TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12
13 14
15 16
Chương 12
NHÂN SINH QUAN THEO TRUNG
DUNG VÀ DỊCH LÝ
V ì không hiểu được tầm quan trọng
và cao siêu của Trung Dung, nên người đời thường cho rằng Trung Dung đưa
ra một tập sống trung bình, không thái quá, không bất cập, một nếp sống
cầu an, không gây mâu thuẫn, để sống một cuộc đời thoải mái, an nhàn.
Chủ trương này gần đây đã được chính học
giả Lâm ngữ Đường mượn lời thơ Lý Mật Am giới thiệu cùng đọc giả Âu Mỹ,
đây là lập trường «Trung Dung» hiểu theo nghĩa lưng chừng, nước đôi đó:
«Ta sống quá nửa đời phù phiếm,
Mới nhận ra huyền nhiệm Trung Dung.
Trung Dung hương vị khôn cùng,
Làm cho lòng dạ tưng bừng niềm vui.
Lúc mà cái con người sướng nhất,
Chính là khi tới cấp trung niên.
Quang hoa dùng dắng triền miên,
Như chờ như đợi, gót tiên tạm dừng.
Cõi trần lọt giữa chừng Trời đất,
Giữa tỉnh quê, ta cất nhà ta.
Thảnh thơi ta mở trại hoa,
Giữa chừng sông núi, la đà nước non.
Biết vừa đủ, tiền nong vừa đủ,
Vòng lợi danh, vương nửa tấm son
Không sang nhưng cũng dễ nom,
Không giàu nhưng cũng còn dòn hơn ai.
Nhà ta xây nửa đài nửa các,
Đồ đạc ta lác đác đủ chơi,
Áo ta cũ mới chơi vơi,
Uống ăn na ná như người bậc trung,
Vài tôi tớ không thông không dở,
Vợ con ta đơ đỡ ta ưng,
Nửa tiên nửa tục lừng chừng
Nửa cùng thần thánh, nửa cùng thê nhi,
Nửa bụng dạ lo vì con cái.
Nửa tâm hồn gởi lại Hoàng thiên,
Để khi thoát xác, ta yên,
Biết đường thưa gửi, biết niềm tới lui.
Ngà say là lúc ly bôi,
Đóa hoa hàm tiếu là thời mê ly.
Buồm nửa cánh, thuyền đi thanh thả.
Cương vừa giong, vó ngựa mới hay.
Quá giầu phiền lụy sẽ dầy,
Quá nghèo cuộc sống sẽ đầy truân
chuyên.
Trần ai sướng với phiền khó tách,
Trong ngọt ngào pha phách đắng cay.
Hưởng đời đừng quá mê say,
Lừng chừng đại khái, tháng ngày tiêu
dao.
Nhưng nếu Đức Khổng và các danh nho chỉ
đưa ra cho nhân loại một mục phiêu, một lý tưởng tầm thường, thì có gì
đáng cho hậu thế kính tôn.
Nếu Trung Dung và Kinh Dịch đã được các
danh nho, các tiên hiền Đông Á cho là tuyệt phẩm thì nó phải có gì cao
siêu gấp bội. Hơn nữa đã là tinh hoa nhân loại, chắc chắn phải tế vi ẩn
náo, đã là Duy Tinh, Duy Nhất thì phải tuyệt đỉnh công phu. Bác tạp dễ
tìm, tinh hoa khó kiếm: kỳ hoa dị thảo đâu phải của mỗi sớm bán mua
ngoài cửa chợ!
Cho nên, có tốn công nghiên cứu, truy tầm,
mới mong tìm ra được vi ý của cổ nhân, tìm ra được đường lối của thánh
hiền…
TIÊU CHUẨN ĐỂ
ĐI TÌM ĐƯỜNG LỐI CỔ NHÂN
Nhưng lấy đâu ra tiêu chuẩn để đi tìm
đường xưa, lối cũ. Hãy giở Trung Dung, đường lối thánh hiền phải hợp với
nhân tâm thế đạo, hợp định luật đất Trời. Trung Dung viết:
«…Đạo quân tử phát xuất tự thâm tâm,
Đem trưng bày phổ cập tới thứ dân.
Khảo chứng tam vương, không có chi lầm
lỗi,
Sánh với luật đất Trời không phản bội.
Thánh nhân ngàn đời sau chẳng hề có chê
bai…
So quỷ thần, đường lối đúng không sai
Thế là đã biết lòng Trời đó,
Thánh nhân ngàn đời sau chẳng chê bai,
Thế là đã biết lòng người to rõ.»
Dịch Kinh viết: «…. Thực là mênh mông
rộng rãi sánh đất Trời, biến hóa tựa bốn mùa, theo đúng chiều âm dương,
sánh với hai vầng nhật nguyệt, tốt lành giản dị, phối hợp với đức tối
cao.»
Hơn nữa con đường lý tưởng ấy đã đã được
vẽ thành những đồ bản trong Dịch Kinh.
Vậy ta chỉ cần nghiên cứu tìm hiểu các đồ
bản, để tìm ra con đường đạo lý. Sau đó, ta sẽ khảo sát xem con đường
đạo lý ấy có hợp với nhân tình thể thái, với định luật đất Trời, với chu
kỳ nhật nguyệt, tinh thần hay không.
Có những tiêu chuẩn như trên, ta sẽ tha hồ
lưng túi gió trăng, buồm mây chèo quế, lãng du trong rừng Nho biển Thánh
mà không lo lạc bước.
