TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
Chương 7
XUẤT XỨ & ĐẠI Ý TRUNG DUNG
XUẤT XỨ
Trung Dung cũng như Đại Học
là hai thiên trong Lễ Ký. Đến đời Tống, Chu Hối Am (Chu Hi 1130 1200)
mới tách rời ra, cho hợp với Luận Ngữ, Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
Có nhiều người võ đoán:
Trung Dung không phải của Tử Tư chép. Hồ Hoài Thâm, tác giả quyển
Trung Quốc tiên hiền học thuyết, cho rằng:
Trung Dung có lẽ là của Đổng
Trọng Thư thời Hán viết, vì Trung Dung chủ trương thuyết «Thiên nhân hợp
nhất» mà thuyết này mãi tới thời Hán mới được Đổng Trọng Thư xiển minh.
Nhưng như trên ta đã khảo
sát, nhưng tư tưởng trong Trung Dung đã có sẵn trong Ngũ Kinh, và thuyết
«thiên nhân hợp nhất» là một thuyết
tối cổ, những chữ «phối mệnh», «khắc phối Thượng đế», «Thượng
đế lâm nhữ» đã là những câu cửa miệng nhân gian thời Thương,
Chu, như Kinh Thi đã cho biết. Vả ngay trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử đã cho
biết «thị vị phối thiên, cổ chi cực» (Lý tưởng cao siêu của người
xưa là được kết hợp với Trời).
Cho nên ức đoán này không
thể đứng vững.
H.J. Allen mới đây lại cho
rằng Khổng Tử không phải là một nhân vật có thực, và quyển Trung Dung
chỉ là một nguy thư do Phật tử Trung Hoa thời Hán đã chép.
Giả thuyết này, chẳng ai cho
là đứng đắn.
Cách đây mấy chục năm, Von
Erkes cũng cho rằng Trung Dung không phải là một tác phẩm hoàn toàn
thuộc Khổng giáo, mà chính có pha phách tư tưởng Lão giáo. Sách này,
theo ông đã được viết đời Tần Thủy Hoàng, ngụ ý tán tụng Tần Thủy Hoàng
và công nghiệp thống nhất đất nước của vua Tần.
Thực không gì mỉa mai hơn,
nếu Trung Dung đã được viết để tán dương Tần Thủy Hoàng, vì trong sách
toàn trích dẫn Khổng Phu Tử và cuối sách lại hết lời ca tụng Khổng Phu
Tử một người mà bao sách vở trước tác đã bị Tần Thủy Hoàng cho vào lửa
hết.
Sở dĩ có những ức đoán quàng
xiên, gượng gạo như vậy, vi người ta thường có thiên kiến rằng Khổng Tử
chỉ là một nhà luân lý học tầm thường, vụ thực, trái ngược hẳn với Lão
Tử đến khi đọc Trung Dung thấy những tư tưởng cao siêu, họ không biết ăn
nói ra sao.
Tuy nhiên những giả thuyết
trên cũng cho cho ta thấy rằng Trung Dung là một triết thuyết cao siêu,
chủ trương «thiên nhân hợp nhất»và tư tưởng Trung Dung không biên
giới...
Trung Dung, theo truyền
thống Nho giáo đã được Tử Tư trước tác. Tử Tư tên chữ là Khổng Cấp, cháu
đích tôn của đưc Khổng. Ông sinh vào khoảng năm 500 tcn. Ông đã từng
được thấy, được nghe đức Khổng cho tới khi ông hai ba mươi tuổi, vì đức
Khổng mất vào năm 479. Có người cho rằng Tử Tư mất năm 440, có người cho
rằng ông sống lâu hơn.
Điều đó không có gì là quan trọng...
ĐẠI Ý TRUNG DUNG
Trung Dung gồm 33 chương,
nhưng tựu trung chỉ dùng một chữ là thâu tóm hết: đó là chữ «thành»
誠.
Rémusat, Wieger, P.
Intorcetta và đa số học giả định «thành» là hoàn thiện.
Dựa theo lời chú giải của
Chu Hi, một số học giả khác trong đó có James Legge, định «thành» là
tinh hoàn, chân thực, hoàn toàn hợp nhất với chân lý, không còn pha
phách tà ngụy.
Chung quy «thành» vẫn là
hoàn thiện, mà hoàn thiện là hợp nhất với bản tính, với thiên lý, thiên
mệnh.
