TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16
Chương 16
TỔNG LUẬN
S
au khi đã
phân tích, đã khai triển Trung Dung để nhìn cho rõ các khía cạnh, chúng
ta hãy cùng nhau ước thúc, giản lược Trung Dung để làm nổi bật lên ít
nhiều điểm chính. Trước hết, chúng ta sẽ khảo sát, giải thích lại hai
chữ Trung Dung; sau đó, chúng ta sẽ đặc biệt chú trọng đến mấy vấn đề
triết lý, đạo giáo và mấy định luật thiên nhiên đã được Trung Dung đề
cập.
HAI CHỮ TRUNG DUNG
Muốn hiểu
hai chữ Trung Dung cho minh xác, thiết tưởng phải đặt chữ Trung vào đúng
ngôi vị của nó, tức là phải đặt chữ Trung vào trung tâm điểm các hoạ bản
kinh Thư, kinh Dịch.
Hình 31: Trung là tâm
điểm vòng Dịch.
Thực vậy, trong Hà đồ, Lạc thư, Bát quái, Cửu trù (Hồng phạm Cửu trù),
trung điểm bao giờ cũng tượng trưng cho ngôi vị tối thượng sinh thành
vạn vật.
Đó là:
- Ngũ,
thập (sinh số, thành số) trong Hà Đồ
- Ngũ (
sinh số) trong Lạc Thư
- Thái
cực trong Bát quái
- Hoàng cực trong Cửu trù (Hồng phạm Cửu trù)
Thiệu
Khang Tiết đã minh định rằng các đồ Dịch tiên thiên và hậu thiên đều do
Trung tâm điểm phát sinh.
Đặt Trung vào tâm điểm các đồ Dịch, ta sẽ thấy Trung tượng trưng cho
ngôi Thái cực bất biến trường tồn. Ta sẽ thấy Trung bất thiên, bất ỷ,
không thái quá, không bất cập, muôn đời không biến dịch,
mặc dầu thiên biến, vạn hóa, luôn luôn tiến diễn bên ngoài.
Trung là
nguồn gốc phát sinh vạn sự, vạn vật và cũng hàm tàng mọi hiện tượng.
Trung là nguồn mạch, sống động bất diệt tung tỏa ra muôn muôn, vạn vạn
chi nhánh quần sinh sau này.
Vì thế
tiên hiền mới nói: Trung là gốc lớn thiên hạ,
vì thế Trung mới chí thành, chí thiện, bất biến trường tồn (Dung).
«Khi
tung tràn ngập muôn phương,
Khi
thu ẩn áo khó lường tăm hơi.»
Nếu hiểu
Trung là Thái cực, là Trời, ta sẽ vén được bức màn bí mật của Trung Dung
và Kinh Dịch.
Các đồ
bản Dịch cho ta thấy Trung điểm hay Thái cực vừa tạo thành muôn vật vừa
ẩn áo trong đáy thẳm, lòng sâu muôn vật.
Trung
hay Thái cực vừa chủ sinh vừa chủ thành: vừa sinh hóa tạo dựng, muôn
loài, muôn vật, vừa là khuôn phép, đường lối cho muôn vật thành tựu hòan
thiện mình. Và Trời chẳng ở đâu xa: Trời vốn ở ngay đáy lòng con người;
nên nếu con người muốn hiểu nguyên do, muốn hiểu cùng đích đời mình,
trước hết cần phải hiểu biết Trời.
Trung
Dung viết:
«Biết
người trước phải biết Trời,
Hiểu
Trời chẳng nổi hiểu người làm sao?»
Hình 32
Hơn nữa,
vì Trời ẩn áo huyền vi nơi đáy lòng người, nên con người cần biết phản
tỉnh, biết tĩnh trí, hồi tâm mới có thể tìm ra mọi điều vi diệu của Hóa
công được.
Thiệu
Khang Tiết viết:
«Thiên
hướng nhất trung phân tạo hóa,
Nhân
do tâm thượng khởi kinh luân.»
(Trời
do Thái
cực
phân tạo hóa,
Người
từ Thái cực phát kinh luân.)
Quan niệm
này làm ta liên tưởng đến Duy nhất (l'Un), đến Thần ngôn (Le Logos) của
Plotin, của Philon,
đến Ngôi Hai Thiên Chúa trong bài phi lộ sách phúc âm thánh Jean.
Nếu hiểu
Trung là Thái cực, là Trời tiềm ẩn đáy lòng thì Trung Dung hiển nhiên là
tâm pháp đạo Khổng như các tiên hiền đã chủ trương.
Hiểu
Trung Dung theo nghĩa siêu hình như vậy, ta thấy Trung Dung là mục đích
tối hậu cho mọi tâm hồn hướng về.
