TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
Chương 13
SỬ QUAN
THEO TRUNG DUNG VÀ DỊCH LÝ
Con người cần được đặt lại vào trung tâm vũ trụ,
điểm xuất phát của con người. Xưa khi trình độ hiểu biết còn thấp kém,
con người đã xa lìa, thì nay, trong tay sẵn có những kiến thức mới về
không gian con người cần phải quay về trung tâm điểm ấy.
N ghiên cứu Trung Dung và Dịch lý,
chúng ta có thể tìm ra một sử quan mới mẻ.
Xưa nay, nhiều người vì có quan niệm
«tĩnh» về vũ trụ, nên cho rằng con người, đời nào cũng giống đời nào
sinh ra là để chịu khổ sở gian truân, ngõ hầu đền bù những tội ác xa xăm
và hiện tại; cho đời là bể khổ, đầy châu lệ, chỉ muốn thoát ly đời; cho
xác thân là thù địch; cố dày vò thân xác để được coi là nhân là đức; cúi
đầu chịu mọi sự gian nan thống khổ, coi đó là những hình phạt của thần
thánh; suốt đời nơm nớp lo âu, khẩn cầu thần nọ thánh kia hộ trì cho
mình siêu thoát, một khi nước mắt tắt hơi.
Một quan niệm như vậy dĩ nhiên làm mất hết
vẻ hiên ngang và hùng khí của con người, coi con người như một thứ đồ
chơi để thần minh tha hồ dập vùi theo ý thích, thương thì để nguyên,
giận lên thì phá phách cho tan tác thành tro bụi, coi lịch sử như đã đi
đến tuyệt đích không còn gì để diễn tiến nữa; tô vàng son cho một dĩ
vãng mình không tham dự; oán than chê bai cuộc sống hiện tại, cho rằng
chẳng mấy huy hoàng…
Nhưng, nếu ta có một cái nhìn bao quát cởi
mở hơn, nếu ta có một quan niệm «động» về lịch sử, ta sẽ thấy con người
thực ra, đã, đang, và còn, sẽ tạo cho mình một lịch sử rất ly kỳ, lắm
truân chuyên, nhưng cũng lắm vinh quang. Trên thực tế, con người luôn
luôn tiến hóa ấy.
Nói đến tiến hóa, tức là phải nói đến
chiều hướng và mục phiêu của cuộc tiến hóa đó. Cho nên đề cập sử quan
nhân loại, là đề cập chiều hướng tiến hóa của nhân loại, những giai đoạn
dĩ vãng và tương lai trên con đường tiến hóa ấy, cũng như mục đích và
kết quả của công cuộc tiến hóa ấy.
Trung
Dung đã cho ta biết căn bản của nhân quần, thì cũng chỉ luôn cho ta biết
mục phiêu của nhân loại. Đâu là căn bản vũ trụ, nhân quần? Trung điểm,
Trời ! Đâu là mục phiêu của nhân loại của quần sinh? Cũng vẫn là Trời là
trung điểm !
Vòng
Dịch Phục Hi sẽ cho ta biết các chặng đường tiến hóa của nhân loại, từ
ban sơ cho tới chung cuộc. Dịch Văn Vương phơi bày cho ta thấy
cùng một lúc mọi giá trị của đất Trời.
Ta thường thấy, trong Kinh Dịch, 64 quẻ
xếp theo hình vuông, lồng trong 64 quẻ xếp theo hình tròn. Hình vuông
tượng trưng cho không gian, cho các giá trị phô diễn đồng thời trong
không gian. Hình tròn tượng trưng cho thời gian, cho các giá trị phô
diễn liên tiếp trong thời gian.
Dịch là phản ảnh cuộc đời. Cho nên ta cứ việc nhìn bao quát các nếp sống
của cá nhân và đoàn thể diễn ra cùng một lúc trong không gian hoàn vũ,
là ta có thể suy ra được các lớp lang lịch sử của nhân loại liên tục
diễn tiến trong thời gian….
Thực ra, vấn đề chiều hướng và giai đoạn
của lịch sử không phải là một vấn đề mới mẻ.
Auguste Comte (1798-1857) trước đây, đã
tìm ra ba giai đoạn của lịch sử:
1. Trạng thái thần quyền (état
théologique).
2. Trạng thái siêu hình (état
métaphysique).
3. Trạng thái thực tiễn (état positif).
Nhưng, ta
thấy quan niệm trên chỉ cho ta biết dĩ vãng và một phần nào hiện tại,
còn tương lai vẫn chìm đắm trong mơ hồ, bí ẩn.
Dựa vào Dịch và Trung Dung ta có thể tìm
ra một chu kỳ lịch sử mênh mông bát ngát hơn nhiều.