Theo Trung Dung, con đường
đưa tới hoàn thiện, khởi đầu bằng chữ Kính, chữ Sợ. Kính sợ Trời tiềm ẩn
trong lòng mình và sẽ trải qua các giai đoạn học hỏi, suy tư tu luyện,
để kết thúc bằng sự «phối Thiên», sự hợp nhất với Trời.
Sự hoàn thiện ấy đã sẵn có
nơi con người, đã tiềm ẩn trong «tính bản nhiên», nên công trình tu
luyện con người là ở tại sự cố gắng phát huy mọi tiềm năng, tiềm lực,
tiềm thức, tiềm chân, tiềm thiện cho tới chỗ hiện thực chí cùng chí cực,
chí thành, chí thiện.
Chu Hi đã cho rằng sách bắt
đầu bằng một lý rồi phân tán ra muôn ngàn, nhưng thâu tóm lại vẫn chỉ là
một lý ấy, khác nhau chăng là ở hai thể ẩn hiện mà thôi.
Khi mục đích sách đã tỏ, thì sự kết cấu sách và sự liên lạc giữa các
chương, cú cũng chẳng khó tìm.
Ta có thể phác họa đại ý
Trung Dung như sau: Bản tính con người là thiên lý, thiên tính, thiên
mệnh, thiên đạo.
Khuôn mẫu hoàn thiện ấy, đạo
Trời ấy chẳng hề rời bỏ con người một phút giây.
Đạo người là noi theo tính
bản nhiên ấy.
Bản
tính con người khi chưa phát hiện là Trung, là thái cực tinh hoàn, bất
nhiên, bất ỷ. Khi phát xuất ra nếu theo đúng lớp lang, tiết tấu sẽ đạt
tới mức thái hòa, mức hoàn thiện. Cho nên, Trung hòa là gốc ngọn, đầu
đuôi của lịch sử nhân loại (ch.1).
Con đường hoàn thiện hay đạo
Trung Dung là đạo của người quân tử, chẳng phải là đạo của kẻ tiểu nhân
(ch.2).
Nó rất cao siêu, rất hoàn
mỹ, nhưng cũng rất khó khăn nên ít người hiểu được, theo được (ch.3,4).
Muốn theo Trung Dung, muốn
trở nên hoàn thiện phải phát huy ba đại đức: trí, nhân, dũng chứ không
phải bon chen khoe tài, khoe trí với đời, chứ không phải bạo hỏ bằng hà,
khinh thân, liều mạng (ch.6,7,8,9,10).
Muốn theo đạo Trung Dung,
chẳng cần phải tìm hiểu quái dị, chỉ cần chuyên tâm, dốc trí theo trọn
đạo Trời (ch.9).
Đạo Trời ấy tiềm ẩn ở đáy
lòng, nhưng nếu biết phát huy ra, sẽ trở nên mênh mông, bao trùm vũ trụ
(ch.12).
Cho nên chẳng phải đi đâu
xa để tìm khuôn mẫu lý tưởng cho con người: khuôn mẫu ấy đã tìm ẩn sẵn
trong lòng người (ch.13).
Vậy
muốn trọn đạo Trời, chỉ cần lo tận thiện mình, yêu thương người khác như
mình, lấy sự hoàn thiện làm khuôn phép cho mọi hành vi, cử chỉ mình,
hướng dẫn đường lối giao tế của mình cho trọn niềm hiếu đễ, trọn nghĩa
quân thần, vẹn tình bằng hữu. (ch.13).
Người quân tử sẽ vui sống
trong mọi hoàn cảnh (ch.14), tuần tự tiến bước trên đường nhân, nẻo đức
(ch.15), hiểu lẽ thiên nhân tương dữ (ch.16), sống sao cho đức hạnh chói
chang sáng tỏ, thuận lòng Trời, được lòng người, như vua Thuấn, vua Văn,
vua Vũ (ch.17, 18). Những lễ nghi tế tự tông miếu, Giao Xã, cổ nhân bày
ra chẳng qua là để nhắc nhở rằng tổ tiên xưa đã thờ Trời, kính Trời, tu
thân tích đức để trở nên hoàn thiện; cho nên người ngày nay phải hiểu
thâm ý, phải nối được chí lớn của tổ tiên mới là vẹn hiếu (ch.19).