Hình 33: Vòng tuần
hoàn của con người.
Lĩnh hội
được vi ý Trung Dung và Dịch Kinh ta sẽ tìm ra đường lối tu thân của cổ
nhân. Đường lối đó đại khái như sau:
Cổ nhân
phân đời người làm hai giai đoạn chính: Nửa đời đầu, phải đem tinh thần
khai thác hoàn cảnh vật chất để thích ứng với hoàn cảnh, để mưu sinh.
Nửa đời sau, khi đời sống vật chất đã được bảo đảm, phải dùng những tiện
nghi vật chất sẵn có, để hoàn hảo tâm thần mình, phục hồi phong thái cũ,
suy nghiệm học hỏi để tìm ra Trời tiềm ẩn trong đáy lòng, để sống đời
đạo đức ngõ hầu tiến tới mức chí thành, chí thiện, nên như vẻ sáng của
Trời, sống kết hợp với Trời.
Sách
Trung Dung, vì chủ trương cao siêu như vậy, nên đã giữ địa vị tối thượng
trong tứ Thư ngũ Kinh.
TRIẾT
LÝ
Đề cập
tính tình, phân tâm hồn thành hai phần tách biệt vẻn vẹn bằng mấy chữ ở
trang đầu, Trung Dung đã phác ra cả một chương trình siêu hình học cho
các triết gia hậu thế.
Về sau,
ngoài hai chữ tính tình, các triết gia đời Tống còn dùng thêm chữ Lý,
Khí, hay Tính, Khí, nhưng đại khái các thánh hiền trước sau vẫn công
nhận tâm hồn có hai phần: thể và dụng; thanh, trọc; động, tĩnh; tinh,
thô rất đỗi khác nhau.
Lúc hồn
nhiên tĩnh lãng, thì là tính, thuần túy chí thiện phổ quát mọi nơi mọi
đời. Lúc đã vương mùi tục lụy trần hoàn, bị ngọai vật công kích dụ dỗ,
thì là tình, vấn vương giăng mắc vẩn đục, lôi thôi. Lúc dục tình đã đua
nhau nổi sóng, thì ngon triều trong dạ sẽ rạt rào, chao động, mất hết
tĩnh lãng hồn nhiên, tâm hồn sẽ mất tự do tự lập, mắc mối trăm nghìn
duyên nợ. Vì thế con đường thiên đạo phổ quát là con đường ‘qui
nguyên, phục mệnh’, trở lại sự tĩnh lãng, quang minh, hiệp hòa
nguyên thủy, bỏ hết mọi tư tà, để tiến tới công chính ngàn thu.
Siêu hình
học Trung Dung là thứ siêu hình giản ước như của thánh Jean de la Croix.
Mục đích
Trung Dung là gây cho chúng nhân một niềm tin tưởng vào sự giáng lâm, sự
hiện diện của Thượng Đế, dạy người phát huy mầm mống hoàn thiện sẵn có
nơi đáy lòng mình, để đi đến chỗ tuyệt diệu, tinh vi, chí thành, chí
thánh, chí cao, chí mỹ.
Trung Dung
đề cập công trình suất tính : theo tiếng lương tâm để tiến tới
Trung Dung, tới thăng bằng hòa hợp, tới thế ‘nhất quán’ giữa
Trời, người. Chủ trương này cũng là chủ trương ‘bão nguyên thủ nhất’
của Đạo Lão,
‘Đả thành nhất phiến’ của Thiền tông.
Nhân sinh
quan của Trung Dung là cố gắng tiến tới hoàn thiện. Như vậy người ta
sinh ra ở đời, không phải là để nhẫn nhục, khắc khổ vô ích, hay để tiêu
dao hành lạc, mà chính là để thực hiện một sứ mạng cao siêu: thần thánh
hóa bản thân bằng sự cố gắng thường xuyên, bằng sự tu luyện toàn diện.
Người
quân tử của Trung Dung lúc nào cũng tận tâm, tận tình, tận trung, tận
hiếu, tận nghĩa, lúc nào cũng khắc khoải thao thức, mong tiến tới chỗ
chí thành, chí thiện. đời người như vậy thực đã có định hướng chứ không
phải sinh ra để:
«Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử
xem con tạo xoay vần ra sao!» (Kiều)
Đời người
như vậy thực đầy ý nghĩa, rất đáng sống. Nhân loại đáng lý không thể
phàn nàn:
«Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.»
(Nguyễn Công Trứ)
Trung Dung
cũng như Kinh Dịch đề cập tới ba thế giới: Địa đạo, Nhân đạo, Thiên Đạo.
Hình 34: Thiên đạo, Nhân đạo, Địa đạo.
