TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
Chương 15
DI TÍCH TRUNG ĐIỂM VÀ VÒNG DỊCH TRONG
HOÀN VŨ
M
ột học
thuyết chẳng qua là để xiển minh các vấn đề về Thượng đế, nhân loại, vũ
trụ và những liên quan tương ứng.
Học
thuyết cao cho nhìn thấy bao quát vấn đề, học thuyết thấp chỉ bàn giải
về một vài khía cạnh. Một học thuyết cao còn có tính cách phổ quát,
nghĩa là ta có thể dùng nó mà giải thích hết các học thuyết cổ kim; được
vậy chính vì nó phát xuất từ căn nguyên và cũng là vì nó là tuyệt điểm
tuyệt đích.
Khi đã
hiểu vi ý Trung Dung, khi đã hiểu lẽ «đồng qui nhi thù đồ», khi
đã xác định rằng Trung Dung là tâm điểm bất biến, mà Dịch là vòng tròn
chu luân vạn hữu biến thiên, ta có thể dùng tâm điểm và vòng tròn làm
chìa khóa để mở chốt then các học thuyết, làm kim chỉ nam để nghiên cứu
các tượng hình, hoạ bản, đền đài miếu mạo Đông Tây mà tìm cho ra ẩn ý cổ
nhân.
Mục đích
là để:
«Rẽ
sóng thời gian tìm nghĩa lý.
Khơi
lòng trời đất lấy tinh hoa.»
Và cũng
là để chứng minh rằng muôn vạn ngả đường đều gặp gỡ ở Trung tâm, và chủ
trương, đường lối xưa nay của các thánh hiền trên hoàn vũ chẳng phải là
sai ngoa vu khoát.
1. Ý nghĩa tâm điểm và vòng tròn trong
các học thuyết Âu Á
Như trên
đã chứng minh, đối với Nho giáo, thì tâm điểm, trung điểm là Trời là
Thái cực, mà vòng tròn bên ngoài là các hào quái tượng trưng cho vạn hũu
biến thiên.
Lạ thay,
khi khảo sát lại các học thuyết cổ từ á sang Âu, ta đều thấy quan niệm
này được lưu truyền với những tượng hình y thức như vậy.
Đi ngược
dòng thời gian, trở về với những văn minh tối cổ như Ai Cập, Chaldée,
trở về với những học thuyết tối cổ như Vệ Đà, Pythagore,
Zoroastre,
đâu đâu ta cũng thấy tâm điểm tượng trưng Hóa công bất biến, và vòng bên
ngoài chỉ sự luân lưu biến ảo của hiện tượng và vạn hữu.
Trong các
di tích cổ Ai cập, ta thấy một hình vòng tròn trong tâm có chữ
AUM,
bên ngoài có hai con rắn song song tượng trưng quyền năng và trí tuệ Tạo
hóa.
Chữ
w.ee
hay
AUM
hay Thủy Chung ở giữa vòng tròn là Thượng đế tuyệt đối toàn năng.
Hình 26: Tâm điểm và
vòng tròn trong huyền học Ai cập.
(Egyptian point within a circle)
... «Theo
kinh Veda, thì trước khi muôn loài được tạo dựng, chỉ có Brahman, Bản
thể thuần túy, không hình thức sắc tướng; đó là Mahâ Bindu, là Tuyệt
điểm, là Thần, Khí... Tuyệt điểm ấy siêu hình, vô trụ, vô lượng, nhưng
chính là căn nguyên phát huy muôn vật.
Tuyệt
điểm ấy ví như trung tâm vòng Hoàng đạo phát sinh mười hai cung.
Tuyệt điểm
ấy có thể sánh với Hư không của Veda (Shunya) vì chưa bị ảo ảnh bên
ngoài khoác lên trên mình các lớp hình thức sắc tướng, hay có thể sánh
với Hư vô của J. Boehme.
... «Còn
vòng tròn bên ngoài tượng trưng sự phát triển muôn mặt của Tâm Điểm, hay
của Căn nguyên tuyệt đối... Thế tức là vòng tròn
tượng trưng cho Vô hạn hiển dương trong hữu hạn bằng biến chuyển tuần
hoàn, vãng lai, tiêu trưởng...»
Đứng về
một phương diện khác, thì tâm điểm là tự do khinh khoát; còn vòng tròn
bên ngoài là vòng định mệnh gồm đủ các ảnh hưởng chi phối con người.
Bao lâu
con người còn ở các vòng, lớp bên ngoài thì dĩ nhiên sẽ bị ngoại cảnh
chi phối, bao lâu còn hòa mình với phù du ảo ảnh thì cũng sẽ bị tàn
phai, hủy hoại như phù du ảo ảnh. Còn trái lại nếu biết thu hồi thần trí
cho qui tụ về Tâm, thì sẽ trở nên một «lữ khách» trên con đường về Trung
điểm, sẽ hòa mình với Trung điểm, Tuyệt điểm, và lúc ấy các duyên nghiệp
bên ngoài không còn ảnh hưởng tới mình được nữa...