ĐƯỜNG ĐỜI THEO
DỊCH VÀ TRUNG DUNG
Nghiên cứu các đồ bản Dịch, các họa bản
Bát Quái, ta đều thấy ngôi Thái cực được đặt vào trung tâm điểm. Ý Cổ
nhân muốn nói Dịch, hay Vô Cực, hay Thái Cực, hay nói nôm na là Trời, là
Tạo Hóa ở ngay trung tâm huyền diệu của vũ trụ. Người là tiểu vũ trụ,
tức thị, Trời cũng ở ngay trong tâm hồn để làm trung tâm (Trung) bất
biến (Dung), làm chân tâm nuôi sống con người, làm giường cột (axe) cho
con người dựa nương.
Ta thường thấy dân Á Đông treo bát quái
trước nhà mong trừ tà ma, phải chăng đó là tục lệ xa xưa để tỏ lòng tôn
kính Thái Cực ở trung tâm Bát Quái, tượng trưng cho Trời.
Cắt nghĩa như vậy thì Trung Dung lại là
Thái Cực, Trung Dung lại là Hồng Tâm cho mọi người ngắm vào, lại là mục
đích thâm viễn của cuộc đời. Còn Dịch sẽ bao quát mọi sự biến hóa của vũ
trụ và của con người mà mục đích tối hậu là thực hiện được Trung điểm
hoàn thiện đó.
Hình 20: Phục
hi bát quái phương vị đồ
Nếu
hiểu rằng Trời ở ngay Trung Tâm huyền diệu của vũ trụ; ở ngay trong tâm
khoản con người, thì ta sẽ hiểu bài toán cao siêu mà Trời ra cho Nhân
loại: Đứng trong khoảng càn khôn biến hóa vô lường làm sao tìm ra được
lối về Trung Tâm bất biến?
Biên khu luân lạc từ bao,
Tìm sao cho thấy đường vào Trung Dung ?
Đường Trung Dung linh lung ẩn khuất
Nẻo Bồng Lai gai lấp lau che !
Phục
Hi đã giải bài toán đó trước tiên bằng mấy họa bản không lời. Nghiêu,
Thuấn, Văn Vương, Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Chu Tử đều lãnh hội được vi
ý của Phục Hi đã cố giảng giải cho ta, nhưng bức màn bí mật vẫn còn như
khép kín, vì lời lẽ quá cao làm ta lạc lõng.
Hình 21: Vũ trụ tòng
trung khởi nguyên đồ
Thiệu
Khang Tiết là người đầu tiên giải thích rõ ràng hơn, chỉ vẽ cho ta biết
đâu là đường lối Trời, đâu là đường lối người bằng cách đánh số tám quẻ,
và bằng bài thơ sau đây:
«Nhĩ mục thông minh nam tử thân
耳 目 聰 明 男 子 身
Hồng Quân phú dữ bất vi bần
洪
鈞 賦 予 不 為 貧
Tu tham nguyệt quật phương tri vật
須 探 月 窟 方 知 物
Vị nhiếp thiên căn khởi thức nhân.
未 躡 天 根 豈 識 人
Càn ngộ Tốn thời quan nguyệt quật,
乾 遇 巽 時 觀 月 窟
Địa phùng lôi xứ kiến thiên căn.
地 逢 雷 處 見 天 根
Thiên căn, nguyệt quật thường lai vãng,
天 根 月 窟 常 來 往
Tam thập lục cung đô thị xuân.»
三 十 六 宮 都 是 春
Tạm dịch như sau:
Tai mắt: nam nhi đứng cõi đời,
Lòng mang Tạo hóa há đâu chơi !
Quyết thăm nguyệt động cho hay vật,
Cố hiểu thiên căn để biết người.
Trời nổi gió giông thông động nguyệt,
Đất vang sấm chớp lộ căn Trời.
Căn Trời động nguyệt thường lai vãng,
Ba sáu cung xuân trọn vẹn đời.
Hội ý
Thiệu Khang Tiết, ta thấy rằng công cuộc tạo hành vũ trụ luôn đi từ chỗ
phác giản đến tần phiền theo hình vẽ sau:
1
➔ 2 ➔ 3 ➔ 4 ➔ 5 ➔ 6 ➔ 7 ➔
8 |
|
Còn công cuộc tu luyện con người phải
chia làm hai giai đoạn:
1. Nửa đời đầu (5
➔ 6 ➔ 7 ➔ 8), đi từ phác giản
đến tần phiền, Tinh thần phải mạo hiểm vào trần hoàn và vật chất để tìm
hiểu vũ trụ, để mưu sinh. Đó là giai
đoạn hướng ngoại, giai đoạn nghịch mà tinh thần sẽ bị nô lệ hoàn cảnh
rất nhiều (khuất
屈),
đó là giai đoạn ra đi (khứ
去
).
2. Nửa
đời sau (4
➔ 3 ➔ 2 ➔ 1),
đi từ tần phiền đến phác giản, từ thô đến tinh, dùng vật chất để tài bồi
cho tinh thần ngày thêm cao đẹp cho đến chỗ thuần túy chí thiện, nên như
ảnh tượng Trời (Càn
乾),
khả dĩ có thể kếr hợp với Trời, vào yên nghỉ được ở Trung tâm huyền diệu
của Vũ trụ (Thái cực, Trung Dung). Đó là giai đoạn thuận, giai
đoạn trở về (lai). Trong giai đoạn này tinh thần dần dần sẽ chế ngự được
hoàn cảnh, sẽ được thảnh thơi thoải mái (thân
伸).