Thế tức
là đề cập tới ba đoạn đường trong đời sống nhân loại.
Trước
tiên phải lưu tâm đến hoàn cảnh sinh hoạt, cải thiện đời sống vật chất,
dùng trí óc tổ chức cho đời thêm đẹp tươi, cho giang sơn thêm cường
thịnh. Đó là vật Đạo, địa đạo. Tiếp đến, phải quay về bản tâm mà lo tu
đức lập thân, phát huy ánh sáng nhân nghĩa trong nhân loại. Đó là nhân
đạo.
Cuối
cùng, nếu biết hồi quang phản chiếu, thu hồi ánh sáng tâm thần mà nhìn
cho ra căn để, nguyên do của đời mình sẽ tiến tới giai đoạn giác ngộ,
nhờ đó có thể đi vào nhãn giới thiên đạo.
Cơ tâm hay óc máy móc, tổ chức vẫy vùng trong thế giới vật chất, làm
sáng choang thế giới hữu hình. Cái vẻ đẹp ấy là văn minh. Nhân tâm rong
ruổi trong thế giới tinh thần, đem hương hoa nhân ái điểm tô cho nhân
loại, đem bút thần lễ nghĩa vẽ nên những bức tranh nhân sự tuyệt vời,
làm cho vẻ sáng nhân loại chói lói lên như muôn ánh trăng sao. Vẻ sáng
tâm hồn đó là nhân văn hay văn hóa.
Thế
giới tinh thần ấy thực man mác. Khi nó phát triển tới cực độ, tới chỗ
siêu việt tinh hoa, sẽ bắt được tầm thiên đạo, hòa mình với vinh quang
trời, nên thiên văn, và cung đàn của tâm hồn sẽ hòa điệu với cung đàn
muôn thuở tuyệt vời của đất trời. Đó là Thiên Văn, Thiên đạo. Như vậy,
nếu hiểu Trung Dung một cách chân chính, con người sẽ không lúc nào vừa
lòng với chính mình, vừa lòng với hiện tại, mà luôn luôn cố gắng, cải
thiện không ngừng để tiến tới cao minh cùng cực, tới Trung Dung.
Khi đã đạt tới chỗ tuyệt đỉnh công phu thì bao nhân dục, tư dục sẽ không
còn nữa mà chỉ còn lại phần tinh hoa cao quí, là phần thiên lý chí công,
chí chính.
ĐẠO GIÁO
Đạo
Trung Dung khởi điểm từ một lòng tín ngưỡng thành khẩn.
Không
phải là tin có Trời suông, mà còn tin Trời giáng lâm mọi nơi mọi chỗ,
soi xét mọi uẩn khúc của lòng người. Niềm tín ngưỡng ấy, các kinh văn
thường nhắc tới bằng nhiều thể cách.
Kinh Thư
viết: duy Thiên thông minh.
Sách Nhật
giảng quảng luận như sau: Trời trên tầng cao thăm thẳm, thật chí hư,
chí công, chí thần, chí linh. Không cần nghe mà thông biết mọi sự, không
cần nhìn mà thấy mọi điều. Chẳng những công cuộc hưng vong của các chính
thể, vận hội thịnh suy của các dân tộc không thoát được sự chứng giám
của Ngài, mà ngay muôn điều xảy ra trong những căn phòng tối tăm hẻo
lánh, mắt thế nhân không dòm hành tới được, thì Trời vẫn thông suốt
không sót một mảy may. Ấy Trời thông minh là vậy.
Vì thế
người quân tử trong Trung Dung e dè kính cẩn luôn:
«E dè
cái mắt không nhìn,
Tai
nghe không nổi, cho nên
hãi hùng.»
Địch Nhân
Kiệt, một văn nho đời Đường chỉ vì sực nhớ câu «Hoàng Thiên bất khả
khi» mà không dám làm những điều thương luân, bại lý trong một quán
trọ xa xăm, giữa một đêm thanh vắng. Ông lý luận: giấu người được, chứ
giấu Trời sao được.
Từ chữ
kính, người quân tử sẽ cố vươn tới chỗ chí thành, chí thiện.
Với một
lương tâm bình thản, với một dạ nhất quyết tu đạo lập thân, người quân
tử luôn sống thung dung, tùy thời xử thế. Cũng có khi sống ẩn dật như
chiếc quạt thời đông giá lạnh lùng,
như rồng còn ẩn kín dưới vực sâu,
cũng có khi ra tài Y Doãn,
đem khả năng, tài đức mưu toan điều ích quốc lợi dân,
cũng có khi âm thầm trau dồi kiến văn, đức độ, như rồng tập uốn mình nơi
vực thẳm,
cũng có khi treo gương xán lạn cho muôn người soi chung, đó là khi đạt
tới mức ‘nội thánh, ngoại vương’ của sách Đại Học, Trung Dung,
hay hào cửu ngũ kinh Dịch.
