền Gia, Côn Lôn Sơn, Thanh Hư Phủ,
Thượng Thiên Quan, Giao Cảm Cung, Tam Ma Địa, Tối Cao Phong, Không Động
Sơn, Huyền Thất, Huỳnh Phòng, Thiên Cung, Chân Tế, Thiên Căn, Huyền Môn,
Bỉ Ngạn, Dao Trì, Thiên Cốc, Nội Viện, Tử Phủ, Liêu Thiên, Đế Ất, Tắng
Sơn, Thiên Phù, Huyền Đô, Chúc Dung Phong, Thái Vi cung, Ma Ni Châu, Tủy
Hải, Tử Kim Thành, Lưu Châu Cung, Ngọc Kinh Sơn, Tử Tĩnh Cung, Thái Hản
Trì, v.v.
Thượng Đan Điền ở
trên đầu, là nơi các Dương Mạch chầu về, nó có địa vị cao hơn cả trong
Tam Đan Điền, vì thế gọi là Thượng Đan Điền. Nó là nơi Tàng Thần. Ngộ
Chân Thiên viết:
Vạn quyển tiên kinh ngữ tổng
đồng,
Kim Đơn chỉ tại thử căn
tông.
Y tha Khôn vị sinh thành
thể,
Chủng hướng Kiền Gia Giao
Cảm cung.
Vạn quyển tiên kinh nói giống nhau,
Kim Đơn căn để vốn nơi đây.
Lấy Khôn chính vị Sinh Thành Thể,
Đem về giao kết với Kiền Gia.
Về vị trí của
Thượng Đan Điền, Bão Phác Tử viết: Hoặc tại nhân lưỡng mi gian, khước
hành nhất thốn vi Minh Đường, nhị thốn vi Động Phòng, tam thốn vi Thượng
Đan Điền (Từ giữa 2 làn mi, đi vào 1 thốn là Minh Đường, 2 thốn là Động
Phòng, ba thốn là Thượng Đan Điền).
TRUNG ĐAN
ĐIỀN
Còn được gọi là
Huỳnh Đình, Qui Trung, Huyền Quan, Đơn Quýnh, Chân Thổ, Mậu Kỷ Môn, Tây
Nam Hương, Tổ Khí Huyệt, Nguyên Cung, v.v.
Vị trí:
1. Ở giữa hai Vú,
nơi huyệt Đán Trung, gọi là Giáng Cung. Tiên Kinh viết: Giáng Cung vi
trung đan điền, tàng Khí chi chủ dã.
3. Giữa Tim và Rốn. Tính Mệnh Khuê Chỉ, Phổ Chiếu
đồ nói Trung Đan Điền ở dưới Tâm Nguyên, Tính Hải khiếu, và ở trên Quan
Nguyên, Khí Hải, Thổ Phủ khiếu huyệt.
Trung Đơn Điền là
nơi Luyện Khí hoá Thần, kết Thai, Luyện Thai, Dưỡng Thai. Trương Bá Đoan
viết:
Thử Khiếu phi phàm khiếu,
Kiền Khôn cộng hiệp thành.
Danh vi Thần Khí huyệt,
Nội hữu Khảm Ly tinh.
HẠ ĐAN ĐIỀN
Còn gọi là
CHÍNH ĐAN ĐIỀN,
Nguyên Quan, Khí Hải, Khí huyệt, Kim Lô, Tính Mệnh Chi Tổ, Sinh Khí chi
nguyên, Âm Dương chi hội, Hô Hấp chi môn, Ngũ tạng Lục Phủ chi bản, v.v.
Hạ đan điền là
Bách Mạch chi khu nữu, Tính Mệnh chi căn nguyên, đó cũng là chỗ kết Đan.
Thường nói dưới rốn là Hạ đan điền.
Vị trí không đồng
nhất.
Bão Phác Tử nói:
Hai Tấc dưới rốn là Hạ Đan Điền. Tiên Kinh nhận rằng: Ba tấc dưới Rốn là
Hạ Đơn Điền mà Hạ Đan Điền là Tàng Tinh Chi Phủ.
Sách Kim Đan Đại
Yếu Đỉnh Lô diệu dụng nói: Hạ đan điền tại tề chi trung, tề hậu thận
tiền, hữu đạo chi sĩ, chỉ yêu nhận thủ Hạ Đan Điền Hư Cực chi chuẩn (Hạ
đan điền ở ngang rốn, sau Rốn, trứơc thận. Người tu đạo chỉ cần nhận Hạ
Đan Điền là nơi Hư Cực).
Tưởng Duy
Kiều gọi Hạ Đan Điền là Trùng Tâm. Nhu gia Thủ Tĩnh, Lão gia Bão Nhất,
Phật gia Thiền Quan, đều tìm TRÙNG TÂM để mà an định. Vị trí là sau rốn,
trước thận ở một điểm khoảng 3/7.
______________________________________
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14
15 16
|