Chúng ta, đại khái, có thể phác họa chu kỳ
lịch sử nhân loại bằng chín giai đoạn sau:
1. Giai đoạn thần quyền (Tốn)
2. Giai đoạn siêu hình (Khảm)
3. Giai đoạn thực tiễn (Cấn)
4. Giai đoạn vật chất (Khôn)
5. Giai đoạn giác ngộ (Chấn)
6. Giai đoạn nhân đạo (Ly)
7. Giai đoạn nghệ thuật đạo đức
(Đoài)
8. Giai đoạn thiên đạo (Càn)
9. Giai đoạn toàn thiện toàn mỹ.
(Giai đoạn huyền đồng, Thái cực)
Chu kỳ lịch sử nhân loại khó ước lượng
được là bao nhiêu năm. Thiệu Khang Tiết cho là
129.600
năm (360 x 360).
Đã là diễn tiến của lịch sử cũng như của
con người đều theo định luật doanh hư, tiêu tức, vãng lai, tiến thoái
của đất Trời.
Trong nửa chu kỳ đầu, tinh thần dần dần
suy, vật chất dần dà thịnh. Trong nửa chu kỳ sau, vật chất dần dà suy,
tinh thần dần dà thịnh.
Lẽ âm dương
tiêu trưởng trong các học thuyết Âu Á
Nhịp điệu thăng trầm suy thịnh của lịch sử
nhân loại cũng được áp dụng trong khúc hòa ca của vũ trụ và vạn vật.
Lẽ âm dương
tiêu tức vãng lai trong hoàn võ và trong con người
Đó là diễn tiến theo hai chiều âm dương
của vòng Dịch.
Dựa trên những hiện tượng lịch sử, thì
nhân loại mới đang đi giữa giai đoạn thực tiễn và giai đoạn vật chất.
Nghĩa là con đường tiến hóa của nhân loại còn xa lắc, xa lơ, tương lai
nhân loại còn muôn vàn rực rỡ.
Con người còn phải lao lung vất vả, còn
phải suy tư, lao tác, còn phải khám phá, còn phải khám phá, còn phải đào
thải, còn phải lọc lõi nhiều mới tiến tới vinh quang được.
Đi đến
hết giai đoạn vật chất, con người sẽ đi đến chỗ bế tắc, đến đầu đường;
muốn khỏi tiêu diệt, tất nhiên phải quay lưng lại vật chất mà hướng về
phía tinh thần, thế là Phục sinh, (Régénération Palingénésie), là Hồi
phục (conversion). Dịch gọi thế là «Cùng tắc thông,» hay «cùng tắc
biến».
Đi vào
con đường vật chất tức là đi vào con đường trụy lạc, sa đọa tinh thần
(dégénération, chute). Đi vào con đường tinh thần, là đi vào con
đường giải thoát, phục sinh (rédemption, salut, régération).
Cổ nhân đã xác định thời kỳ hồi phục của
con người. Thời kỳ ấy chính là thời kỳ đen tối nhất của nhân loại, tượng
trưng bằng giờ Tý (nửa đêm); và bằng quẻ Khôn (hoàn toàn vật chất).
Nhưng giữa tăm tối, ánh sáng sẽ hiện ra,
giữa chết chóc sự tái sinh sẽ mầm mống; sau thời kỳ vật chất vô thần,
con người sẽ hồi hướng và quay trở về với giá trị tinh thần.
Sự sinh lại ấy, người xưa ví như là con
người được thai nghén lại một lần nữa, vì thế dùng chữ Tý
子
(Tý= Tử =Con), chữ Nhâm
壬
(đồng âm với chữ Nhâm
妊
có mang), chữ Thai
胎
để chỉ thời kỳ đó.
Chu kỳ lịch sử
tiên đoán bằng các Vòng Dịch, Can chi, và Trường sinh
Thời kỳ ấy là thời kỳ «Hồi Phục», vì nhân
loại đã thấy được «thiên địa chi tâm».
Theo sử quan này, thì con người mới đầu dĩ
nhiên là phải gian truân, phải phong trần (Cấu = Phong trần), nhưng đến
chung cuộc, sẽ được hiển vinh hạnh phúc (Càn = Trời, Đế Vương ; Bính
đinh = Sáng sủa, rực rỡ, v.v.)
để rồi vào yên nghỉ trong Trung cung, trong Thái cực, Hoàng cực..
Mỗi cá nhân cũng phải đi theo đúng con
đường đã vạch cho nhân loại và hoàn võ, nhưng tùy sự hiểu biết, tùy theo
tốc độ của trí tuệ, tùy theo công phu tu luyện, thời gian trên trở nên
co giãn vô hạn định:
Vì:
-
129.600
cũng là một chu kỳ.