Trung Dung
đã khéo trà trộn Trời vào trong đời sống nhân loại. Sách bắt đầu bằng
chữ Thiên, và tận cùng bằng ‘Đức độ Trời’, một mục phiêu hoàn hảo
tuyệt vời cho mọi người tiến tới.
Bàn về
chính trị, Trung Dung viết:
«Biết
người trước phải biết
Trời,
Hiểu
Trời chẳng nổi, hiểu
người làm sao.»
Có lẽ
ngày nay, nhân loại cũng cần phải sống gần Trời hơn, cần tin tưởng Trời
hơn.
C. Virgil
Gheorghiu, một nhà văn chuyên mô tả những cái phi lý, bất nhân của chiến
tranh, và sự độc tài tàn nhẫn của các cường quốc hiện tại đã viết trong
quyển «La seconde chance»: «Hiện nay nhân loại đang cần một đồng
minh trung kiên không bao giờ có thể bị ám sát, bị công an cảnh sát bắt
được, không thể bị giam giữ được, tra tấn được, một đồng minh kín đáo,
âm thầm, lặng lẽ, một đồng minh có một ngọn lưả thiêng đốt cháy được
muôn tim, có thể biến mọi người thành anh hùng vô địch; đồng minh đó
thường quá, hay được nhắc nhở tới nhiều quá, mà nhân loại vẫn không biết
tên: Đồng minh đó là Thượng đế. (La Seconde chance, tr.432)
Mấy định luật thiên nhiên
a. Định luật tự cường (cố gắng)
Trung Dung
cũng như kinh Dịch cho rằng bí quyết thành công là luôn gắng gỏi công
trình.
«Đã
làm, làm tới tinh hoa,
Tinh
hoa chưa đạt, việc ta còn
làm.»
Con người
sinh ra ai cũng tay không, cũng hèn yếu như nhau, nhưng dần dà mỗi người
có một giá trị khác nhau, tùy ở sự cố gắng, tùy ở sự học hỏi, sự tu
luyện của mình.
Do đó,
con người sinh ra để bất mãn, bất mãn với mọi sự tầm thường, chếch mác,
bất mãn với hiện tại, bất mãn với chính mình. Con người bao giờ cũng
muốn vươn lên mãi, vươn lên tới chỗ cao sang, mênh mang, vĩ đại, bằng
công trình gắng gỏi, bằng học vấn, bằng sự bền bỉ, bằng sự đào luyện tâm
thần trí não, trí não và thể chất.
Phàm
những anh hùng hào kiệt xưa nay, ai cũng đều chê bai những kẻ ăn không
ngồi rỗi, ‘an thân dật lạc’.
Triệu
Khuông Dẫn (Tống Thế Tổ) trong tương lai khi còn hàn vi đã biết khuyên
người em kết nghĩa của mình là Trịnh Ân bỏ sự dật lạc ở miếu Hưng Long
Trang để bước vào con đương lập thân đầy phong sương gian khổ như sau:
«Phàm con người sinh ra phải ráng cho tận nhân lực, chẳng làm việc kia
thì cũng việc nọ, cho có ích với đời, phòng để danh thơm tiếng tốt về
sau. Như vậy trước là rực rỡ đức tổ tông, sau là hiển công sinh thành
cha mẹ, mới gọi là chí khí trượng phu. Nếu ham việc vui sướng vô ích thì
có khác chi phàm phu tục tử.»
Người quân
tử lúc nào cũng phải nói như Tăng tử: «Hai vai gánh nặng, mà đường
thì xa.»
Lịch sử
cũng chứng minh rằng, một dân tộc nào cố gắng sẽ tiến tới cường thịnh,
một dân tộc nào ăn chơi nhong nhóng sẽ sa đọa vào vực thẳm diệt vong;
một cá nhân nào cố công lao tác sẽ tiến tới, một cá nhân nào lêu lổng ăn
chơi sẽ lụn bại, sẽ hại cơm, hại áo của đất trời.
b. Định luật mô phỏng (Bắt chước)
Đường lối
nhân loại, nền luân lý nhân loại đã được ghi vào thiên thư của trời đất,
Con người chỉ việc trông lên trời, nhìn xuống đất là tìm được khuôn
phép, mẫu mực, đường đi nước bước của mình. Nhân loại sinh ra để bắt
chước, nhưng không phải là bắt chước loài vật, xâu xé lẫn nhau để tranh
cướp mồi, mặc cho các thú tính ti tiện phát sinh mà không chút mảy may
kìm hãm. Con người phải biết soi gương đất trời mà xử sự. Đất rộng và
dày, con người cũng cố lo cho sự hiểu biết mình ngày thêm rộng, đạo đức
phúc trạch mình ngày thêm dày.
