TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13
14
15 16
Chương 14
NHỮNG ĐỊNH LUẬT CHÍNH CHI
PHỐI
CON NGƯỜI VÀ HOÀN VŨ THEO
TRUNG DUNG VÀ DỊCH LÝ
N
ghiên cứu Trung Dung, Hà
đồ, Lạc thư và Dịch, ta có thể tìm ra được nhiều định luật chi phối hoàn
vũ và con người.
Nhưng
trước khi đề cập ít nhiều định luật, chúng ta hãy dùng ngọn bút Thái
cực, và hai màu sắc Âm Dương, cố phác họa lại đáng dấp của tâm hồn con
người, một tâm hồn mung lung huyền ảo, đến nỗi nhiều người hiện nay vẫn
còn đang tự hỏi nó có hay không:
«Thái cực sinh lưỡng nghi»…
«Có Thái cực, có Âm Dương,
Biến hằng vạch sẵn, đôi đường tử sinh.»
Thái cực là Hóa công là chân tâm, Đạo tâm
hằng cửu. Âm Dương là hai động lực biến hóa trong Trời đất và trong lòng
con người.
Cho nên dùng nguyên lý Âm Dương mà khảo
sát tâm hồn, ta nhận thấy ngay trên bình diện biến thiên, tâm hồn cũng
là hai mặt sáng tối.
Thực là:
«Hai vẻ mặt, một con người,
Trung tâm lại có Trời soi vào lòng.»
Chân tâm bất biến và hai vẻ sáng tối của
môt tâm hồn ấy đã được diễn tả bằng từ ngữ sau:
THÁI CỰC
|
THẦN
|
Dương |
Âm |
Qui hồn |
Du hồn |
THẦN
|
TÍNH
|
Khí |
Tinh |
Khí |
Tinh |
THẦN
|
NHẤT LINH
CHÂN KHÍ
|
Hồn |
Phách |
Hồn |
Phách |
Olov R.T. Jansé, trong quyển Nguồn gốc
văn minh Việt Nam, dựa vào các bằng chứng khảo cổ, cho rằng: «Người
Trung Hoa và người Việt Nam thời cổ, quan niệm con người có hai bản tính
vô hình:
một khí thiêng và một hồn đeo huyết tính. Sau khi chết thì khí thiêng
biến thành một vị thần linh hay một vị cao siêu giúp đỡ nòi giống, giúp
đỡ con cháu làm ăn an lành. Sự thờ cúng tổ tiên theo quan niệm đặc biệt
ấy mà ra.
«Còn cái hồn mang huyết tính thì sống một
đời sống vô định, nhạt mờ và mong manh rồi cuối cùng tiêu mất.
«Ngôn ngữ Âu Á có hai danh từ để gọi sự
trạng đó. Trong tiếng Pháp có hai chữ Esprit và Âme.
Trong
tiếng Latin có: Spiritus, Anima. Trong tiếng Hy Lạp có: Pneuma, Psyché.
Phải chăng là chữ Esprit tương xứng với chữ Esprit Souffle
(khí thiêng) còn chữ Âme tương xứng với chữ Âme de sang (hồn theo
huyết tính) như chúng tôi vừa nói! Có thể vậy.»
Âm dương là một ngẫu lực (couple de
forces), cho nên hồn phách bao giờ cũng cộng tác với nhau trên đường
đời. Hai bên theo nhau như bóng với hình, cùng chung nhau dự tấn kịch
đời: bên này tiến thì bên kia lui; bên kia thắng bên kia bại; bên này
thịnh bên kia suy; giao tranh mà vẫn cộng tác; ngoài như thù địch mà
trong vẫn là tình cốt nhục; gần gũi nhau mà vẫn tưởng chia phôi; như Sâm
Thương, như Psyché và Amour, như Orphée và Eurydice, một ẩn một hiện,
không bao giờ lộ diện cùng một lúc.
«Có biết đôi cành sinh cùng gốc,
Mới hay con cháu có ngàn muôn.»
Quan niệm này có lẽ soi sáng được mâu
thuẫn giữa con người, và hai khả năng tương phản của con người, vừa có
thể tiến được về phía tinh thần, vừa có thể tiến được về vật chất
và giải quyết được mối tranh chấp cố hữu giữa tinh thần và vật chất bằng
cách thu xếp cho mỗi bên nhượng bộ nhau một thời: con người, nửa đời
trước sẽ tiến ra vật chất, nửa đời sau sẽ hướng về tinh thần, theo đúng
cơ Trời, để có thể luân phiên làm hai công việc mưu sinh và tu đạo:
«Trước Trời, Trời chẳng trách đâu,
Sau Trời cho hợp cơ mầu thời gian.»
Nếu cố chấp một bề, là người thiển cận,
không biết quyền biến.
Sách
Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ viết: «Nhất linh chân tính một khi
đã sa xuống cung Càn, liền phân thành hồn phách. Hồn là dương (Animus)
sống tại «Thiên tâm», là khí khinh thanh phơi phới, từ Thái hư
giáng hạ, nên cùng một hình ảnh như nguyên thủy. Còn phách (Anima) là
âm, là khí trầm trọc nặng nề, bám víu vào phàm thể. Hồn thích sống,
phách chực chết. Phách say mê những hình sắc chuyển động bên ngoài. Đó
chính là thức thần.»