Hai giai đoạn trên được xác định bằng đồ
bản sau đây:
Nên nhìn kỹ 32 quẻ thiên tiên bát quái
phía hữu, ta thấy hào sơ (hào nằm trong cùng) toàn là hào âm; còn nhìn
sang 32 quẻ phía trái, ta thấy hào sơ (hào nằm phía trong cùng) đều là
hào Dương. Vì thế Hệ Từ đã nói: Nhất âm nhất dương chi vị đạo… Đó là lẽ
«Âm Dương đối trĩ» của Dịch Kinh.
Thánh hiền thiên cổ đã đem quẻ Cấu «phong
trần» để tượng trưng bước đầu đường luân lạc của con người, và đem quẻ
Phục «hồi phục» để đánh dấu giai đoạn trong sáng của những người đã thấy
«Thiên địa chi tâm».
Đường
lối này là theo đúng lẽ Âm Dương tiêu trưởng của đất Trời.
Giai
đoạn đầu là «Dương tiêu Âm trưởng» con người sa đọa, lạc
lõng dần vào cảnh phù du hư ảo bên ngoài, đem
tâm thần bán rẻ lấy bát cơm manh áo, đem
thân làm tôi tớ cho hoàn cảnh xã hội, mà vẫn lấy thế làm vinh dự. Trong
giai đoạn này, vật chất dần dần đóng vai trò tối thượng. Nhưng có giai
đoạn này thì giang san mới được tô điểm, hoàn cảnh vật chất của quần
chúng mới được cải thiện. Tinh thần trong giai đoạn này dần thu gọn lại
như một ánh sao trên bầu trời vân vũ.
Hệ Từ viết: «Con sâu đo nó co để rồi nó
duỗi. Con rồng, con rắn nó ẩn để bảo tồn tấm thân. Có hiểu kỹ càng mới
thấy lợi ích lớn lao. Cầu an thân trước rồi mới có ngày sùng Đức cả.»
Đó tức là:
«Anh hùng khi gặc khúc lươn
Khi cuộn thời ngắn khi vươn thì dài.»
(ca dao)
Giai
đoạn sau là «Âm tiêu, dương trưởng». Tinh thần đã biết
hướng thượng, tìm ra nguồn mạch cao cả của mình, và sẽ dùng vật chất làm
thang mây mà tiến lần về Trời.
Trong giai đoạn này,
tinh thần dần dần đóng vai trò tối thượng. Nó thích hợp với những người
đã tuổi, đã già, những con người đã biết quẳng gánh lo, thoát vòng danh
lợi để quay về tu luyện bản thân nêu gương sáng soi cho đời, mong kết
hợp với Trời để được trường sinh bất tử. Ngược lại, vật chất xuống giá
dần để cuối cùng biến thành chiếc xe mây cho khách du rong ruổi trên
đường «thiên lý» sáng trong như ngọc thạch.
Con đường
lý tưởng này gồm cả hai bề vật chất, tinh thần uyển chuyển diễn tiến
theo đà tuổi tác, như một bài thơ, một bản nhạc mà tiết tấu hòa nhịp với
trăng sao.
ĐỜI SỐNG CON
NGƯỜI LÝ TƯỞNG VỚI CHU KỲ NHẬT NGUYỆT TINH THẦN
Con
người lý tưởng mong mỏi khi giã từ thế tục, tâm hồn sáng quắc như mặt
trăng ngày rằm, như mặt trời chính ngọ, hay mặt Trời ngày Hạ chí. Mà kỳ
diệu thay, nếu ta theo vòng Dịch trên mà đi tuần tự như vậy, thì ta sẽ
thấy ta lúc thoát tục, cũng là trong lúc trăng tròn, hay lúc mặt trời
chính ngọ.
Con người lý tưởng lúc sơ sinh cũng như
vầng trăng vừa quá rằm đẹp đẽ. Nhưng dần dà lớn lên, lạc lõng vào cuộc
đời tìm sinh kế, cũng như vầng trăng khuyết dần, mờ dần, đến lúc công
danh ở đời rực rỡ, lợi lộc ở đời dồi dào, thì lại là lúc mà tinh thần
nghèo nàn nhất.
Nhưng, con người lý tưởng không thể bị vật
dục che mờ mãi; nhờ suy tư về sự chất chưởng bên ngoài, con người đó có
ngày sẽ tìm lại được nguồn sống bên trong, sẽ dần dần tài bồi cho tâm
hồn mình thêm hoàn bị, và lúc thoát ly cuộc đời, sẽ rực rỡ như trăng hôm
rằm.
Con đường lý tưởng nói trên cũng vạch lại
sự thăng trầm của vừng dương.
Sau ngày Hạ chí, mặt trời vào cung Cự
Giải; ánh sáng và sức nóng một ngày một giảm cho tới cực độ ở ngày Đông
chí.
Nhưng, từ ngày Đông chí trở đi, thì mặt
trời lại nóng lên sáng lên dần mãi, đem ánh dương quang đượm nhuần cho
hoa lá trổ sinh, tưng bừng rộn rã với ngày xuân, và dần dần trở lại ngôi
vị tối thượng vào ngày Hạ chí.
Hình 22: Chu kỳ mặt trăng
Nếu xét
vòng chu thiên trong một ngày đêm, thì cuộc đời lý tưởng của người quân
tử lúc sơ sinh cũng đẹp y như mặt trời lúc quá ngọ. Lúc lớn lên, bị vật
dục che mờ, người quân tử cũng như mặt trời trải qua những cảnh hoàng
hôn và cảnh đêm dài tịch liêu u tối; nhưng rồi ra, con người lý tưởng ấy
dần dà sẽ gỡ được mọi tần phiền, để cùng mặt trời, trang trọng hiện lên
trên nhãn giới lúc bình minh muôn thủa cùng bình minh hứa hẹn một trời
trong sáng mới và khi lìa thế sự, sẽ là «Nhật lệ trung thiên» sáng quắc
cả bầu Trời…
Hơn nữa, con đường Hoàng Đạo
mà người lý tưởng đi cũng là con đường mà Nhị Thập Bát Tú ruổi rong.