Đạo trời
là hoàn thiện, là nguyên, là tuyền vẹn, thì mục tiêu của người quân tử
cũng là sự toàn thiện.
Trời vận
hành không hề nghỉ ngơi: người quân tử cũng phải cố gắng không ngừng.
Cuối thế
kỷ 19, Nietzsche (1844-1900) đưa ra chủ nghĩa siêu nhân, và cho rằng ý
chí quật cường (Volonté de puissance) là đặc tính của con người siêu
nhân, nhân loại tiến bộ hay sa đọa là tùy sự tồn vong của ý chí quật
cường đó.
Điểm này
ăn khớp với Trung Dung nói riêng, và đạo Nho nói chung, vì Trung Dung
cũng chủ trương phải cố gắng mới có thể đi đến chỗ chân, thiện, mỹ.
Nhưng từ
khởi điểm ấy, Nietzsche cho ‘người hùng’ của mình được quyền gian
ác, tàn bạo, để ‘bành trướng’, để tiến bộ: «Người siêu nhân của
Nietzsche hiên ngang, xa quần chúng, gánh vác trách nhiệm lớn lao, tâm
hồn bộc lộ hùng tráng như một dã thú; bản năng hiếu chiến, xâm lược, đầy
nhiệt tình thù oán, mưu kế, giận dữ, khoái lạc, mạo hiểm, kiến thức rất
mực uyên thâm...Tao nhã khôn ngoan, quật cường , uy nghi, sâu hiểm.»
«Người anh
hùng của Nietzsche là người anh hùng dữ tợn,... một loài dã thú hùng
tráng, khát máu, đi tìm mồi, một giống nòi quí tộc đã để trên đường đi
của họ những dấu tích man rợ, những cảnh khoái lạc dữ tợn, những hành
động độc ác tàn nhẫn.
Người anh
hùng của Nietsche đã đề cao những thú tính tiềm ẩn trong con người,
trong võ lực. có thể nói được Nietzsche đã đem luật cạnh tranh sinh tồn,
đem cảnh xâu xé nhau để tranh cướp mồi của loài vật áp dụng vào xã hội
loài người. Kết quả dĩ nhiên là chiến tranh, chém giết, và con người bị
vật chất hóa, khí cụ hóa, mất hết mọi giá tri tinh thần.
Trái lại
người quân tử trong đạo Trung Dung có một vẻ hùng tráng khác. Lòng họ
thiết thạch, kiên cương, sống chết vì chính nghĩa và chân lý. Họ không
kiêu sa, ích kỷ, độc ác, chỉ biết cúc cung tận tụy làm phận sự, phục vụ
nhân loại.
Trời cao
sang vô biên vô tận, thì người quân tử cũng cố vươn lên tới chỗ cao
sang, vô biên vô tận, vĩnh cửu, trường tồn.
Trong
trời đất, chỉ có con người đầu đội trời, chân đạp đất, nên con người cần
noi gương trời mà vươn lên, mà tiến tới mãi mãi. Tất cả lịch sử nhân
loại, tất cả những công trình cổ kim, từ những Kim tự tháp cho tới Vạn
lý trường thành, từ những cung vàng, điện ngọc cho tới những lăng tẩm âm
u, bao la, bát ngát, từ những võ công hiển hách cho tới những văn nghệ
phẩm tinh vi, những công trinh khoa hocvĩ đại, nhất nhất đều cho ta thấy
con người muôn thủa lúc nào cũng muốn vươn lên tới chỗ cao đại, tinh vi,
huy hoàng hùng vĩ.
Đà vươn
lên tới chỗ chí thành, chí thiện bất kỳ về một phương diện gì cũng xác
định phẩm giá con người, phân định tôn ti, quý tiện.
c. Định
luật tiến hóa
Như đã
nói trên, Trung Dung từ ngót hai nghìn nam nay đã đề cập định luật tiến
hóa trong vũ trụ, và đã biết áp dụng rất là khéo léo định luật này vào
công cuộc tu thân.
Nhưng
khác với chủ nghĩa duy vật cực đoan hiện đại, chối bỏ Thượng Đế và cho
rằng vạn vật ngẫu nhiên sinh, và biến hóa do sự đấu tranh sinh
tồn (Darwin) hay sự thích ứng với hoàn cảnh (Lamarck), Trung Dung chủ
trương trời đất sinh muôn loài, nhưng mỗi loài vẫn có thể biến thiên
thành nhiều thứ hạng.