Quan niệm như trên về tâm hồn con người
phù hợp với định luật đối xứng của Trời đất: nghĩa là có hai vế đối đãi
nhau ở hai bên một tâm đối xứng (Centre de symétrie).
Phải
chăng những hình «lưỡng long triều nguyệt», «lưỡng long tranh châu»
đã vô tình hay hữu ý
phản ảnh
lại quan niệm trên?
1. Định luật
biến, hằng
Nhìn vòng Dịch tiên thiên, ta thấy mọi sự
đều biến thiên, luân lưu, ngoại trừ tâm điểm. Nói cách khác chỉ có Trời,
có Đạo là bất biến, còn muôn loài thì đều bị đẩy đưa trên vòng biến
dịch, ảo hóa.
Đạo thể từ trung điểm tung tỏa nguồn sống
khắp nơi, phát huy ra quần sinh vũ trụ, như vầng dương phát huy muôn ánh
quang hoa. Mọi vật, mọi sự trên vũ trụ là văn vẻ, hay trạng thái của Bản
thể duy nhất.
Hiểu định luật này là hiểu huyền cơ Tạo
hóa,
và ý nghĩa cuộc đời. Bao lâu con người còn
chạy theo những ảo ảnh bên ngoài, chạy theo hiện tượng, còn sống cuộc
đời xốc nổi phù phiếm bên ngoài, thì bấy lâu con người còn sống trong
cảnh phù du, tang thương biến đổi (devenir). Muốn thực hiện bản thân
(Etre), phải biết thoát ly hiện tượng, sống đời sống tinh thần, kết hợp
với Thượng đế.
Lẽ biến hằng này cũng được diễn tả trong
Phật giáo bằng những danh từ nghiệp chướng và Hư vô, luân hồi và Niết
bàn,
vô thủy sinh tử căn bản và vô thủy Bồ Đề Niết bàn, Nguyên thanh tịnh
thể.
2. Định
luật thuận nghịch
Đường đời như một vòng tròn có hai chiều thuận nghịch. Nếu đi theo chiều
thuận, từ vô hình tiến ra hữu hình, là đi theo chiều «sinh hóa, lao
tác» của vũ trụ, sẽ tìm ra được nhiều ứng dụng mới mẻ cho cuộc đời,
nhưng dần dà sẽ tiến tới chỗ phàm phu, tục lụy. Nếu đi theo chiều
nghịch, từ hữu hình trở ngược về vô hình, là đi theo chiều «thành»,
của vũ trụ, sẽ tìm ra được chân lý và tinh hoa của nhân loại, và dần dà
sẽ tiến tới bậc siêu phàm thánh thiện.
Kinh Dịch
dạy bí quyết đi ngược dòng đời.
Muốn hiểu
rõ vi ý của Trung Dung và Dịch lý cần hiểu rõ định luật tuần hoàn có hai
chiều vãng lai, tiêu tức hợp lại thành một vòng càn khôn, gồm hai phần
thuận nghịch.
Chiều
thuận là chiều sinh của đất trời, từ nhất tỏa lan tới vạn, từ trên đi
xuống dưới, sinh sinh không cùng.
Chiều
nghịch là chiều thành của trời đất, từ vạn qui về nhất, từ dưới vươn lên
cao, từ một dương biến dần thành sáu dương, biến hóa tính mệnh, bảo hợp
Thái hòa, trở về cùng Nguyên thủy.
Theo lẽ
thường của trời đất, thì có đầu rồi mới có đuôi, có thủy rồi mới có
chung, có Dương rồi mới có Âm, có sống rồi mới có chết...
Nhưng Dịch
lại dụng ý nói ngược lại hết. Dịch nói: «Âm Dương», «tử sinh», «chung
thủy». Đó là dựa theo sự biến hóa vô biên của trời đất để xiển minh
lẽ «cùng, thông», bày ra hai chiều ngược xuôi, qua lại cho chu
toàn thiên ý, nhân tâm, cho vạn lẽ sinh thành.
Thực đúng
như thi hào Tagore đã viết trong Duy nhất sáng tạo: «Vô hạn vì muốn biểu
hiện mình, đã hạ xuống trong thiên hình, vạn trạng của hữu hạn; và hữu
hạn vì sự thực hiện mình phải vượt lên cái duy nhất của vô hạn,có như
thế vòng chân lý mới hoàn thiện.»
3. Định
luật Âm Dương điên đảo
Cũng như
muốn cho đất đai sinh sôi nảy nở, cần phải đào bới xới lộn, để không khí
dễ dàng thâm nhập vào trong, con người muốn thần thánh hóa mình, cũng
phải đem Trời, đem tinh hoa nhân loại lồng vào trong lòng mình.
