ĐẠO ĐỨC KINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

khảo luận & bình dịch

» mục lục » khảo luận

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

45

46

47

48

49

50

51

52

53

54

55

56

57

58

59

60

61

62

63

64

65

66

67

68

69

70

71

72

73

74

75

76

77

78

79

80

81

CHƯƠNG 34

NHIỆM THÀNH

任 成

Hán văn:

大 道 氾 兮, 其 可 左 右. 萬 物 恃 之 而 生 而 不 死. 功 成 不 名 有. 愛 養 萬 物 而 不 為 主. 常 無 欲 可 名 於 小, 萬 物 歸 之 而 不 為 主, 可 名 於 大. 是 以 聖 人 終 不 為 大, 故 能 成 其 大.

Phiên âm:

1. Đại Đạo phiếm[1] hề, kỳ khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi [2] bất tử. Công thành bất danh hữu.[3] Ái dưỡng [4] vạn vật nhi bất vi chủ. Thường vô dục khả danh ư tiểu, vạn vật qui chi nhi bất vi chủ, khả danh ư đại.[5]

2. Thị dĩ thánh nhân chung bất vi đại,[6] cố năng thành kỳ đại.

Dịch xuôi:

1. Đại Đạo tràn lan bên phải, bên trái. Vạn vật nhờ Nó mà sinh, mà nó không nói gì. [7] Nên việc rồi, không xưng là có. Thương yêu nuôi dưỡng muôn loài mà không làm chủ. Thường không ham muốn. Có thể gọi tên là nhỏ; Muôn vật theo về mà không làm chủ, nên có thể gọi tên là lớn.

2. Thánh nhân suốt đời không cho mình là lớn, cho nên thành được việc lớn của mình.

Dịch thơ:

1. Đạo cao cả lan tràn tả hữu,

Cho muôn loài bám víu sống còn.

Dưỡng sinh vạn vật trần gian,

Lặng thinh chẳng có khoe khoang nửa lời.

Chẳng tranh chấp công, công chú,

Muôn công trình vẫn cứ nín thinh.

Dưỡng nuôi ưu ái quần sinh,

Chẳng phân chủ tớ, chẳng dành quyền uy.

Không ham muốn, có bề yếu thế,

Nhưng thật tình quá lẽ lớn lao.

Quần sinh muôn kiếp gồm thâu,

Mà không có giọng vương hầu, chúa tôi.

Đấng thánh nhân suốt đời khiêm tốn,

Chẳng bao giờ khoe lớn, khoe công.

Vì không cậy thế cậy thần,

Cho nên lập được đại công với đời.

BÌNH GIẢNG

Chương này Lão tử khuyên bậc thánh nhân bắt chước Trời, bắt chước Đạo mà hành sự.

Vì thế chương này chia làm hai phần:

- Phần trên nói về thái độ, về hành vi của Đạo

- Phần dưới nói về thái độ, về hành vi của thánh nhân.

Đạo thời vô kỷ, vô ngôn, vô công, vô danh. Cho nên thánh nhân cũng nên vô kỷ, vô ngôn, vô công, vô danh.

Trang Tử, trong Nam Hoa kinh cũng có một đoạn tương tự như đoạn này:

Tìm Trời phải quên đời, quên cảnh,

Quên phù sinh, ảo ảnh bên ngoài.

Tâm hồn khi hết pha phôi,

Mới mong rực rỡ ảnh trời hiện ra.

Đã thấy Đạo đâu là kim cổ,

Hết cổ kim vào chỗ trường sinh.

Ham sinh thời lại điêu linh,

Phù sinh chẳng chuộng, thần minh ấy là.

Hãy cố gắng vượt qua nhân nghĩa,

Hãy quên đi nghi lễ của đời.

Quên mình, quên cả hình hài,

Thông minh, trí tuệ gác ngoài tâm linh.

Hãy hợp với vô hình vô tượng,

Cùng Đại Thông vô lượng sánh đôi.

Thế là được Đạo, được Trời,

Thoát vòng biến hóa muôn đời trường sinh.

Ai chỉ vẽ sự tình sau trước,

Ấy thầy ta đại lược cho ta.

Thầy ta, muôn vật điều hòa,

Mà nào kể nghĩa, với là kể ơn.

Ban phúc trạch cho muôn thế hệ,

Mà chưa hề lấy thế làm nhân.

Trường tồn đã mấy muôn năm,

Mà chưa hề thấy có phần già nua.

Thày ta chở cùng che trời đất,

Lại ra tay điêu khắc muôn loài.

Thế mà một mực thảnh thơi,

Chưa hề có bảo là tài, là hay. [8] 


[1] Có bản viết là .

[2] Có bản viết là .

[3] Bản Phó Dịch chép: Công thành nhi bất cư 功 成 而 不 居. Bản Hà Thượng Công chép: Công thành nhi bất danh hữu 功 成 而 不 名 有. Bản Trần Trụ chép: Công thành nhi bất hữu 功 成 而 不 有.

[4] Có nhiều bản chép là: Y Dưỡng 衣 養 hay Y bị 衣 被.

[5] Có bản chép: Khả danh vi đại 可 名 為 大.

[6] Có nhiều bản chép: Chung bất tự vi đại 終 不 自 為 大.

[7] Trương Mặc hiểu chữ từ là «lời nói». Các bản khác thường hiểu là «từ chối».

[8] Xem Nam Hoa kinh, Đại Tông Sư, các đoạn G, H, I, K.

Trang tử cũng viết trong thiên Tiêu diêu du:

Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh 至 人 無 己, 神 人 無 功, 聖 人 無 名 (Xem Nam Hoa kinh, Tiêu diêu du, đoạn C)