ĐẠO ĐỨC
KINH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
khảo luận & bình dịch
»
mục lục
»
khảo luận
Thượng Kinh
ĐẠO KINH
上 經
●
道 經
CHƯƠNG I
THỂ ĐẠO
體 道
Hán văn:
道 可 道 非 常 道.
名 可 名 非 常 名.
無 名 天 地 之 始;
有 名 萬 物 之 母.
故 常 無 欲 以 觀 其 妙;
常 有 欲,
以 觀 其 徼.
此 兩 者 同 出 而 異 名.
同 謂 之 玄.
玄 之 又 玄.
眾 妙 之 門.
Phiên âm:
1. Đạo
khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
2. Vô
danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.
3. Cố
thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
4.
Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu
huyền. Chúng diệu chi môn.
Dịch
xuôi:
1. Đạo
(mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể
gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).
2. Không
tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.
3. Cho
nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có
dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng)
của mình.
4. Hai
cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm.
(Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền
diệu.
Dịch thơ:
1. Hóa
công hồ dễ đặt tên,
Khuôn
thiêng hồ dễ mà đem luận bàn.
2.
Không tên sáng tạo thế gian,
Có
tên, là mẹ muôn vàn thụ sinh.
3.
Tịch nhiên cho thấy uy linh,
Hiển
dương cho thấy công trình vân vi.
4. Hai
phương diện một Hóa Nhi,
Huyền
linh khôn xuất huyền vi khôn lường.
Ấy là
chúng diệu chi môn,
Cửa
thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi.
BÌNH GIẢNG
Chương 1
này rất quan trọng vì bàn về Đạo thể của vũ trụ. Ta có thể nương theo ý
Lão tử mà bình giải như sau:
Đạo là
gì?
1. Đạo
chính là Tuyệt đối, là Bản thể thường hằng cửu vũ trụ. Vì Tuyệt đối, nên
Đạo khó bàn cãi, khó xưng danh.
2. Đạo
chính là nguồn gốc sinh xuất vũ trụ quần sinh.
3. Đạo có
thể ở vào một trong hai trạng thái: tĩnh và động. Tĩnh là trạng thái
chưa hiển dương. Động là trạng thái đã hiển dương. Chưa hiển dương thời
minh linh, ảo diệu, không biết đâu là bến bờ. Đã hiển dương, thời mới
thấy công trình vân vi, giới hạn.
4. Nhưng
hiển dương hay không hiển dương, vẫn chỉ là một đạo thể siêu vi. Danh
hiệu tuy khác nhau nhưng tựu trung vẫn là một thực thể. Đạo thể siêu vi
ấy là cửa thiêng sinh xuất ra mọi điều huyền vi ảo diệu.
5. Quan
niệm của các nhà bình giải về chữ Đạo: Các nhà bình giải và các dịch giả
Âu châu thường hiểu Đạo là Nguyên lý vũ trụ. Wieger dịch Đạo là Principe
(Nguyên lý). A. Rémusat dịch Đạo là Logos (Thần ngôn). Stanislas Julien
dịch Đạo là La Voie (Đường). P. B. Blakney dịch Đạo là The Way (Đường).
Các dịch giả người Đức dịch Đạo là Weg (Đường), Vernunft (Lý), Wort
(Logos, Thần ngôn), Wahrheit (Chân lý). A. W. Watts dịch Đạo là Réalité
ultime (Thực thể tối hậu). Trong bản dịch Đạo Đức Kinh đầu tiên ra tiếng
Latinh chữ Đạo đã được dịch là: Lý; Nguyên lý; Tạo hóa.
A. Rémusat, giáo sư Hoa ngữ ở Đại học Paris, dịch giả Đạo đức kinh, cho
rằng chỉ có thể dịch chữ Đạo bằng chữ Logos với nghĩa là Nguyên thể,
Nguyên lý, Nguyên âm.
Hardwick, giáo sư đại học Cambridge, cho rằng chữ Đạo phải được hiểu là
Nguyên nhân trừu tượng, là Nguyên lý, Nguyên sinh vô hình, vô tượng, vô
thủy vô chung, vô biên tế, v.v.
Các nhà
bình giải Đạo đức kinh, Hoa hay Việt cũng đều giải Đạo là Nguyên lý tối
cao, là nguồn gốc sinh ra trời đất vạn vật, là Thái cực, v.v.
Để giải
thích chữ Đạo cho rõ hơn, tôi mượn lời lẽ của Hoài Nam tử
淮 南 子
trong
thiên Nguyên đạo huấn
原 道 訓
(xem Hoài
Nam tử, chương I), và trình bày như sau:
«Hóa
công chở đất che trời,
Mênh
mông bốn hướng, chơi vơi tám từng.
Cao
cao vô tận vô ngần,
Thẳm
sâu, sâu mấy muôn tầm đo sao.
Trùm
trời mà đất cũng bao,
Vô
hình, vô tượng, nhẽ nào hình dung.
Nguồn
tung, suối tỏa tưng bừng,
Ngỡ là
sắp cạn, bỗng dưng đầy tràn.
Ào ào,
cuồn cuộn, vang vang,
Ngỡ là
vẩn đục, vẫn hoàn trong veo.
Giồng
lên, đất ngợp trời teo,
Tung
ra, bốn biển có chiều mung lung.
Ra tay
linh diệu khôn cùng,
Quang
âm khôn cản, dặm chừng vân du.
Khi
tung trời đất không vừa,
Khi
thu, nhỏ xíu lọt vừa nắm tay.