Trời ở trên đất, thì đất sẽ bị đè nén (Thiên địa Bĩ ) Lửa cháy
trên nước, thì nước nóng làm sao (Hỏa thủy Vị tế ). Nhưng nếu đất
chứa trời trong tâm, nếu nước mà được lửa hun nấu phía dưới thì sẽ phát
sinh lợi ích vô biên (Địa thiên Thái
;
Thủy hỏa Ký tế ).
«Được
thủy
hỏa hai
đường tương tế,
Ấy Âm
Dương,
hai vế hiệp hòa
Nuôi
muôn
vật, giúp dân ta,
Tham
Thiên
tán địa, thực là công ta.»
Cũng một
lẽ, bao lâu nhân loại chưa hay trong lòng mình có Trời, có Đạo, bao lâu
nhân tâm không có Đạo tâm làm chủ chốt bên trong, thì bấy lâu con người
sẽ còn lao lung, luân lạc.
Bao lâu
còn ấu trĩ, con người sẽ tưởng rằng Trời, hay sự toàn thiện phải tìm
kiếm ngoài mình, nhưng khi đã trưởng thành thì sẽ nghĩ ngược lại, và sẽ
tìm Trời, tìm tinh hoa và toàn thiện trong lòng mình. Định luật Âm Dương
điên đảo này chẳng những áp dụng cho cá nhân mà sẽ áp dụng cho lịch sử
nhân loại. Đó cũng chính là một tiêu chuẩn chính xác để quyết đoán xem
ta còn ấu trĩ hay đã trưởng thành về phương diện tâm thần....
4.
Định luật Âm Dương thác tống
Định luật
này phân tôn ti quí tiện của Âm Dương, của tinh thần và vật chất, và còn
dạy người phải biết tùy thời, lúc trọng Âm, lúc trọng Dương cho hợp cơ
trời.
«Tống»
bày lẽ dưới trên, áp dụng cho không gian, cho trường hợp tĩnh.
«Thác»
bày lẽ trước sau, áp dụng cho thời gian, cho trường hợp động.
Không
gian cốt để phô bày, phân phối các giá trị, để cho tâm thần trông thấy
hết các giá trị thấp cao, la liệt bày ra trước mắt, mà định hay dở.
Thời gian
cốt là để cho tâm hồn có cơ hội lần lượt thu thập và hưởng dụng các giá
trị đó. Biết dùng thời gian chinh phục không gian, thu thập các giá trị,
biết lúc nào phải trọng dụng loại giá trị nào ấy là biết «thời trung»,
uyển chuyển theo thời cho hợp thiên cơ, làm rung lên hết cả các phím tơ
của cây đàn muôn điệu.
Có như vậy cuộc đời mới đầy đủ ý nghĩa và lúc nào cũng thơ mộng uyển
chuyển. Nói thế có nghĩa là con người phải biết nhập thế, xuất thế, biết
nhập thể, biết nhập thần (Descente de l'âme dans la chair et son retour
vers l'esprit).
Mới hay:
«Thiên
nhiên
tự tính uy linh
Trong
ngoài
hai mặt một mình quán thâu.»
5. Định luật tụ tán
Nếu ta
chấp nhận trung điểm tâm thần ta là tâm điểm phát quang, ta sẽ nhận thức
được định luật tụ tán của trời đất.
Càng tiến
ra xa, càng tiến ra bên ngoài, thì ánh sáng càng yếu, càng mờ, càng bị
tản mạn. Nhưng nếu tâm thần không bị chia năm sẻ bảy, thì ánh sáng tinh
thần ấy sẽ có thể tập trung lại và trở nên xán lạn.
Tỏa lan,
chiếu diệu ra bên ngoài, là để ứng phó với hoàn cảnh, nhưng nếu suốt đời
cứ để tản mác ánh sáng tâm thần ấy mãi, nó sẽ như đàn bướm tung bay,
chẳng đem lại được kết quả gì vĩ đại.
Người xưa
còn cho rằng:
«Anh
hoa
phát tiết
ra ngoài
Nghìn
thu
bạc mệnh
một đời tài hoa.»
(Kiều)
Còn nếu
biết tập trung ánh sáng tinh thần ấy lại, con người sẽ có thể trở thành
thần minh.
Cho nên
xưa nay, công phu tu luyện của thánh hiền đều là «Hồi quang phản
chiếu», tập trung ánh sáng tinh thần lại. Trước thời còn tập trung
trên một đề tài gì, gọi là chuyên tâm, chú ý (attention, méditation,
concentration) nhưng sau khi đã tu luyện tinh thần rồi, sẽ tập trung
tinh thần mà không cần đối tượng, đó chính là xuất thần (extase). Lúc ấy
sẽ nhìn thấy thấu đáo những lẽ huyền vi của trời đất.
Đó là
phương pháp «Thoái tàng ư mật» của đạo Nho, «nhiếp tâm pháp»
của đạo Lão.
Tập trung
tinh thần rốt ráo sẽ đạt tới điểm hội tụ, sẽ tới Trung điểm, Tuyệt điểm.
Thế là đạt tới «Thiên địa chi tâm» là Đắc Trung là Phối Thiên, là
đạt tới điểm «đồng qui nhất chí» của Nho giáo, tới chỗ «Vô
cảnh», ôm giữ được thuần nhất theo Trang tử,
tới «Bát nhã bình đẳng», hay tới Niết bàn của Phật giáo.