Nếu đạo làm người phải lấy
Trời làm gốc, lấy chữ thành, chữ hoàn thiện làm chủ chốt, thì một nền
chính trị lý tưởng cũng phải xây trên căn bản ấy.
Trong nước trên dưới phải
một lòng lo bề tu đức lập thân.
Vua phải theo gương đức
hạnh, dùng hiền tài trị dân, lo khuyến khích, vỗ về bách tính để cho
nước thịnh, dân giàu, công nghệ mở mang. Dân phải giữ vững đạo con em,
lo tròn phận sự. Tóm lại cá nhân cũng như xã hội đều có bổn phận phát
huy mọi tìm năng mình để đi đến hoàn thiện (ch.20).
Vì Trời hoàn thiện, nên
tiến tới hoàn thiện là lý tưởng của người quân tử. Muốn đạt tới mức hoàn
thiện, cần học hỏi, suy tư, cố gắng mãi mãi, cố gắng không ngừng, sửa
sang chếch mác, hoàn hảo bản thân rồi lại lo cái thiện mọi người, để
quần sinh vũ trụ đều đạt được mức hoàn thiện (ch.21, 22, 23, 24, 25).
Cố
gắng không ngừng, phát huy mọi tiềm năng, tiềm lực mình để tiến tới hoàn
thiện, đó là theo đúng định luật tiến hóa của đất Trời (ch.25). Và khi
đã hoàn thiện mình, người quân tử sẽ đạt tới mức chí thành chí thiện,
thông phần vinh hiển Trời, trường sinh vĩnh cửu cùng Trời đất (ch.26,
27).
Đạo
Trung Dung, như đã mô tả trên, thực cao siêu hoàn mỹ. Trời chỉ trao đạo
đó cho các đấng thánh nhân (ch.27). Nó được xây dựng trên những nền tảng
vĩnh cửu, có những tiêu chuẩn bất biến, hợp nhân tâm thế đạo, hợp định
luật đất Trời. Dầu trong dĩ vãng xa xăm, dầu trong tương lai mờ mịt, nếu
có vị thánh nhân nào ra đời cũng đều chủ trương như vậy cả (ch.29).
Theo Trung Dung, bậc chí
thành là những người đạt đạo hoàn thiện. Những bậc ấy, trong số đó có
đức Khổng sẽ như vầng nhật nguyệt soi sáng khắp nhân gian, vì các ngài
thông phần vinh quang Trời, và mãi mãi sẽ được nhân loại suy tôn tán
tụng (ch.30,31,32).
Trong đoạn kết, Trung Dung
lại toát lược tâm pháp thánh hiền: «Kính sợ Trời, dầu ở nơi vắng vẻ, học
cho thông suốt để biết tới cùng cực, rèn luyện mình cho tuyệt hết niềm
tây, toàn thiện để thành tựu mình đến trọn vẹn (ch.33).
Đại ý Trung Dung là vậy, thế
mà không biết vì sao đã mang tiếng lấp lửng, nước đôi?
CHÚ THÍCH
L'ideal de l'humanité reallisé dans la personne du Saint la perfection
absolue qui est son partage est bien ce qui signifie le terme
誠.
Rémusat l'a rendu par «la perfection et la perfection morale»; le
P. Intorcetta par «Vera solidaque perfectio» – Legge le traduit par
«Sincerity, simplicity or singleness of Soul» the disposition to the
capacity of what is good without any deteriorating element, with no
defect of intelligence, or intromission of selfish thoughts. Ces
derniers mots décrivent très bien les effets de 誠
signalés par Tchou Hi.
德 無 不 實 而 明 無 不
照 者 聖 人 之 德 所 性 而 有 者 天 道 也.
Mais ils expriment pas assez clairement ce qu'il est en soi. Tchou Hi en
donne cette définition:
誠 者 真 實 無 妄 謂.
Cet état de
conformité est le propre du saint. (Stanislas le Gall, Le Philosophe
Tchou Hi, p.64 et ss)
Tựa Trung Dung.
Vị phát giả, Thái cực, chi tĩnh, dĩ phát giả Thái cực chi động
未 發 者 太 極 之 靜 已
發 者 太 極 之 動
(Chu
Hi đáp Lã Tử Ước. Stanislas le Gall, Le Philosophe Tchou Hi,
p.116.)
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
|