René Guénon, nhà
huyền học Pháp cũng viết: «Sở cư của Brahma» chính là ở tâm điểm vũ trụ
và nhân loại, còn hình thức sắc tướng có thể nói được là đều ở quanh bên
ngoài, trên vòng «bánh xe vạn hữu».
Thay vì dùng tâm
điểm và vòng tròn, nhiều học thuyết dùng những hình tương đương thay
thế: Trong các hình vẽ Trung Hoa thời cổ, thường có hình Phục Hi cầm
«Qui» (compas) Nữ Oa cầm «Củ» (thước vuông).
«Qui» để
vẽ vòng tròn, «Củ» để vẽ 2 đường thẳng góc trong vòng, xác định tâm
điểm. Vì thế, người xưa còn gọi Trung điểm là Thập tự nhai
十 字 街
.
Hình 27: Hình Phục Hi cầm Qui, Nữ Oa cầm
Củ
Hình 28: Biểu tượng Qui Củ của hội Tam
Điểm
Dấu hiệu
của hội Tam Điểm (Franc Maconnerie) là hình một chiếc «Qui» xếp trên một
hình thước thợ (Củ), ôm lấy chữ
G
vào trong, mà
G,
tức là
God
là
Iod,
là Thượng Đế.
Hình 29: Hình Thái Cực (hay Lưỡng Nghi)
cầm Qui Củ.
Khoa Huyền
Học cũng thường vẽ hình Lưỡng Nghi (Rebis), một bên cầm Qui, một bên cầm
Củ hợp nhất thành Thái Cực (Mercure).
Biểu hiện
của phái Rose-Croix, là một bông hồng (hình tròn đặt trên hình chữ thập.
René
Guénon và C.G. Jung đều cho rằng những kiểu kính hoa hồng, hoa thị
(rosace) ở Âu Châu cũng vẫn chỉ có một ngụ ý như tâm điểm và vòng tròn
hay hình hoa sen ở Á Châu.
Tóm lại, dẫu nói xa hay nói gần, nói thật thà chất phác, hay nói bóng
gió, tất cả các hiền nhân, thánh triết đều truyền thụ cho nhau Trung Đạo
cao siêu...
Nghiên cứu
thuật luyện đan Âu Châu thời cổ, ta cũng thấy cổ nhân đã dùng tâm điểm
và vòng tròn
để toát lược chủ trương, và kỹ thuật luyện kim, hay nói cho đúng hơn,
phương pháp giải thoát con người, thần thánh hóa con người.
Tâm điểm
chính là bản thể, là nguồn gốc con người, là tiên đan, là nguồn mạch
trường sinh, là thiên địa chi tâm, là «ngọc châu viên giác»
(lapis philosophorum) mà con người cần tìm cho ra.
Ngoài
những từ ngữ, cổ nhân còn dùng nhiều hình vẽ để xiển minh chân lý đó.
C.G. Jung, sau
khi đã nghiên cứu, trong vòng ba mươi năm, các «mandala» từ Đông
sang Tây đã quả quyết chắc chắn là tâm điểm những họa bản ấy cốt để ám
chỉ «trung tâm», «chân tâm», «đạo tâm» chứ không phải «vọng
tâm», «nhân tâm», con người riêng tư, phù phiếm bên ngoài,
còn vòng tròn bên ngoài tượng trưng công trình tu luyện để tiến về tâm
điểm đó.
Như thế, mục đích
các đan gia (alchimiste) chân chính chẳng qua đều cốt chỉ vẽ cho con
người tìm ra bản thể mình;
dùng thời gian, vạn hữu, thân xác, tâm thần làm công cụ để tìm ra và
tiến tới bản thể.
Thế tức là
tìm ra được kim đan,
thế tức là tìm được thuốc trường sinh bất tử...
3. Tâm Điểm và Vòng Hoàng Đạo
Muốn hiểu
rõ thêm ý nghĩa của tâm điểm bên trong và vòng tròn bên ngoài, chúng ta
hãy nghiên cứu các vòng Hoàng đạo, hay vòng Dịch.
Các nước
Babylone, Ai Cập, Do Thái, Ba Tư, ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Nam Mỹ,
Bắc Mỹ, các nước Hồi giáo v.v... đều có dùng vòng Hoàng Đạo với 12 cung
gọi là vòng Zodiaque.
Chữ
Zodiaque (Zoe = Sự sống, diakos
= bánh xe) có nghĩa là Bánh xe sự sống,
hay vòng chu luân gồm các kiếp sống khác nhau, hay vòng tuần hoàn của
các quần sinh vũ trụ.