ĐƯỜNG ĐỜI LÝ
TƯỞNG VÀ LẼ BIẾN THÔNG CỦA 4 MÙA
- Đem sánh với bốn mùa, ta thấy con đường
lý tưởng này hợp lẽ biến thông của thời tiết.
Lúc sơ sinh là lúc nhựa sống tràn đầy như
muôn hoa khoe sắc trên cành sau ngày Hạ Chí. Lúc lớn lên bước dần vào
cuộc đời, thấy làn tâm sự cũng dần ngã sang thu, và đến lúc hoa niên,
khi đã tiêu pha hết vốn liếng tinh thần, khi đã:
«Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu.»
Tâm hồn
lắm lúc cảm thấy lạnh lùng, như băng giá. Nhưng có sương tuyết lạnh lùng
mới có lại ngày xuân ấm áp: Trong những giờ phút con người chán ngán
nhân tình thế thái lại là lúc con người thấy mở tung trong tâm khảm mình
một nhãn giới vô biên.
Thế là khi mái tóc hoa râm, thì tinh thần
lại đượm màu xuân sắc. Một nguồn thơ mộng mới dâng lên giữa những cảnh
ngộ éo le của cuộc đời. Mùa xuân đầy hy vọng trở về với một nguồn sống
tinh thần mới …
Và cũng
như cây đâm chồi nảy lộc, vươn mãi lên khung Trời trong ngày xuân ấm áp,
tâm hồn cũng vươn mãi lên cho tới vinh hoa cao đẹp. Cuối cùng lúc từ giã
cuộc đời, tâm hồn vẫn còn chứa chan nhựa sống như Trời mùa hạ. Bao công
lao sự nghiệp của cuộc đời bây giờ nở tung như muôn hoa tươi thắm để
không bao giờ tàn phai…
CON ĐƯỜNG LÝ
TƯỞNG VỚI NHÂN TÂM THẾ ĐẠO
Con đường lý tưởng đó cũng rất phù hợp với
nhân tâm thế đạo.
Con
người ta bao ngàn năm nay, vì không hiểu định luật thiên nhiên nên đã
không đi theo đúng nhịp thời gian tuổi tác, gò bó mình vào những khuôn
khổ chật hẹp, máy móc hóa một cuộc đời đáng lý là
thơ mộng, hay lại quá phóng túng mình
đến tan tác cả cuộc đời. Mặc dầu vậy, họ vẫn phác họa lại trong cuộc đời
mình bóng dáng cuộc đời lý tưởng đó.
Bé thì thơ ngây, hồn nhiên vô tội; rồi dần
dà trở nên phóng ngoại, trở nên tò mò, rồi cũng tranh đấu, xông xáo,
cũng dấn thân vào phong trần vật chất như ai. Lúc mái tóc hoa râm, lắm
lúc cũng thấy giật mình muốn đoạn tuyệt với cuộc đời phóng đãng của mình
muốn «hồi tâm tu tỉnh». Khi trở về già thì không ai bảo ai, bất kỳ thuộc
tôn giáo nào, con người cũng muốn quay về cùng Trời, Phật, Thần, Thánh,
cũng kinh kệ tụng niệm như ai …
Càng
dấn thân (engagement) vào đời phong vũ bao nhiêu lại càng mong
muốn thoát thân (dégagement) ra ngoài vòng cương
tỏa bấy nhiêu. Nếu như thấy được «Thiên địa chi tâm», tìm ra được
ảnh tượng Trời trong đáy lòng mình là sẽ bước được vào con đường giải
thoát.
Nói rộng ra, thì nhân loại cũng đang đi
trên vòng càn khôn đó, nhưng chập chạp ….
Giai
đoạn đầu là giai đoạn đạo hạnh phù phiếm xốc nổi bên ngoài, để rồi dần
dần lạc lõng vào giai đoạn dị đoan mê tín. Càng phóng ngoại bao nhiêu,
càng chạy theo cái học «Trục vật» bao nhiêu thì lại càng đi đến chỗ sa
đọa tinh thần bấy nhiêu, càng «Nghịch thiên», «bối Thiên» bấy nhiêu.
Nhưng chính nhờ giai đoạn sùng thượng vật chất này mà nhân loại đã giải
quyết được những vấn đề mưu sinh, thích ứng với hoàn cảnh, nhân loại đã
xây dựng được hạ tầng cơ sở cho vững chắc.
Nhưng,
khi đã trưởng thành, khi đã quá đâm chém nhau, quá dè bỉu, ghen ghét
nhau, quá bóc lột áp bức nhau, nhân loại sẽ dần dần trở lại sùng thượng
các giá trị tinh thần vĩnh cửu. Hiểu cuộc đời theo lẽ Dịch nói trên sẽ
mở một con đường tiến hóa bao la cho cá nhân cũng như cho nhân quần xã
hội.
Cá nhân sẽ tùy theo tuổi tác mình, tùy
theo «thời», tùy theo khuynh hướng của từng tuổi mà làm những công tác
mình phải làm để cây đàn bản thân lúc nào cũng hòa âm đúng cung điệu
tiết tấu gia đình, xã hội quốc gia, quốc tế, nhân loại và đất trời. Đó
tức là biết «ứng biến theo trời».
