TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
Chương 5
TINH HOA KHỔNG GIÁO TRONG TỨ
THƯ, NGŨ KINH
Muốn hiểu ý nghĩa một đoạn sách, cần biết
chủ trương cả cuốn sách. Muốn hiểu ý nghĩa một cuốn sách, cần biết chủ
trương toàn bộ sách.
Vậy muốn hiểu Trung Dung, tất nhiên ta
phải duyệt qua những quan niệm then chốt, cốt cán trong Tứ Thư, Ngũ
Kinh.
Nếu tạm gác những vấn đề thiên lý - chính
trị thông thường sang một bên, ta có thể toát lược những tư tưởng nòng
cốt trong Tứ Thư, Ngũ Kinh như sau:
1. Trời là chủ tể vũ
trụ vạn vật.
Tứ Thư, Ngũ Kinh nhất là Thi, Thư luôn đề
cập tới Trời, tới Thượng Đế.
2. Trời là thực thể cho
muôn loài, muôn vật dựa nương làm chủ chốt mọi biến hóa và là căn nguyên
mọi hiện tượng.
Niềm tin tưởng này được cụ thể hóa bằng
vòng Dịch tiên thiên, trong đó tâm điểm là thái cực, tượng trưng cho
Trời bất biến, trường tồn, các hào quái bên ngoài tượng trưng cho muôn
hiện tượng luân lưu biến hóa. Đó là quan niệm «thiên địa vạn vật nhất
thể» của Nho giáo.
3. Trời người quan hệ
hết sức mật thiết với nhau:
Các thánh hiền nho giáo đều chủ trương
thuyết «thiên nhân hợp nhất», «thiên nhân tương dữ».
Trung Dung
viết:
«Biết người trước phải biết Trời
Hiểu Trời chẳng nổi hiểu người làm
sao.»
Kinh Khi cũng viết:
«Trời xanh dẫn dắt chúng dân,
Như là tấu khúc nhạc huân nhạc trì.
Trời người đôi ngọc chương khuê,
Bên cho bên lấy đề huề biết bao.
Tay cầm, tay dắt, khéo sao,
Trời xanh dẫn dắt dân nào khó chi.»
Thực ra quan niệm này là một di sản tinh
thần lưu truyền từ thượng cổ mà cả Nho lẫn Lão đều thừa hưởng được.
4. Trời luôn ẩn áo, ngự
trị trong lòng người.[7]
Thiên mệnh, thiên lý, thiên đạo «một giây
một phút chẳng rời khỏi ta”.
Thiên mệnh, thiên lý chính là tính (bản
tính), cách (cốt cách) con người.
Như vậy tâm
hồn con người tuy một mà hai:
Trong nhân tâm ngửa nghiêng, còn có đạo
tâm siêu vi, ẩn áo.
Dưới lớp nhân tính còn có thiên lý làm
khuôn phép.
Phần thiên
lý, thiên tính, phổ quát chí thành, chí thiện ấy, Tứ Thư, Ngũ Kinh gọi
là:
-
Dịch
易
-
Thần
神
-
Thái cực
太
極
-
Thiên địa chi tâm
天
地
之
心
-
Đạo tâm
道
心
-
Hoàng cực
黃
極
-
Trung
中
( 衷
)
-
Di
彝
-
Tắc
則
-
Tính
性
-
Cách
格
5. Mọi người phải học
hỏi để tìm cho ra bản tính chí thiện, cho ra cốt cách, căn nguyên ấy
Tìm ra được là trí tri, là đi tới cùng tột
của hiểu biết.
6. Muốn tìm đạo Trời,
phải tìm trong đáy lòng.
Vì bản tính
con người, vì thiên lý, thiên đạo tiềm ẩn đáy lòng, nên muốn tìm ra bản
tính, muốn tìm ra thiên lý, thiên đạo cần phải «quay về ta mà tìm mà
kiếm», Cần phải hồi tâm, tĩnh trí, tránh phóng đãng,
tập trung tư tưởng, mài miệt suy tư mới thành công được.
Chu Hi viết:
«Những học giả muốn tìm đạo ấy
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai.
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung.»
Mạnh Tử
cũng viết:
«Cả vạn vật ở trong ta đó,
Quay về ta, ta cố tinh thành
Kiện toàn hoàn thiện tinh anh,
Vui nào hơn được vui mình đang vui.»