Sự tập
trung tinh thần còn có những ích lợi thực tế khác. Khi một con người
biết trầm tĩnh, ít lời, sẽ hàm súc nghĩ lý, xử sự sẽ hữu hiệu hơn và sẽ
được nhười khác kính nể hơn.
Vả lại
biết tập trung tinh thần, thì thần xác đỡ bị kích thích, thác loạn, dày
vò, sẽ được thảnh thơi thoải mái, như vậy sẽ đỡ tật bệnh và sống lâu
hơn...
Định luật
tụ tán này có một giá trị rất là phổ quát, có thể áp dụng vào mọi lãnh
vực. Ví dụ, trong đời sống thường ngày ai cũng ghét những người phá tán
dù là sinh lực, hay là tài nguyên. Tập trung là tăng cường, phá tán là
suy nhược, cho nên trong binh pháp khi cần công phá thì tập trung, khi
cần ẩn lủi thì phá tán.
Ngay vũ
trụ cũng bị định luật tụ tán chi phối. Nhà toán học A. Friedmann khi
giải lại những phương trình của Einstein cũng kết luận vũ trụ có thể tụ
tán, co giãn được...
Suy rộng
ra, thì ngay sự sinh thành, tuần hoàn, phản phúc, thủy chung của vũ trụ
cũng đã được bao hàm trong định luật tụ tán; chung qui, muôn vật đều
cùng khuôn theo một định luật tụ tán: Nhất tán vạn, vạn qui nhất.
6. Định luật tiến hóa
Từ sự
biến thiên vô hạn định, Trung dung suy ra sự tiến hóa vô hạn định của
hoàn võ và con người:
«Đạo
trời đất một câu tóm hết.
Làm muôn loài chẳng biết hai khuôn,
Nhưng mà sinh hóa khôn lường.
Đất trời đường lối mênh mang rộng dày,
Cao minh, trong sáng xưa nay
Xa gần, vĩnh
cửu đó đây khôn lường.»
Cho nên,
nhờ sự tu luyện, con người cũng có thể trở nên hoàn thiện, «dữ Thiên
đồng đức», vĩnh cửu vô chung.
«Việc
Trời ngẫm xiết bao huyền ảo,
Thực sâu xa, ẩn áo khôn cùng,
Thực là đáng mặt Hóa công.
Đức vua Văn tinh thuần chói lọi.
Thế cho nên đáng gọi là Văn,
Tinh ròng vĩnh
cửu, vô chung.»
7.
Định luật tự cường bất tức
Trung
dung và Dịch kinh đều chủ trương con người có thể tiến hóa vô hạn, và
như vậy cần bắt chước trời đất cố gắng không ngừng, hoạt động không
ngừng để tiến tới hoàn thiện...
Nhờ sự cố
gắng không ngừng, mà thánh nhân sẽ có ảnh hưởng bao trùm vũ trụ. Đó là
theo được đường lối của đất trời:
«Bậc
chí thánh không hề ngơi nghỉ
Không nghỉ ngơi nên sẽ vững bền,
Vững bền muôn vẻ trưng lên,
Trưng lên vang dội khắp miền gần xa
Khắp gần xa ắt là dày rộng,
Đã rộng dày thời cũng cao minh.
Rộng dày để chờ chúng sinh,
Cao minh che khắp sinh linh xa gần,
Trường cửu để tác thành muôn vật,
Rộng dày nên cùng đất sánh duyên
Cao minh kết ngãi thanh thiên,
Vô biên, vô tận
triền miên không cùng.»
Các thánh
hiền Nho giáo chủ trương trong nhân tâm còn có Đạo tâm.
Gia Cát
Võ Hầu giải chữ tâm như sau:
«Hai
người đứng ở bên mình,
Thái dương chói lọi một vành trên cao.
Lòng người thẳng rọi chiếu vào,
Tiên cơ đã
biết thế nào hay chưa.»
Nghiên
cứu mối tương quan giữa Nhân tâm, Đạo tâm chúng ta sẽ hiểu những lẽ:
- Chính,
tùy
- Tinh,
thô
- Hằng,
biến
- Ẩn,
hiện
- Thể,
dụng
- Bản,
mạt
- Đại,
tiểu
- Lý,
khí, v.v...
Nhìn vào
đồ bản Dịch tiên thiên tròn, ta thấy các hào, từ vòng trong nhìn ra vòng
ngoài, biến thiên nhanh chậm khác nhau tùy theo tỉ số 1, 2, 3, 4, 8, 16,
32.
Suy ra
thì những tín ngưỡng và tư tưởng nhân loại cũng biến đổi nhưng rất chậm,
còn phong tục, hình thức, lễ nghi bên ngoài biến đổi mau hơn.
Dịch Kinh
còn đưa ra 1 đồ bản có 2 tầng lớp:
- Tầng
ngoài, 64 quẻ xếp vòng tròn.
- Tầng
trong, 64 quẻ xếp hình vuông.