Nhân loại và cá nhân
sẽ không ăn rễ sâu xa vào vật chất mà chỉ coi vật chất là phụ thuộc, văn
minh vật chất là một chặn đường tiến hóa của mình, một lớp lang nhỏ bé
trong tấn tuồng vĩ đại của Trời đất.
ÂU Á GẶP NHAU
TRÊN ĐƯỜNG HOÀNG ĐẠO
Các
nước cổ Ba Tư, Ai Cập, Chaldée không biết vòng Dịch chu thiên của Phục
Hi, nhưng lại nghĩ ra vòng Hoàng Đạo với những ẩn ý tương tự vòng Dịch.
Vòng
Hoàng Đạo cũng có 12 cung, ứng với 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ,
Ngọ, v.v. của vòng Dịch. Cung Mùi là cung Cự Giải (cancer), cung Tý là
cung Nhân Mã (Sagitaire), cung Sửu là cung Ma Yết (Capricorne), cung Ngọ
là cung Song Tử (Gémeaux), v.v.
Hình 23: Vòng Hoàng Đạo
đối chiếu với vòng Dịch
Thiệu
Khang Tiết phân biệt hai chặn đường Cấu và Phục, thì Macrobe cũng cho
rằng Cung Cự Giải là cửa người và Cung Ma Yết là cửa thần minh, đôi bên
cách nhau một giải Ngân Hà. Giải Ngân Hà ấy phải chăng đã được tượng
trưng bằng con đường lượn qua giữa vòng bát quái của Chu Dịch.
Các sách cổ Á Đông dùng con rồng để tượng
trưng các đấng thánh nhân, nên cũng cho con rồng biến hóa theo vòng Dịch
trên: «Rồng có thể tối hay sáng, ngắn hay dài. Xuân phân bay bổng lên
Trời, thu phân lặn sâu đáy vực.»
Các sách cổ Ai Cập thì lại có câu chuyện
thần thoại về thần Osiris (Thái Dương Thần) thay vào đó. Thần Osiris mới
đầu cũng bị gian truân đọa đầy, sau Xuân Phân lại trở về ngôi cửu ngũ.
Tóm lại, các Đồ Dịch cũng như vòng Hoàng
Đạo, tuy không lời, nhưng chứa chan ý nghĩa.
Thiệu Khang Tiết nói: Đồ Dịch tuy không
văn tự, nhưng ta nói suốt ngày cũng không ra ngoài được vấn đề, vì tất
cả nghĩa lý của Trời đất muôn, muôn vật đều nằm trong đó.
Ý CỔ NHÂN
Thánh hiền Đông Á mượn chủ đề Dịch để biện
minh thuyết «Nhất sinh vạn» và chỉ lối đường để ta có thể từ «Vạn qui
nhất».
Dịch gọi đó là phương pháp «Khai vật thành
vụ»,
cho xem trước đầu đuôi chuyện đời rồi mới dạy cho biết cách hoàn thành
lý tưởng.
Đường đời, theo Dịch Kinh, đều do một tâm
điểm tung ra muôn vạn ngả. Ta có lao đao suốt đời cũng chẳng sao đi hết
muôn vạn ngả đường. Càng phiêu lưu, càng lạc lõng. Càng đi sâu vào một
con đường, càng thông tỏ chi tiết về một vấn đề, thì lại càng thấy mình
bất lực kém cỏi, lại càng mù mờ về toàn thể vô biên. Đi ra vạn, phiêu
lãng trên muôn vạn ngã đường, dù có thành công đến đâu, trong thâm tâm
vẫn thấy mình như thân phận cánh bèo, bình bồng mặt nước chân mây, mà
chẳng biết sẽ trôi dạt về đâu, bởi vì vạn chỉ là như một bóng hình hư ảo
của nhất:
«Đồ tri tụ xứ ninh tri tán,
Đãn thức phù thời ná thức trầm?»
(thơ bèo).
Trở lại được với NHẤT sẽ là con người lý
tưởng. Người xưa gọi thế là chí nhân,
chân nhân. Đào Hư Tử cho thế là tâm hồn trở về đấng có trước đất trời.
Lối đường do «vạn qui nhất» đã được xác
định bằng các đồ Dịch của cổ nhân, theo đúng chiều ngũ hành tương sinh.
Chu Hi
cũng vẽ con đường đó bằng cách tán phân bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh
lên vòng càn khôn.
HAI NGẢ ĐƯỜNG
ĐỜI
Con đường từ «Vạn qui nhất» trên vòng
Dịch, mới trông tưởng là tròn trĩnh không kẽ hở. Nhưng thực ra con đường
đó vẫn phân làm đôi ngả Âm Dương.
Nửa đời đầu, vì con người một ngày một
chìm đắm vào bóng tối vật chất, nên Kinh Dịch gọi là Dương đạo, Thiên
đạo, hay Càn đạo.
Hệ từ viết: «Nhất âm nhất dương chi vị
đạo. Kế chi giả thiện dã, thành chi giả tính dã.»
一 陰 一 陽 之 謂 道.
繼 之 者 善
也,成
之 者 性 也.
Đường đời có 2 chiều: 1 chiều âm 1 chiều
dương, bước vào đường đời đã là hay, đi cho đến cuối đường sẽ phục hồi
được tính Trời.
Đi chiều âm, đi vào con đường vật chất sẽ
tiến tới chỗ Bất nhân, chỗ không toàn thiện.