Tuy co
mà dãn như mây,
Tuy mờ
mà sáng như ngày nắng chang.
Tơ non
mà rất cương cường,
Mềm
nhung, mà rắn in tuồng thép gang.
Gồm tứ
đức, vai mang tuế nguyệt,
Ngất
trời mây soi hết trăng sao.
Mịn
màng, thắm thiết biết bao,
Tế vi,
tươm tất tả sao cho cùng.
Núi
nhờ thế, mà tung cao vút,
Vực
dựa uy, sâu ngút ngàn trùng.
Ngài
cho thú chạy trong rừng,
Cho
chim tung cánh chín từng mây xanh.
Ngài
tô ánh quang minh nhật nguyệt,
Ngài
rong cương ruổi hết tinh vi.
Kỳ lân
đùa rỡn cũng vì,
Phượng
loan bay bổng quyền uy không ngoài.
Đời
thái cổ, có hai hoàng đế,
Nhờ ơn
ngài chỉ vẽ trước sau,
Mới
nên nhân đức nhiệm mầu;
Thần
thông hóa dục, dẫn đầu muôn phương.
Quyền
uy ngài khôn lường, khôn tả,
Rung
cả trời, lắng cả đất đai,
Quay
cho trời đất vẫn xoay,
Xô cho
nước chảy đêm ngày chẳng thôi.
Thủy
chung để sánh vai muôn vật,
Thổi
gió giông, ủ ấp làn mây,
Việc
gì cũng có dúng tay,
Ầm ầm
sấm động, mưa bay tỏ quyền...»
Sau khi
đã hiểu Đạo là Nguyên lý tối của của vạn hữu, sau khi đã nhận định rằng
Đạo vô hình danh và bất khả tư nghị, tôi sẽ dùng những từ ngữ «hữu hình
danh» như: Hóa Công, Hóa Nhi, Tạo hóa, Khuôn xanh, Khuôn thiêng,
v.v. để dịch chữ Đạo.
Sở dĩ tôi
dám làm như vậy là vì:
1. Đạo
không có tên, cho nên dùng danh từ nào cũng bất xứng như nhau, kể từ
ngay cả chữ Đạo.
Chính Lão
tử cũng chủ trương như vậy. Ngài viết: «Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết
đạo.»
吾 不 知 其 名,
字 之 曰 道
(Ta không
biết tên ngài, ta gọi bằng Đạo.)
2. Trang
tử nhiều khi cũng đã nhân cách hóa Đạo và gọi bằng Tạo Hóa, Tạo vật giả,
v.v. (Xem Nam Hoa kinh, chương 6, F).
Câu
«Thường vô dục dĩ quan kỳ diệu, thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.»
常 無 欲 以 觀 其 妙,
常 有 欲 以 觀 其 徼
nơi đoạn
3 chương này xưa nay thường được dịch và giải như sau:
«Không có
dục tình mới thất được bản thể vi diệu của Đạo, có dục tình thời chỉ
thấy được những hình tướng, vạn thù, sai biệt bên ngoài của Đạo mà
thôi.»
Ý rằng
muốn hiểu Đạo, thời cần phải sống phối kết với Đạo, vì thế nên Hà Thượng
Công
河 上 公
mới gọi
chương này là «Thể Đạo»
體 道.
Các nhà Đạo học cũng còn cho rằng hai câu này chính là chìa khóa để đi
vào công phu tu luyện, đắc đạo, thành tiên. Hà Thượng Công
河 上 公,
Huỳnh Nguyên Cát
黃 元 吉,
Wieger, Legge, Stanislas, Julien, v.v. đều hiểu nhất loạt như vậy.
«Rằng hay
thì thật là hay», nhưng riêng tôi thấy rằng nếu dịch như vậy, chương
nhất này sẽ mất mạch lạc. Đoạn 3 này sẽ không ăn ý với đoạn 4. Wieger đã
nhìn thấy sự mất mạch lạc ấy nên ông đã đánh số đoạn 3 thành đoạn 4, và
lúc dịch đã đem đoạn 3 này xuống cuối chương.
Chẳng lẽ
Lão tử viết sách mà không lưu ý đến mạch lạc của chương cú hay sao.
Chính vì vậy mà khi dịch tôi vẫn áp dụng hai câu này cho Đạo, thay vì
cho người, và cho rằng hai câu này mô tả hai phương diện ẩn hiện của
Đạo.
Tịch
nhiên cho thấy uy linh,
Hiển
dương cho thấy công trình vân vi.
Dịch như
vậy ta thấy hai câu sau cùng mới có ý nghĩa:
«Hai
phương diện một Hóa Nhi,
Huyền
linh khôn xiết, huyền vi khôn lường,
Ấy là
chúng diệu chi môn,
Cửa
thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi.»
Lối dịch
và hiểu của tôi làm cho chương này trở nên nhất trí, vì trên dưới chỉ
luận về Đạo, về Đạo thể. Và nếu có thể đặt tên cho chương này, tôi sẽ
đặt là Đạo thể thay vì hai chữ Thể đạo của Hà Thượng Công.
Nhận xét
rằng Lão tử sau này còn dùng nhiều chương để bàn luận về Đạo (xem các
chương 4, 14, 6, 25, 34, 42, 52) thì không có lẽ nơi chương I, ngài lại
nói được có một hai câu về Đạo, rồi vội vàng quay ra dạy công phu tu
luyện, biết Đạo, hiểu Đạo. Chính vì vậy mà tôi mới có lối bình và dịch
như trên. Sai hay phải sau này tùy công luận phê phán.
|