Tròn chỉ động dụng, chỉ biến thiên của vạn hữu dynamisme et
changement).
Vuông trong tròn
chỉ sự tĩnh lãng, sự bất biến của bản thể (stabilité et
immutabilité), mà vẫn hàm tàng mọi biến thiên của vạn hữu.
Nhưng nếu
hai hình vuông tròn được tách rời khỏi nhau thì ý nghĩa lại khác. Lúc ấy
vuông lại tượng trưng cho vật chất, sự bất động, sự bảo thủ;
tròn lại tượng trưng cho tinh thần, sự biến thiên, và tiến hóa.
1. Quan niệm bất động (Fixisme)
Nếu có
quan niệm bất động, bất biến về cuộc đời, ta sẽ ít đếm xỉa đến thời gian
và sức biến hóa vô biên của vũ trụ và con người. Theo quan niệm này, cái
gì quý sẽ quý mãi; cái gì hèn sẽ hèn mãi. Càn nhất định phải ở trên,
Khôn nhất định phải ở dưới. Dương phải hơn, Âm phải kém, v.v.
«Nguyên lý đồng nhất»
(Principe d'identité) sẽ là nền tảng cho mọi suy luận. Nghĩa là:
A là A
«Con
vua thì lại làm vua,
Con thằng sãi
chùa thì quét lá đa.»
Con người
cũng có sự «tự ti mặc cảm», cho mình là hèn kém, nên hết sức tôn trọng
những phát minh sẵn có, cho đó là tuyệt đối, tuyệt hảo, ôm ấp lấy dĩ
vãng, gò bó mình vào trong những khuôn khổ tinh thần vật chất chật hẹp,
ghét mọi sự đổi thay, cho đó là nguy hại.
2. Quan niệm biến hóa (Dynamisme et
changement)
Theo quan
niệm này con người sẽ chủ trương, vũ trụ thăng trầm, không có gì hay
mãi, không có gì dở mãi. Tùy nơi, tùy thời, tùy quan niệm hay có thể
biến thành dở; dở có thể hóa thành hay. Tinh thần cũng có lúc bị vật
chất chi phối, cái chính cũng có khi phải thua cái tà, nhưng rồi ra vật
chất sẽ hàng phục tinh thần, tà khuất sẽ rút lui nhường chỗ cho công
chính. Đó là chủ trương của Dịch Phục Hi.
Khi con
người đã biết lồng thời gian vào cuộc đời, đã biết cưỡi lên mình rồng
biến hóa, thì nguyên lý đồng nhất không còn áp dụng được nữa:
A sau một
thời gian cũng có thể là B,
B sau một
thời gian có thể là C, v.v.
Chủ
trương bảo thủ, bất biến là chủ trương của đại chúng, của những tổ chức
chánh trị, tôn giáo bên ngoài; nó hữu ích vì kìm hãm được sự ngông cuồng
của đại chúng, giữ gìn được trật tự xã hội.
Quan niệm
biến hóa là con đường của hiền thánh, của Trời đất; nó biến ảo, cao siêu
bao la vô tận, khó lường, khó đoán được.
Trung Dung
và Dịch có một quan niệm rất biến hóa, uyển chuyển, không đặt giới hạn
nào ngăn cách Âm Dương, chia rẽ tinh thần vật chất, mà chủ trương Âm
biến Dương, Dương biến Âm, tinh thần biến thành vật chất (dégradation,
régression), vật chất hóa thành tinh thần (évolution, sublimation).
Phương pháp để tìm ra các định luật
Nếu coi
Trung Dung như tâm điểm, và Dịch như một hay nhiều vòng tròn đồng tâm ta
sẽ tìm ra những lẽ: - Ẩn, hiện
-
Quân, thần
-
Hằng, biến
-
Nhất, vạn, v.v.
Đi từ trung tâm
ra biên thùy, ra các vòng ngoài, là đi ra ngọn,
là lìa bỏ chân tâm,
là ra đi,
là quay lưng lại Trời,
chối bỏ Trời.
Đi từ «biên thùy»
hoàn cảnh xác thân trở về «trung tâm» tinh thần bản thể, là trở về nguồn
là trở về chân tâm.
là trở về,
là quay mặt lại Trời,
tuân phục Trời.
Đó là hai
giai đoạn diễn dịch (déduction), và qui nạp (induction),
bao quát cả trời đất.
Nếu cho
vòng Dịch quay tròn, ta còn thấy nhiều định luật khác như:
- Định luật tuần hoàn (loi
du movement cyclique)
- Định luật tiệm
tốc (loi de l'accelération progressive)
- Định luật ly tâm, hướng tâm (mouvement centrifuge et mouvement
centripète)
- Định luật vãng
lai (mouvement de va-et-vient)
- Định luật phản phúc (loi d'inversion), v.v.