Đi chiều dương, đi vào con đường tinh
thần: sẽ tiến tới chỗ Nhân chỗ toàn thiện.
Đức Khổng Tử nói: Đường có 2 ngả: «Nhân và
bất nhân.»
Đào Hư Tử, theo gợi ý đó, cũng đã viết:
«Năm mươi năm đầu cuộc đời, là tiến số, là học để giúp đời; càng ngày
càng phải tu nhân tích đức.»
Luận ngữ viết: «Đến chừng bốn năm mươi, mà
ta chưa nghe danh tiếng họ, chừng ấy ta chẳng còn sợ họ nữa.»
Nhưng con người không phải quay cuồng mãi
trong vũ trụ, mà ta cũng có lúc được vào Trung cung huyền diệu để làm
chủ chốt vũ trụ. Bí quyết này được diễn tả bằng những hành động tượng
trưng của Thiên tử xưa trong tòa Minh đường.
Mỗi năm, sau ngày Hạ chí vua sẽ vào Trung
cung Minh đường, mặc hoàng bào và ở đó ít ngày, cốt tượng trưng quyền
Thiên tử là khu hữu cho không gian và thời gian …
KẾT LUẬN
Nghiên cứu các đồ Dịch chúng ta đã thấy
các cổ nhân đã phơi bày lẽ «Càn khôn hạp tịch», đã tháo gỡ guồng máy Âm
Dương, đem cài lên những bức họa không lời, để vẽ đường chỉ lối cho ta.
Càng suy cứu vi ý cổ nhân, ta càng thấy lý thú. Đồ Dịch thiên nhiên còn
phân ngôi chủ khách đem lẽ cát hung, thiện ác làm thành hai bức câu đối
vĩ đại treo giữa đất Trời cho tao nhân mặc khách muôn đời thưởng thức.
Đôi câu đối
này không đối chữ treo luật trắc bằng, nhưng đối quẻ, đối hào, đối ý,
đối lý:
Cát
Thiện
Chủ |
吉
善
主 |
|
凶
惡
客 |
Hung
Ác
Khách |
Tức là:
Đọc đôi
câu đối trên, ta sẽ nghiệm ra phương pháp «xu cát tị hung», «ức âm
tiến dương», «trưởng thiện tiêu ác» của người xưa, biết tới biết
lui, biết tìm sự sống qua sự chết, biết tìm cái hay qua cái dở, tóm lại
biết «Định luật tương đối» chi phối con người ra sao…
«Mới
hay Không-Có chuyển vần,
«Dễ
sinh ra Khó, Vắn nhân thành Dài.
«Thấp-Cao
tùy ngó ngược xuôi
«Tiếng
ca Trầm-Bổng giòng đời Trước-Sau.»
Thế mới hay:
«Gẫm đạo lý có sau có trước ,
Lẽ âm dương có ngược có xuôi.
Ngược là gió cuốn bụi đời,
Đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm.
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than mới rõ chuyện đời.
Khi xuôi sấm chớp tơi bời,
Tầng sâu bày giải căn Trời nội tâm.
Trông tỏ đích chí nhân, chí chính,
Biết mục phiêu sẽ định sẽ an.
Rồi ra suy xét nguồn cơn,
Con đường phối mệnh chu toàn tóc tơ …»
Hiểu thế ta sẽ tìm ra được vi ý cổ nhân,
tìm ra được then chốt kho tàng sử sách Á Đông, ta ra được phương pháp
khai thác kho tàng ấy.
Thật vậy, các thánh hiền Đông Á, từ Phục
Hi, Hoàng đế, đến Nghiêu, Thuấn, Khổng Tử, Lão Tử khi soạn thảo sách vở,
chỉ cốt xiển minh lẽ «Thiên nhân tương dữ»
天 人 相 與
(Trời người giao hảo), chỉ cốt tìm ra
phương pháp thể hiện lý tưởng «Thiên nhân hợp nhất»
天 人 合 一
(Trời người hợp nhất) mà thôi.
Cho nên
cũng như Trung Dung chỉ cốt dạy con người biết kính sợ Trời tàng ẩn
trong thâm tâm mình,
dạy con người đừng để cho tâm hồn tan tác, tả tơi trước gió giông hoàn
cảnh, trước sự thử thách, cám dỗ bên ngoài, cải thiện bản thân đến chỗ
hoàn thiện khả dĩ có thể sống kết hợp với Trời (Phối thiên) cùng đất
trời trường sinh bất tử.
Nhưng Dịch và Trung Dung lại dạy ta đừng
vội vàng; phải học đi trên đất rồi mới học bay lên trời, phải biết tìm
miếng cơm trước khi tìm nghĩa lý, phải
thực
tiễn trước, lý tưởng sau. Thế mới biết là thời cơ, biết lẽ tiến thoái,
biết uyển chuyển ứng phó với hoàn cảnh, biết biến thiên theo nhịp thời
gian tuổi tác, để lúc nào đời cũng đẹp như thơ, lúc nào đời cũng nhịp
nhàng tiết tấu như một khúc nhạc.
Khúc
nhạc đó thực tuyệt vời, có vui, có buồn, có nhanh, có chậm, lúc lâm li,
lúc hùng tráng, lúc rạt rào như thác đổ đầu ghềnh, lúc khinh khoát, êm
đềm như gió thu lướt qua hàng tơ liễu, lúc lặng lẽ như ánh tường vân
lãng đãng xuôi Nam trên đường đời muôn dặm…
Thực là:
«Trời xanh dẫn dắt chúng dân
Như là tấu khúc nhạc huân nhạc trì
Trời, người, đôi ngọc chương khuê
Bên cho, bên lấy đề huề biết bao.