Đọc Mạnh
Tử ta thấy chủ trương này đã được các môn đệ đức Khổng đề cập và đem áp
dụng vào công cuộc tu luyện tính tình:
«Hữu Nhược nói: Người năm bảy đấng,
Kìa kỳ lân vẫn giống thú rừng,
Phượng hoàng vẫn loại chim muông,
Thái sơn vẫn đúc theo khuôn đống gò.
Sông với biển vẫn nhà ngòi lạch,
Thánh với phàm một phách thế nhân.
Nhưng thánh phàm muôn phân, ngàn biệt,
Vì thánh nhân bạt thiệp, siêu
quần.»
Thánh với phàm khác nhau ở chỗ hiểu và không hiểu, hoàn thiện và không
hoàn thiện mà thôi. Tóm lại khuôn người chỉ có một, nhưng tiến hóa thì
vô hạn định, cho nên về phương diện tâm tính đức độ, thì con người chỉ
khác nhau một dày một mỏng, một thô, một tinh, một tụ một tán mà thôi.
Như vậy
Trung Dung vừa nhận công trình tạo dựng của trời đất, vừa dành công
trình thành tựu về người, vì con người có thể tiến hóa mãi mãi.
Ai cũng
tiến hóa được, nếu có thiện chí, nếu cố gắng bền bỉ. Nhan Hồi nói: Vua
Thuấn là ai, mà ta là ai? Nếu ta cố gắng làm điều thiện thì ta cũng như
ngài.
Đó chính là đề tài cho các văn gia ngâm vịnh về sau:
«Người là người mà tớ cũng là người,
Nhắm cho kỹ vẫn chênh vênh đầu dốc.»
(Phan Văn Ái)
Các nhà
bác học hiện nay, như Lecomte du Nouy cũng nhận rằng định luật tiến hóa
khi tới nhân loại đã chuyển hướng vào nội tâm. Ông viết trong quyển
«Định mệnh nhân loại»: «Trong thời kỳ nhân loại này, sự tiến hóa vẫn
tiếp tục, nhưng đã đổi chiều. Thay vì tiến hóa về phương diện sinh lý,
hình thể, nhân loại tiến hóa về phương diện tinh thần và siêu nhiên.»
Jean
Rostand cũng chủ trương: «Suy nghiệm về con người, tôi nhận thấy sự hăng
hái quyết tâm của nó luôn vượt cao hơn, muốn tiến triển hơn, vì lẽ đó
tôi sẽ không cho rằng con người trong tình trạng hiện hữu đã tạm hoàn
hảo, như bao người thường nghĩ. Tiền đề của tôi là con người phải có
gắng vượt cao lên, phải rút ra ở bản thân mình một cái gì có giá trị hơn
bản thân ấy.»
Vậy con
người sinh ra, có nhiệm vụ đạt tới chỗ tinh hoa tận dụng mọi khả năng
mình, để tiến tới cao minh chính đại.
Hình 35: Con đường Trung Dung
Âu Dương
Tử cho rằng tất cả cái học siêu vi là tìm ra những phương pháp để mài
giũa, uốn nắn, thay đổi tính tình cho tới chỗ chí thành chí thiện.
Tới chỗ
chí thành chí thiện tức là tới chỗ thiên ý nhân tâm hòa hợp, tới chỗ
tinh hoa thuần túy, tới chỗ hòa hiệp tuyệt đối của tính tình. Thế là
‘qui nguyên phục mệnh’ thế là bước vào thiên giới vĩnh cửu vô biên, phối
hợp với Trời trong một tình siêu phàm tuyệt diệu. Chỗ tuyệt điểm của đạo
Trung Dung chính là chỗ tuyệt điểm của các đạo giáo. Giai đoạn huyền
đồng tức là đại đạo, là chỗ gặp gỡ của các thánh hiền muôn thủa.
Tóm lại,
tinh túy Trung Dung có thể cô đọng lại trong mấy điểm sau:
1. Trong
thâm tâm ta có ảnh tượng Trời. Người quân tử lĩnh hội được điều ẩn áo
nên lúc nào cũng e sợ giữ gìn.
2. Ảnh
tượng ấy hoàn thiện, đó là tính, là thiên mệnh, thiên lý thiên đạo.
3. Nhân
loại phải noi gương hoàn thiện ấy, cố gắng tu thân để tiến tới chỗ chí
thành chí thiện.
4. Tới mức
chí thành chí thiện, tức là kết hợp với Trời, tức là phối Thiên, đạt mức
Trung hòa, thực hiện sự hòa hợp quân bình giữa thiên lý, nhân tâm.