Nếu nghiên
cứu ngẫu lực Âm Dương, coi chúng như hai vâng nhật nguyệt, hay như đôi
trai thanh, gái lịch, lúc ghét nhau, lúc ưa nhau, lúc ly tán lúc đoàn
tụ, lúc làm hại lẫn nhau, lúc lại hy sinh cho nhau, lúc chống đối nhau,
lúc lại giúp đỡ nhau, ta sẽ hiểu và sẽ suy ra nhiều định luật về «Âm
Dương» «sinh, khắc, chế, hóa, thành», «Âm Dương tiêu trưởng doanh hư»,
Âm Dương tương thôi, tương đối, tương đãng, tương thừa v.v... Vì những
định luật âm dương đã lồng vào vũ trụ và trong con người.
Tóm
lại muốn suy ra các định luật đất trời, định luật tâm lý, ta có thể dùng
những yếu tố sau đây:
1. Nghiên
cứu tâm điểm và nhiều vòng tròn đồng tâm, để đứng yên, hoặc cho di động.
2. Nghiên
cứu hai đối tượng Âm Dương và cho vần xoay, đảo lộn, hợp tan, để tìm ra
các biến hóa.
3. Nghiên
cứu sự tăng giảm của Âm Dương trên vòng Dịch.
4. Nhìn
xem vũ trụ thiên văn, địa lý, lịch sử, nhân quần, xã hội, các hiện tượng
tâm lý, theo các khía cạnh thẻ và dụng, bản thể và hiện tượng, và các
khía cạnh tương tranh, tương thừa của hai sức mạnhtinh thần, và vật
chất, của «chính», «tà», v.v.
Hình
A: Âm Dương tương hợp |
Hình
B: Âm Dương tương thôi |
Hình 24
Ngoài ra,
Trung dung và Dịch lý còn đưa ra những tiêu chuẩn để nhận xét thế nào là
chân đạo, thế nào là thánh nhân.
Trung
Dung viết:
«Đạo
quân tử phát xuất tự thâm tâm,
Đem
trưng bày phổ cập tới thứ dân.
Khảo
chứng tiên vương không có chi lầm lỗi,
Sánh
với định luật đất trời không phản bội.
So quỉ
thần, thấy đường lối đúng không sai,
Thánh
nhân ngàn đời sau chẳng hề có chê bai.
So quỉ
thần đường lối đúng không sai,
Thế là
đã biết lòng Trời đó;
Thánh
nhân ngàn đời sau chẳng có chê bai,
Thế là
đã biết lòng người tỏ rõ.»
Thế là:
để nhận xét chân lý và chân đạo, có những tiêu chuẩn được đưa ra:
- Tâm lý
(critère psychologique)
- Xã hội
(critère sociologique)
- Vũ trụ
(critère cosmologique)
- Lịch sử
(critère historique)
- Đại
đồng phổ quát (critère d'universalité)
Tóm lại
chân lý, chân đạo không phải là của riêng ai, mà là của chung hoàn võ,
không lệ thuộc không gian, thời gian mà tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi
người, tản mạn khắp mọi nơi, ẩn hiện trong lịch sử. Nhưng chân lý, chân
đạo như viên ngọc qúi phải có nhiều thiện tâm, thiện chí, ra công tìm
cầu mới mong chấp hữu được.
Còn thánh nhân,
không phải là những người hy sinh vì chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ, hay có
đức tính này, đức tính kia hơn người, mà là những người thông minh, duệ
trí đem tư tưởng mình sáng soi muôn ngàn thế hệ; hoàn thiện, hồn nhiên,
biết tiến thoái, biết lẽ tồn vong, uyển chuyển như bốn mùa, sáng láng
như hai vầng nhật nguyệt, là những người đã đạt tới «thiên vị», «thiên
đức», là những người có tâm hồn bao quát vũ trụ...
Suy cho
cùng, muốn tu thân, cần phải suy tư, tìm hiểu, phải quán triệt các định
luật chi phối vũ trụ, thấu triệt bản thể tâm hồn mình.
Mục phiêu
các thánh hiền xưa nay chỉ có một, lối đường thánh hiền xưa nay đi cũng
chẳng có hai; tư tưởng của các ngài là những dấu, những mốc đã cắm trên
con đường đó, cho hậu sinh khỏi lạc bước. Mục phiêu các ngài sau trước
đều là tìm tuyệt đối thể đáy lòng. Con đường các ngài đi sau trước đều
là con đường nội tâm, những nêu mốc đã cắm trên đường đó tức là tư tưởng
các ngài; những phương pháp các ngài dùng chung qui chỉ là cố gắng học
hỏi, suy tư, thoát sự kiềm tỏa của xác thân vật chất, sống trầm lặng,
biết tập trung tinh thần, ôm ấp lấy Trời, lấy Đạo, lấy Tuyệt đối thể,
đứng vững trên nền tảng bất biến ở trung tâm hoàn võ, trung tâm lòng
người, nắm giữ tinh hoa, vứt bỏ phù phiếm bác tạp...
Muốn biết
ta đã đi đến đâu trên con đường trời muôn dặm, ta hãy xem chí hướng của
ta ra sao, tư tưởng ta thế nào, mong muốn của ta là gì, tầm mắt của ta
đến đâu, độ lượng tâm hồn ta bao nhiêu, lòng ta rung động lên theo những
loại giá trị gì... «Triết nhân tri kỷ».