-
25.920
cũng là một chu kỳ.
- Một năm cũng là một chu kỳ.
- Một tháng cũng là một chu kỳ.
- Một ngày cũng là một chu kỳ.
- Một hô một hấp cũng là một chu kỳ.
-
Một
chớp mắt cũng là một chu kỳ (vì cũng gồm hai chiều âm dương, động tĩnh,
hạp tịch của Trời đất.)
Con đường thăng trầm, gian lao ấy tức là
con đường định mệnh của nhân loại. Theo từ ngữ Ấn Độ thì đấy là duyên
nghiệp, duyên kiếp của con người (Karma). Tìm ra được vòng duyên nghiệp
ấy mới biết đâu là con đường giải thoát…
Mỗi giai đoạn lại cho con người trông thấy
một khía cạnh của toàn thể bao la, mỗi giai đoạn lại làm cho con người
giàu có thêm về một loại tư tưởng, lại khoác cho con người một bộ mặt
mới.
Suy
rộng ra, như trái đất có lúc xa lúc gần mặt trời, thì nhân loại cũng có
lúc xa lúc gần Thượng đế, nhưng vòng tiến hóa con người đã vạch sẵn từ
muôn thuở, cũng như vòng chu luân của trái đất và các vì sao đã được
vạch sẵn khi chúng vừa được tạo dựng nên.
Thế tức là:
«Người tận thế, đất sét xưa nặn lại,
Hạt trường sinh gieo từ buổi hỗn mang,
Ngày khai thiên, Trời đã chép kỹ càng,
Toàn lịch sử của muôn nghìn thời đại.»
Con người sinh ra đời, cần phải phát huy
mọi khả năng của mình, thực hiện mọi giá trị tiềm ẩn trong mình, và chỉ
được dừng chân đứng lại khi đã đạt mức chí thành, chí thiện
khi đã thoát mọi tình tướng, danh sắc hiện tượng bên ngoài, trở về được
với hư vô, Diệu hữu,
vì mục đích của nhân loại cũng như của cá nhân là đạt tới toàn thể.
Nói tóm lại, Trung Dung, trung điểm vừa là
khởi điểm vừa là cùng đích con người (alpha et omega), còn vòng Dịch với
các hào quái tượng trưng cho sự thăng trầm, suy thịnh và các giai đoạn
lịch sử con người.
CHÚ THÍCH
L’ordre
des successions concrétise le temps;
L’ordre des coexistences concrétise
l’espace..
Occultisme et Magie en Extrême-Orient,
p.91
Sử quan này dựa trên sự khảo sát các
Đồ Dịch và hai định lý sau của tác giả:
Các triết gia Ấn Độ phỏng định một
chu kỳ lịch sử nhân loại là:
Cf.
Louis Chochod, Occultisme et Magie en Extrême-Orient, p.119.
Cf. F. Tomlin, Les Grands Philosophes de l’Occident, p.210:
Xem các đồ bản trang sau.
… Et c’est le même mystère que celui de l’Involution et de l’Evolution,
de l’Incarnation cosmique et de la rédemption universelle, ces deux
versants conjugués du Cercle du Devenir.
Xem các đồ bản trang sau.
… Cố năng niên trung thủ nguyệt, nguyệt trung thủ nhật, nhật trung thủ
thời, thời trung thủ khắc. Xúc nhất niên tạo hóa ư nhất nhật chi nội,
nãi ư nhất khắc chi nội hành nhất niên chi công. Đạo thiên địa, đoạt tạo
hóa; thục hữu đại ư thử giả; thần thánh tai! nguyên diệu tai!
故 能 年 中 取 月,
月 中 取 日,
日 中 取 時,
時 中 取 刻.
蹙 一 年 造
化 於 一 日 之 內,
乃 於 一 刻 之 內 行 一
年 之 功.
盜 天 地,
奪 造 化,
孰 有 大 於
此 者;
神 聖 哉.
元 妙 哉
(Nhập dược kính
入 藥
鏡, tr.8)
Le rythme alchimique
consistera dans la reproduction du rythme naturel, et la Grande oeuvre
débutera à l’instant précis désigné par l’astrologie, celui où cesse la
régression pour faire place à l’ascension (cf. Phục kỳ kiến thiên địa
chi tâm hồ!…)
Définissons le Karma comme l’ensemble
des étapes psychiques réalisées, en voie de réalisation et réalisables
en vue de l’accomplissemet d’un cycle. En conséquence, nous prenons
conscience de l’existence d’un Karma cosmique, d’un Karma universel,
d’un Karma particulier à chaque élément manifesté dans la nature et par
conséquence d’un Karma individuel humain. (L. Ferrer, Hatha – Yogin
Occidental, p.38)
«Avec la
première argile de la terre,
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
|