Đó cũng
có thể gọi được là tinh túy của các đạo giáo, và là chân lý thiên mệnh.
Vì thế cổ
nhân cho rằng Trung Dung gồn tóm hết mọi vi diệu của thánh hiền, thâu
tóm hết mọi tinh hoa của Kinh Dịch, của đạo Nho.
Chu Hi cho
rằng: Phải học Đại Học trước, để biết qui mô, đường lối, rồi học Luận
Ngữ để lập căn bản tu thân, kế đó học Mạnh tử để biết các giai đoạn tiến
triển, sau cùng mới đọc Trung Dung để biết lẽ vi diệu của cổ nhân.
Hội ý
Trung Dung ta thấy con người có ba đời sống:
- Một đời
sống vật chất: cần biết thích ứng và chế ngự hoàn cảnh để lo cuộc mưu
sinh. Đời sống này bao trùm cả đời sống tư nhân, gia đình, xã hội con
người.
- Một đời
sống tâm hồn: Cần khuếch sung các đức tính để tâm hồn ngày một thêm đẹp
tươi.
- Một đời
sống tinh thần hay siêu nhiên: Mục đích là phối hợp vời Trời, trường tồn
vĩnh cửu.
Dương Tử
lý luận cách khác, và cho rằng: Thiên hạ có 3 cửa:
Theo dục
tình, là bước vào cửa cầm thú.
Theo lễ
nghĩa là bước vào cửa người.
Theo sự
minh giác, là vào cửa thánh.
Chúng ta
liền hiểu rằng trong trời đất có định, có biến, có động, tĩnh; có doanh,
hư; có phù du, mộng ảo, và có vĩnh cửu trường tồn.
Phàm cái
gì thuộc hình hài vật chất đều thăng trầm, chất chưởng, đều có sinh, có
tử có tươi thắm, có tàn phai; cho nên ta đừng ai oán thế sự biến ảo như
cuộc cờ, đừng than trách cảnh đòi đổi thay như tuồng ảo hóa. Sự thăng
trầm tròn khuyết, chẳng qua là định luật chung cho thế giới hữu hình.
Ta cũng
đừng mải mê chạy theo những thú vui vật chất
«Rượu
nồng đừng quá chén say,
Hoa thơm đừng hưởng tới ngày
xác xơ.»
Cảnh tang
thương biến đổi ấy, lịch sử đã chứng minh rõ ràng. đầu sách Tam Quốc, có
thơ sau:
«Trường
giang về Đông cuồn cuộn chảy,
Làn sóng hoa đào thải hết anh hùng,
Dở hay, thành bại, cát hung,
Ngoảnh đi, ngoảnh lại, đều không còn gì.
Núi xanh biếc vẫn y nhiên đó,
Bóng tịch dương mấy độ tô son.
Bên sông phơ phất mái sương,
Ngư tiều quen thói vui phường gió trăng.
Một hồ rượu tương phùng vui chén,
Vui cười rồi nói chuyện cổ kim,
Cổ kim to nhỏ muôn nghìn,
Dốc
vào mấy chén hàn huyên chuyện
trò.»
Nhưng
dưới cái hình hài vật chất, dưới sự biến thiên phiến diện ấy, chúng ta
còn có một phần vĩnh cửu trường tồn. Đó là phần tính lý, phần thiên
mệnh, thiên lý, phần tinh hoa của tâm hồn.
Vậy chúng
ta phải lĩnh hội chỗ vi diệu đó, để có thể tiến tới chỗ chí thành, chí
thiện, trường tồn vĩnh cửu với đất trời.
Hiểu Trung
Dung như vậy, biết cố gắng cải thiện mình như vậy, tức là học được cái
học của Nhan Hồi, nối được cái chí Y Doãn,
tức là thông đạt được bí quyết của đạo thánh hiền xưa; đó tức là ‘tham
tán tài thành’, trợ giúp đất trời, làm công cuộc tài bồi đức độ để
thành tựu mình.
Thế tức là
‘ức âm tiến dương’: phá hết mây mù tăm tối cho vừng dương muôn thuở
hiện ra; ‘trưởng thiện tiêu ác’: tài bồi mầm thánh thiện và làm
tiêu ma hết mọi điều gian ác.
Suy rộng
ra, con đường Trung Dung tức là ‘Con đường hoàn thiện’ lên tới
mức cao siêu sẽ tiến tới trung tâm huyền diệu vũ trụ, trở về Thái cực
của bát quái, tiến vào bản nguyên ‘ngũ thập cư trung’ của Thái
cực hà đồ,
phối hợp với Thượng Đế.
Muốn được
vậy, ta cần phải cố gắng, cố gắng không ngừng, cố gắng mãi mãi, cần phải
‘cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ’,
hết lòng, hết sức đến chết mới thôi.