Trung
Dung viết:
«Biết
xa gần, biết nguyên lai, bản mạt,
Biết
lẽ vi hiển, vừa rỡ ràng vừa e ấp,
Là có
thể bước vào nẻo đức, đường nhân.»
Thiệu
Khang Tiết viết: «Biết Dịch số là biết Trời, biết Dịch lý là biết Trời.»
Hình 25: Vừng Thái
dương tượng trưng Thượng Đế hay Thái Cực ngự giữa hoàn võ.
CHÚ THÍCH
Tu tri
nhất bản sinh song cán,
須
知
一
本
生
雙
幹
Thủy tín thiên nhi dữ vạn tôn.
始
信
千
兒
與
萬
孫
Dương chủ
nhân, Âm chủ vật.
陽
主
人
陰
主
物.
Dịch Kinh đại toàn,
quyển 1, tr.40. Xem hình 24, tr.268.
«Nhất linh chân tính» ký lạc càn cung tiện phân hồn phách. Hồn tại Thiên
tâm Dương dã, khinh thanh chi khí dã. Thử tự Thái hư đắc lai, dữ Nguyên
thủy đồng hình. Phách âm dã, trầm trọc ư khí dã, phụ ư hữu hình chi phàm
thế. Hồn hiếu sinh, phách vọng tử. Nhất thiết hiếu sắc khí động, giai
phách chi sở vi; tức thức thần dã. Tử hậu hưởng huyết thực. Hoạt tắc đại
khổ. Âm phản âm dã, dĩ loại tụ dã. Học nhân luyện tận âm phách tức vi
thuần dương.
一 靈 真 性 既 落 乾 宮
便 分 魂 魄 魂.
在 天 心 陽 也 輕 清 之
氣 也.
此 自 太 虛 得 來 與 元
始 同 形.
魄 陰 也 沉 濁 之 氣 也
附 於 有 形 之 凡 體.
魂 好 生,
魄 望 死.
一 切 好 色
動,
氣 皆 魄 之 所 為.
即 識 神 也.
死 後 享 血
食.
活 則 大 苦.
陰 反 陰 也.
以 類 聚 也.
學 人 煉 盡
陰 魄 即 為 純 陽
(Thái Ất Kim
Hoa Tông Chỉ, tr.4)
- Dịch nghịch số dã...
易 逆 數 也
(Hệ từ hạ)
- Diên lưu tố nguyên
沿 流 溯 源
(Dịch kinh đại toàn, tr.76)
- Thuận tắc nhân, nghịch tắc
tiên 順 則
人 逆 則 仙
(Đạo Nhất Tử
道 一 子,
Tu chân bất tử phương
修 真 不 死 方,
tr.16)
- Thái hư thị viết: Đơn đạo
thánh công bất ngoại hoàn phản.
太 虛 氏 曰:
丹 道 聖 功
不 外 還 返.
Thượng phẩm đơn pháp
上 品 丹 法,
tiết thứ 7.
Cố viết: số vãng giả thuận, thuận kỳ thiên địa sinh lục tử, tự thượng há
hạ, sinh sinh bất tức chi nguyên lý, vô thời hoặc vi, tri dĩ tàng vãng
dã. Tri lai giả nghịch, nghịch dụng lục tử chi lực, hạ học thượng đạt,
tự nhất dương, nhị dương, tam dương, tứ dương, ngũ dương nhi lục dương,
biến hóa tính mệnh bảo hợp Thái hòa.
故 曰 數 往 者 順,
順 其 天 地
生 六 子,
自 上 下 下,
生 生 不 息
之 原 理 無 時 或 違,
知 以 藏 往 也 知 來 者
逆,
逆 用 六 子 之 力 下 學
上 達 自 一 陽 二 陽 三 陽 四 陽 五 陽 而 六 陽,
變 化 性 命
保 合 太 和
(Thái cực
quyền bổng đô thuyết, tr.52)
... Thị cố Dịch nghịch số dã
是 故 易 逆
數 也
(Hệ từ hạ)
Dịch Càn hạ Khôn thượng vi Thái; ngoại Khảm nội Ly vi Ký tế. Dưỡng
sinh gia chi thủ Khảm điền Ly, phản lão hoàn đồng giai thủ nghịch
dã... Dịch nghịch số dã. Dương thượng, âm hạ nhi tất viết: nhất âm
nhất dương chi vị đạo, âm tiên ư dương, chính bất trắc chi thần dã.
易 乾
下 坤 上 為 泰;
外 坎 內 離 為 既
濟.
養 生 家 之 取 坎
填 離,
返 老 還 童 皆 取
逆 也...
易 逆 數 也.
陽 上
陰 下 而 必 曰:
一 陰 一 陽 之 謂
道,
陰 先 於 陽,
正 不
測 之 神 也 (Nhiếp
sinh tam yếu
攝 生 三 要,
thượng, tr.4)
- Cf: Vương xương Chỉ,
Chư tử đích ngã kiến tr.68: Thất kỳ chân tể, mang muội nhất
sinh...
失 其 真 宰 茫 昧
一 生.
Nam Hoa kinh,
Tề vật luận.