Tay cầm tay dắt khéo sao!
Trời xanh dẫn dắt dân nào khó chi!»
CHÚ THÍCH
Bản dịch Việt văn này theo bản Pháp văn trong quyển «L’importance de
vivre» của Lin Yuntang, tr.123-124.
J’ai déjà vu la plus grande moitié de cette vie flottante.
Ah
qu’il y a un mot magique.
Ce mot
moitié d’une portée si riche,
Il
nous fait gouter plus de joie,
Que
nous n’en pouvons posséder.
Le
meilleur état de l’homme
Est à
mi-chemin entre la vie,
Quand
un pas ralenti lui permet le repos;
Le
monde se trouve à mi chemin «entre la terre et le ciel»
Vivre
à mi-chemin entre la ville et la campagne;
Avoir
des fermes à mi-chemin entre les rivières et les montagnes;
Etre à
demi savant, à demi châtelatin, à demi home d’affaires;
Vivre
à moitié comme un noble,
Et à
moitié comme le commun des gens;
Avoir
une maison moitié belle, moitié laide
Moitié
élégamment meublée et moitié nue;
Des
vêtements moitié vieux, moitié neufs
Et une
nourriture mi-rechercheé, et mi-simple;
Une
femme qui soit ni trop simple ni trop habile
Au
fond, je me sens la moitié d’un Bouddha
Et
presque la moitié d’un bienheureux taoiste.
La
moitié de moi-même est tournée vers le Ciel,
L’autre moitié vers mes enfants,
Pensant à moitié comment assurer l’avenir de ma postérité,
Et à
moitié comment me présenter devant Dieu,
Quand
le corps sera laissé en repos.
Il est
le plus sagement ivre, celui qui est à moitié ivre;
Et les
fleurs à moitié en boutons sont les plus belles;
Les
bateaux à demi voilés naviguent le mieux;
Et les
chevaux avec les rênes à moitié tendues trottent le mieux.
Qui
possède moitié trop est inquiet
Qui
possède moitié trop peu désire posséder plus.
Puisque la vie est à la fois amère et douce
Celui
qui n’en goute que la moitié est plus sage et plus intelligent.
Cố, quân tử chi đạo, bản chư thân,
trưng chư thứ dân. Khảo chư tam vương nhi bất mậu; Kiến chư thiên địa
nhi bất bội. Chất chư quỉ thần nhi vô nghi. Bách thế dĩ sĩ thánh nhân
nhi bất hoặc. Chất chư quỉ thần nhi vô nghi, tri thiên dã. Bá thế dĩ sĩ
thánh nhân nhi bất hoặc, tri nhân dã. 故 君 子 之 道, 本 諸 身, 征 諸 庶 民. 考 諸 三 王
而 不繆, 建 諸 天 地 而 不 悖. 質 諸 鬼 神 而 無 疑. 百 世 以 俟 聖 人 而 不 感. 質 鬼 神 而 無 疑 知 天
也. 百 世 以 俟 聖 人 而 不 感, 知 人 也 (Trung Dung, ch.29)
Cf. Claude de Saint Martin, cité par
Illan de Casa Fuerte, La Relligion essentielle, p.200: «… Le Principe
suprême, source de toutes les puissances, soit de celles qui vivifient
les pensées dans l’homme, soit de celles qui engendrent les oeuvres
visibles de la nature matérielle; cet être nécessaire à tous les êtres
germe de toutes les actions, de qui émanent (mot fatal, plume qui
trahit) continuellement toutes les existences; ce terme fatal, vers
lequel elles tendent, comme par un effort irrésistible, parce que toutes
recherchent la vie; cet être dis-je, est celui que les hommes appellent
généralement Dieu.
Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ?
復
其
見
天
地
之
心
乎
Dương
khí sinh lai trần mộng tỉnh
陽
氣
生
來
塵
夢
醒
Nhiếp
tình hợp tính qui kim đỉnh
攝
情
合
性
歸
金
頂
Vận
phù tam bách túc chu thiên
運
符
三
百
足
周
天
Phục
khí tứ thời qui tĩnh định
伏
氣
四
時
歸
靜
定
Thất
nhật thiên tâm dương vị phục
七
日
天
心
陽
未
復
Ngũ
long bổng thánh côn lôn đỉnh
五
龍
捧
聖
崑
崙
頂
Huỳnh
đình thập nguyệt sản linh đồng
黃
庭
十
月
產
靈
童
Giá
hạc lăng tiêu nhiệm du sính
駕
鶴
凌
霄
任
遊
騁
(Tiên
thiên luận ngữ, tr.5)
The Galaxy, Macrobius says, crosses the zodiac in two opposite points,
Cancer and Capricorn, the tropical points in the sun’s course,
ordinarily called the gates of the sun. These two tropics, before his
time, corresponded with those constellations but in his day with Gemini
and Sagittarius, in consequence of the procession of the equinoxes; but
the signs of the Zodiac remained unchanged; and the Milky Way crossed at
the signs Cancer and Capricorn though not at those constellations.
Through these gates, souls were supposed to descend to earth and
reascend to Heaven. One, Macrobius says, in his dream of Scipio, was
styled the Gate of Men; and the other, the Gate of the Gods. Cancer was
the former because souls decended by it to the earth; and Capricorn the
latter, because by it they reascended to their seats of immortality, and
because Gods… (Les Orphiques croyaient dans le Cancer le portail par où
âmes entraient en incarnation sortant en multitude de la Voie Lactée…) (L’occultisme
du Zodiaque, p.89)
…..