Và để kết
thúc tưởng nên nhắc lại một lần nữa châm ngôn của hai vua Nghiêu,
Thuấn:
«Lòng
của trời siêu vi, huyền
ảo,
Lòng
con người điên đảo, ngả
nghiêng.
Tinh
ròng chuyên nhất ngày
đêm,
Ra
công ra sức giữ nguyên
lòng trời.»
Nhất vật kỳ lai hữu nhất thân,
一 物 其 來
有 一 身
Nhất thân hoàn hữu nhất càn
khôn.
一 身 還 有 一 乾 坤
Năng tri vạn vật bị ư ngã,
能 知 萬 物
備 於 我
Khẳng bả tam tài biệt lập
căn.
肯 把 三 才
別 立 根
Thiên hướng nhất trung phân
tạo hóa,
天 向 一 中 分 造 化
Nhân do tâm thượng khởi kinh
luân.
人 由 心 上 起 經 綸
Thiên nhân hà hữu lưỡng ban
nghĩa,
天 人 何 有 兩 般 義
Đạo bất hư hành chỉ tại
nhân.
道 不 虛 行
只 在 人
(Thơ: Quan Dịch của
Thiệu tử. Tính lý, q.5, tr.47)
Ici
c'est l'Un qui se trouve au sommet de la pyramide. II est l'absolu, la
cause et la fin de toute réalité, mais il est indéfinissable, car toute
définition est une limltation et l'Un est illimité, infini, susceptible
seulement par conséquent de déterminations négatives... Maîtriser la
chair, s'émanciper des préoccupations terrestres, vivre dans la pensée
de l'Un une vie de pureté parfaite, tel est dès lors le but auquel tend
Plotin...
Au commencement était le Verbe le Verbe et le Verbe était auprès de Dieu
et le Verbe était Dieu. Il était au commencement auprès de Dieu. Tout a
été fait par lui et sans lui, rien n'a été fait de ce qui a été fait
(Evangile de Saint Jean - Prologue l, l-3) Cf. Luc 17,20,21: Interrogé
par les Pharisiens: «Quand va venir le royaume de Dieu?" Il leur
répondit:"Le Royaume de Dieu ne doit pas venir ostensiblement. On ne
dira pas non plus: "Le voici!" ou "le voilà!" car déjà le royaume de
Dieu est en vous."
Cf. Aussi Upanishads:
- Il est l'Un lumineux, le
créateur de tout, le Mahatma. Toujours dans le cœur des peuples établi;
- Révélé par le cœur, par
l'intuition, par l'intelligence.
- Celui qui le connaît
devient immortel...
Địa đạo mẫn thụ. Nhân đạo mẫn chính.
地 道 敏 樹,
人 道 敏 政
(Trung Dung,
ch.20, tr.66)
...
thành giả, phi tự thành kỷ nhi dĩ dã, sở dĩ thành vật dã. Thành kỷ, nhân
dã, thành vật, trí dã.
誠 者 非 自 成 己 而 已
也 所 以 成 物 也 成 己 仁 也,
成 物 智 也
(Trung
Dung, ch.25, tr.78)
Đầu sách: Thiên mệnh chi vi tính
天 命 之 謂 性.
Thiên hạ hữu tam môn: Do ư dục tình, nhập tự cầm môn. Do ư lễ nghĩa,
nhập tự nhân môn. Do ư độc tri, nhập tự thánh môn.
天 下 有 三 門:
由 於 欲 情
入 自 禽 門.
由 於 禮 義 入 自 人 門.
由 於 獨 知
入 自 聖 門
(Notitiӕ
sinicӕ, p.176)
Ẩm tửu mạc giao thành mính đính,
飲 酒 莫 教
成 酩 酊
Khan hoa thận vật đáo ly
phi.
看 花 慎 勿
到 離 飛 .
Cổn cổn Trường giang đông thệ thủy,
滾 滾 長 江 東 逝 水
Lãng hoa đào tận anh hùng,
浪 花 淘 盡
英 雄
Thị phi, thành bại chuyển
đầu không.
是 非 成 敗 轉 頭 空
Thanh sơn y cựu tại.
青 山 依 舊
在
Kỷ độ tịch dương hồng.
幾 度 夕 陽
紅
Bạch phát ngư tiều giang chử
thượng,
白 髮 漁 樵 江 渚 上
Quán khan thu nguyệt phong.
慣 看 秋 月
風
Nhất hồ trọc tửu hỉ tương
phùng.
一 壺 濁 酒
喜 相 逢
Cổ kim đa thiểu sự,
古 今 多 少
事
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16
|