7. Phải biết «kính
cẩn», «khử nhân dục», «tồn thiên lý», hoàn thiện mình để kết hợp với
Trời.
Khi đã tìm thấy Trời ẩn áo ngự trị trong
lòng mình, con người phải kình cẩn
cố gắng hoàn thiện mình,
noi gương Trời,
rũ bỏ mọi tình ý riêng tây (vô ý),
thoát khỏi cái mình nhỏ nhoi, ti tiện (vô ngã)
để sống kết hợp với Trời,
Đó là phối thiên;
đó là cực điểm tiến hóa của con người,
đó là đạt thế trung hòa,
đạt tới trung tâm huyền diệu của vũ trụ và của lòng người.
8. Trong công cuộc tu
thân cần phải luôn gắng gỏi công trình, luôn luôn học hỏi suy tư.
Học cho biết mình biết người, biết định
luật vũ trụ biết Trời thế để xuất xử, hành tàng cho hợp thời, hợp cảnh.
Đó là thời trung.
Có học hỏi,
có cố gắng mới phát huy được sự cao đại, huy hoàng, thiên mỹ tiềm ẩn nơi
mình, mới có thể đạt thiên đức, thiên đạo, mới có thể tung mình qua
không gian, thời gian phù phiếm, biến thiên, trở về trung cung, hằng cửu
bất dịch.
Tất cả học thuyết Khổng Tử là cốt dạy cho
ta tìm ra chân, thiện, mỹ, cao minh tinh vi, hằng cữu bất biến, đạt tới
trung đạo, thiên đạo, thiên đức, chưa đạt mức chí thành, chí thiện,
người quân tử chẳng thể nào dựng chân đứng lại...
9. Tuy nhiên như đạo
Trời có âm, có dương, đạo người cũng có hai chiều tinh thần, vật chất.
Người quân
tử phải thu xếp thì giờ lo sao cho trong ngoài trọn vẹn hai bề.
Nửa đời đầu, cố học hỏi để phát triển khả
năng, tiến vào đới để mưu sinh, cải tạo hoàn cảnh, tô điểm gian sơn.
Nửa đời sau, khi mọi chuyện đời đã giải
quyết êm thấm, sẽ quay về «đạo» , tu luyện bản thân, treo gương cho đời,
cầu mong sau cho nên chí thành cí thiện, để kết hợp với Trời.
Đó là ý
nghĩa đầu đuôi của cuộc đời theo Ngũ Kinh.
10. Đạt tới mức chí
thành, chí thiện, sẽ được mệnh danh là thiên tử, là hoàng, là đế.[41]
Đó là huy hiệu cố nhân tặng dữ cho các
thánh vương như Phục Hi, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Văn, Võ.
Những tư tưởng cao đẹp nói trên theo đà
thời gian, đã bị trần ai thể hệ che lấp mất.
Tước vị
thiên tử đem áp dụng quàng xiên. Chữ Hoàng, chữ Đế không còn dùng để chỉ
những người có đức độ sánh đất Trời theo nguyên nghĩa nữa, mà dùng để
tăng bốc, suy tôn bất kỳ vua chúa nào.
Mọi sự, từ
tượng hình đến học thuyết, đến danh tự đều bị moi móc mất tinh hoa, mất
nhân, mất tâm, chỉ còn lại cái võ vô vị bên ngoài, quay cuồn héo hon
trong gió lốc thời gian.
Chữ tính, chữ mệnh như những hoàng tữ bị
lưu đày đọa lạc, có vẻ mặt man mọi, bi thương.
Những chữ
«thiên nhân tương dữ», «phối thiên», «phối mệnh» nằm ngơ ngác trên những
trang sách như tàn tích một lâu đài cổ, dầu dãi gió sương chẳng còn ai
ngó ngàng tới nữa.
Cho nên, khảo cứu một học thuyết, cũng như
khảo cổ tìm di tích, cần tốn công phu, một đàng đào bới đất cát để tìm
di tích cũ, một đàng đào bới tư tưởng để tìm cho ra vi ý tiến thân.
Cả đôi bên cần phải biết lọc lõi, biết tẩy
trừ những hoen ố thời gian, nhân sinh, nhân thế mới có thể tìm ra được
những gì quý báu của tiền nhân được.