... Ngụ chư vô cảnh.
寓 諸
無 境.
... tham vạn tuế nhi
nhất thành thuần.
參 萬 歲 而 一 成
純.
Từ Cấu đến Độn 16 quẻ. Độn đến Bĩ 8 quẻ. Bĩ đến Quan 4 quẻ. Quan đến
Bác 2 quẻ. Bác đến Khôn 1 quẻ.
Lại từ: Phục đến Lâm 16 quẻ. Lâm đến Thái 8 quẻ. Thái đến Đại Tráng
4 quẻ. Đại Tráng đến Quải 2 quẻ. Quải đến Kiền 1 quẻ.
Vãng lai giả dĩ nội ngoại ngôn, dĩ tiêu tức ngôn dã. Tự nội nhi
ngoại vị chi vãng, tự ngoại nhi nội, vị chi lai.
往 來 者 以 內 外
言,
以 消 息 言 也 自
內 而 外 謂 之 往,
自 外
而 內 謂 之 來 (Tống
Nguyên học án, q.37, tr.3)
Cf. Jean Chabosseau, Le Tarrot, p.62:... Ce cycle des lois de
la nature presénte l'analogie alchimique de l'ordre incressant des
évolutions et des involutions atomiques et de leur désintégration
consécutive à leur régrégation: les fluides s'échangent, les natures
pénètrent, - la roue entre en mouvement, - «le Feu de la Roue»,
- les changements s'opèrent... l'inférieur s'élève vers le
supérieur, le fixe va vers le volatil, et celui-ci descend dans la
substance, «pour accomplir les miracles d'une seule chose».
Cf. C.G.Jung, Psychology and Alchemy, p.357:... The
alchemical parallel to this antagonism is the double nature of
Mercurius which shows itself most clearly in the Uroboros, the
dragon that devours, fertilizes, begets, and slays itself and brings
itself to life again. Being hemaphroditic it is compounded of
opposites and is at the same time their uniting symbol, at once
deadly poison, basilisk, scorpion, panacea and saviour...
Nghiên cứu Dịch, ta thấy 64 quẻ là do tứ tượng chồng ba, phát sinh 4
x 4 x 4 = 64. Dưới đây xin trình bày một trong những phương pháp
phát sinh 64 quẻ và sự tương ứng của chúng với 64 nucléotides trong
khoa Génétique.
Ta đặt:
Dương
━━━
và Âm ━
━ . Âm Dương
chỉ có 4 cách phối hợp: Thái Dương, Thiếu Dương,
Thiếu Âm,
Thái Âm (xem hình).
(A
= adenylic acid, G = guanilic acid,
C
= cytidylic acid, U = uridylic acid)
Nếu ta
nhận như hình bên cạnh -->
|
|
Và cho xếp chúng chồng
lên nhau 3 lần ta sẽ có:
I. AAA, AAG, AAC, AAU,
AGA, AGG, AGC, AGU
II. ACA, ACG, ACC, ACU,
AUA, AUG, AUC, AUU
III. GAA, GAC, GAU, GGA,
GGG, GGC, GGU
IV. GCA, GCG, GCC, GCU,
GUA, GUG, GUC, GUU
V. CAA, CAG, CAC, CAU,
CGA, CGG, CGC, CGU
VI. CCA, CCG, CCC, CCU,
CUA, CUG, CUC, CUU
VII. UAA, UAG, UAC, UAU,
UGA, UGG, UGG, UGU
VIII. UCA, UCG, UCC,
UCU, UUA, UUG, UUC, UUU
I/ Tức là Càn, Quải, Đại
hữu, Đại tráng, Tiểu súc, Nhu, Đại súc, Thái.
II/ Lý, Đoài, Khuê, Qui
muội, Trung phu, Tiết, Tổn, Lâm, Đồng nhân, v.v.
Xem Isaac Asimov, The
genetic code, tr.162, 163. Phải chăng hiện tượng sinh lý cũng
theo định luật
Dịch?)
Thánh nhân ký đắc Thiên vị
聖 人 既 得 天 位
(Dịch, Càn quái, cửu ngũ, Truyện)
... Thánh nhân tri tiến thoái, tồn vong nhi vô quá.
聖 人 知 進 退 存
亡 而 無 過
(Dịch, Càn quái, thượng cửu, Truyện)
... Quảng đại phối thiên địa, biến thông phối tứ thời, Âm Dương chi
nghĩa phối nhật nguyệt, dị giản chi thiện phối chí
đức.
廣 大 配 天 地,
變 通
配 四 時 陰 陽 之 義 配 日 月,
易 簡
之 善 配 至 德
(Dịch - Hệ từ
thượng)
Cf.:... Si l'on vous demande ce qu'est un homme divin ou divinisé,
vous répondrez: Celui qui est tout éclairé et resplendissant de la
lumière éternelle et divine, tout embrasé de l'amour éternel et
divin. Nous avons déjà parlé de la lumière, mais il faut savoir que
la lumière c'est-à-dire la connaissance, n'est rien sans l'amour.
(Théologie Germanique - La religion essentielle, p.161)
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13
14
15 16
|