Il est intéressant de voir que la naissance de l’univers se place tout
au commencement du signe (Capricorne) était symbolisée par la naissance
du Dieu solaire ou de l’enfant divin au solstice d’hiver, tandis que la
dissolution de l’univers matériel, suivant les Écritures de l’Inde, se
produit à la fin du signe… (ibid. 121)
Cf. Dr. A. Besant, La Sagesse
des Upanishads. p.92: Mais par la mort, s’ouvrent deux sentiers, le
Pitriyâna ou sentier des Pitris, et le Devayâna ou sentier des Dieux.
Ils nous sont très soigneusement, décrits dans quelques passages que je
vais vous résumer, et que l’on trouve dans les Brihadaranyaka, Chândogya
et Prasna Upanishads (Brah. Up. VI, II, 2-16; Chand. Up. V, II, Prasna
I,9-10; Chand. 4. 15. 5; Chand. 5. 10. Bha. Gita 8,24-16)
Dịch chi
vi thư, quảng đại tất bị, vô sở bất bao, nhi ngữ kỳ yếu quy, tắc vi
minh: «Thiên nhân hợp nhất» chi đạo.
易
之
為
書,
廣
大
悉
備,
無
所
不
包,
而
語
其
要
歸,
則
為
明
天
人
合
一
之道
(Sách
dịch thật mênh mông bao quát, nhưng đại khái là cốt xiển minh lẽ «Thiên
nhân hợp nhất») cf. Chu Dịch – Trương Kỳ Quân, Trung Quốc ngũ thiên
niên sử, đệ nhị sách – đệ thập nhị chương, Trung Quốc nhất chu, số
588.
Thánh
nhân dĩ Dịch tẩy tâm, tự dữ thiên lý đồng lưu, Quân tử dĩ tâm thể Dịch,
đương tri thiên lý đồng bản. (Đào Hư Tử, Chẩm thượng ngữ, tr.8)
... Trung Quốc tự Đường Ngu
dĩ lai, tức hữu thiên nhân hợp nhất chi tư tưởng. Kính thiên tức sở dĩ
ái nhân, ái dân tức sở dĩ tôn thiên. Lịch đại thánh triết, mạc bất kế
tục hoành dương thử «thiên nhân hợp nhất» chi đạo. Lão Tử tức kỳ nhất
dã. 中國 自
唐 虞 以 來,
即 有 天 人 合 一 之 思
想.
敬 天 即 所 以 愛 人,
愛 民 即 所
以 尊 天.
歷 代 聖 哲 莫 不 繼 續
宏 揚 此 天 人 合 一 之 道.老
子 即 其 一 也
(Lão Tử, Trương Kỳ Quân, Trung Quốc nhất chu, số 623, tr.21)
... Từ
thượng cổ người Tàu đã có tư tưởng cho người ta sinh ra ai cũng bẩm thụ
cái tính của Trời. Cái tính ấy là một phần thiên lý. Vậy Trời với người
quan hệ với nhau rất mật thiết lắm. Bởi thế, mới lấy pháp tắc tự nhiên
của Trời làm cái mô phạm của người và cho thiên luân, thiên đạo là nhân
đạo… (Trần Trọng Kim, Nho giáo, tr.39)
Cf.:
L’Ecclésiaste 3,1 15, Bible Crampon p.745:
Pour tout, Il y a un moment, un temps pour
chaque chose sous le ciel: temps d’enfanter, et temps de mourir; temps
de planter, et temps d’arracher les plants;
Temps de tuer, et temps de guérir; temps
de démolir et temps de bâtir; temps de pleurer, et temps de rire; temps
de se lamenter, et temps de danser;
Temps de jeter des pierres, et temps de
ramasser des pierres;
Temps d’embrasser, et temps d’écarter les
embrassements;
Temps de chercher, et temps de perdre;
Temps de garder, et temps de rejeter;
Temps de déchirer, et
temps de coudre,
Temps
de se taire et temps de parler; temps de d’aimer,
et
temps de haïr, temps de guerre, et temps de paix.
Quel
profit, pour le travailleur, de la peine qu’il se donne?
J’ai
considéré les occupations auxquelles Dieu
a
donné aux enfants des hommes de s’occuper.
Toute
chose, il l’a faite bonne pour tout temps;
C’est
aussi l’infinité du temps qu’il a mis dans leur cœur,
Sans
que l’homme puisse découvrir l’oeuvre
Que
Dieu fait, de bout en bout.
…Tri xu thời ứng biến (Chính
mông, Tính lý 1, 42)
Thiên chi
dũ dân
天
之
牖
民
Như huân như trì
如
壎
如
箎
Như chương như khuê
如
璋
如
圭
Như thủ như huề
如
取
如
攜
Huề vô viết ích
攜
無
曰
益
Dũ dân Khổng dị
牖
民
孔
易
- Le
ciel persuade le peuple doucement et sans violence L’obéissance du
peuple suit l’influence du ciel spontanément comme la flute répond à
l’ocarine, comme les 2 moitiés d’une tablette d’investiture s’adaptent,
comme l’action de recevoir et celle de donner. Le peuple ne résiste pas
à sa douce influence Gagner le peuple est chose facile. (Léon Wieger,
Textes philosophiques 1,45)
-
Heaven enlightens the people, as the bamboo flute respond to the
porcelain whistle; as two half maces form a whole one; as you take a
thing, and bring it away in your hand, bringing it away without any more
ado. The enlightenment of the people is very easy. (James Legge, The
She King, p.502).
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12
13 14
15 16
|