CHÚ THÍCH
Thiên chi
dũ dân
天
之
牖
民
Như huân như trì 如
壎
如
箎
Như chương như khuê 如
璋
如
圭
Như thủ như huề 如
取
如
攜
Huề vô viết ích, 攜
無
曰
益
Dũ dân khổng dịch 牖
民
孔
易
(Thi bản)
Nhân tâm
duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung.
人
心
惟
危
道
心
惟
微,
惟
精
惟
一
允
執
厥
中
(Thư, Đại Vũ Mô, 15)
Dịch
Hệ từ thượng: Thiên địa thiết vị nhi dịch hành hồ kỳ trung hĩ.
天
地
設
位
而
行
乎
其
中
矣.
Dịch hệ từ hạ: Càn khôn thành liệt
nhi dịch lập hồ kỳ trung hĩ.
乾
坤
成
列
而
易
立
乎
其
中
矣.
Thị cố
dịch hữu Thái cực.
是
故
易
有
太
極
(Hệ từ thượng)
Ngu thư.
Trung tức chí lý, hà thường bất kiêm chí
nghĩa. Đại học văn ngôn giai ngôn tri chí. Sở vị chí giả tức thứ lý dã.
Ngữ độc Dịch giả viết năng tri thái cực tức thị tri chí. Ngữ độc Hồng
Phạm giả viết năng tri hoàng cực tức tri chí; phù khởi bất khả, cái đồng
chỉ thử lý tắc viết cực, viết trung, viết chí, kỳ thật nhất giả.
中
即
至
理,
何
常
不
兼
至
義.
大
學
文
言
皆
言
知
至.
所
謂
至
者
即
此
理
也.
語
讀
易
者
曰
能
知
太
極
即
是
知
至.
語
讀
洪
範
者
曰
能
知
黃
極
即
知
至;
夫
豈
不
可,
蓋
同
指
此
理
則
曰
極
曰
中
曰
至,
其
實
一
也.
Phụ Chu Lục, Thái cực đồ thuyết biện. (Tống Nguyên học án, quyển 12,
tr.6)
Quân tử
hoàng trung thông lý. (Dịch khôn quái)
Mạnh Tử,
Tận tâm chương cú thượng, 1-2, tr. 216.
Duy thiên
vi đại, duy nghiêu tắc chi.
惟
天
為
大,
惟
堯
則
之.
(Luận Ngữ, Thái Bá đệ bát 19)
- Lễ Ký, quyển I, Trọng Ni yến cư
仲
尼
宴
居,
tr.10.
- Thiên hành kiện,
quân
tử dĩ tự cường bất tức.
天 行 健 君 子 以 自 強
不 息
(Dịch, Càn quái)
Cố viết
phối thiên.
故
曰
配
天
(Trung Dung)
Hội kỳ
hữu cực, qui kỳ hữu cực.
會
其
有
極
歸
其
有
極
(Hồng Phạm 13) - Duy hoàng tác cực.
惟
皇
作
極
(Hồng phạm 10)
- Trí quảng đại nhi tận tinh
vi; cực cao minh nhi đạo trung dung.
致 廣 大 而 盡 精 微 極
高 明 而 道 中 庸 (Trung
Dung, ch. 27)
- Chỉ ư
chí thiện
止
於
至
善
(Đại Học)
- Thung dung trung đạo: Thánh nhân dã.
從
容
中
道
聖
人
也
(Trung Dung, ch. 20)
- Trí quảng đại nhi tận tinh vi, cực cao
minh nhi đạo trung dung.
致
廣
大
而
盡
精
微
極
高
明
而
道
中
庸
(Trung Dung, ch. 27)
- Cẩu bất cố
thông
minh, thánh trí, đạt thiên đức giả, kỳ thục năng tri chi.
苟 不 固 通 明 聖 智 達
天 德 者 其 孰 能 知 之
(Trung Dung, ch. 32)
Hội kỳ
hữu cực, qui kỳ hữu cực
會
其
有
極
歸
其
有
極
(Hồng Phạm 13) - Duy hoàng tác cực
惟
皇
作
極
(Hồng Phạm 10)
- Cố viết:
Phối
thiên 故
曰 配 天 (Trung Dung,
ch. 31)
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
|