Đại khái,
vòng Hoàng Đạo gợi ra sự biến thiên, thăng (évolution), trầm
(involution) không ngừng của quần sinh vũ trụ. Nó gợi ra muôn vàn
nếp sống khác nhau thường xuyên diễn tiến trên hoàn vũ.
Nhưng
thực ra, tâm điểm mới là đầu giây mối nhợ. Tâm điểm hay Trung điểm của
các vòng Hoàng đạo tượng trưng cho Tuyệt đối thể, vô hình tích, cho
nguyên tinh, nguyên khí nguyên thần sẽ phát huy ra quần sinh vũ trụ. Đó
là Đạo thể, là Hư vô, hư vô vì huyền diệu không thể suy cho thấu, nghĩ
cho cùng được.
Tâm điểm
ấy các nhà huyền học Cổ kim gọi bằng nhiều danh hiệu: Ether, Akasha,
Brahma, Hư vô (Shunya), Chakravarti, kim đan, huyền cơ bất động (le
moteur immobile d'Aristote) hay Chân Như, Bản lai diện mục, v.v.
Tâm điểm
ấy chính là Cực (Pôle), là điểm bất biến làm khu nữu cho vũ trụ xoay
quanh; còn sự tuần hoàn của vũ trụ thường được tượng trưng bằng bánh
xe.Đó là một quan niệm phổ quát thấy ở khắp các dân nước.
Người Ai
Cập gọi tâm điểm là Thượng đế duy nhất, đấng tạo thành vũ trụ quần sinh,
hay là Tem
nghĩa là chủ chốt khu nữu của sự vận chuyển các tinh cầu.
Tâm điểm
cũng còn được mệnh danh là thần Mercure, là Tạo hóa phát sinh muôn ngàn
biến ảo.
Trong hình
vẽ le Tarot,
ta thấy ở tâm điểm của hoàn vũ có viết bốn chữ
Yod he
Vau He,
nghĩa là
Yahwe,
là Thượng đế...
Vòng Hoàng
đạo Phật giáo, hay nói đúng hơn, vòng luân hồi của Phật giáo thường gồm
bốn vòng tròn đồng tâm.
Vòng trong
bỏ trống tượng trưng cho Hư vô (Sunya hay Sunyata)
hay có vẽ hình Phật Vairocana. Các vòng tròn bên ngoài tượng trưng cho
tham, sân, si, lục đạo và thập nhị nhân duyên. Cho nên, vòng bên ngoài
tức là vòng luân hồi, hay vòng thập nhị nhân duyên cốt mô tả những cuộc
sống phù du, những ảo ảnh của cuộc đời:
Sự luân
lạc của con người bắt đầu do dốt nát
u muội,
để rồi hành động mù quáng chuốc mua oán nghiệt vào người,
chuyên lo tìm hiểu ngoại cảnh
để cho các
hình ảnh phù du hư ảo bên ngoài
xâm nhập vào ngũ quan và ý chí,
đâm ra vấn vương
bịn rịn
khao khát say mê,
cố gắng tìm cầu cho được,
để làm của sở hữu riêng tư.
Mỗi lần say mê theo vật chất phù sinh như vậy là như bắt đầu sinh ra
ở một kiếp người
để rồi tàn tạ già nua chết chóc
cùng với sự điêu tàn của ảo ảnh ...
Suy nghiệm ra thì Vairocana
毗 盧 舍 耶
Tì lô xá gia) tức là Trung điểm, là Tuyệt đối, là Pháp thân, là Bản lai
diện mục, là Tịnh mãn
淨 滿
, là «Biến nhất thiết xứ», là Đại Nhật Như lai, là nguồn sống muôn vật.
Khi đã
đối chiếu các học thuyết, ta có thể kết luận như sau:
Cổ nhân
dùng tâm điểm và vòng tròn để tượng trưng cho hai phương diện biến hằng
của vũ trụ. Tâm điểm bất biến hằng cửu là căn bản, là Đạo, là Thể. Vòng
tròn bên ngoài biểu hiện sự di động biến thiên, phần công dụng.
Vòng tròn
bên ngoài tức là:
- Vòng
Dịch Nho giáo
- Vòng
Sinh mệnh (Rota fati et generationis của phái Orphisme)
- Vòng số
mệnh (Khoa học Tarot)
- Vòng
Luân hồi (Phật giáo)
- Chu kỳ
Abred (học thuyết Bardisme)
- Vòng
Hoàng đạo (chiêm tinh học)
-
Ouroboros (con chu xà của Thông thiên học)
- Brahma
luân (Brahma Wheel) trong Bà La Môn giáo
Người ta
còn dùng vòng tròn tượng trưng cho các tuần trăng, ngụ ý biến thiên
phiêu lãng v.v...
Trong con
người, thì vòng Dịch, hay vòng Hoàng Đạo gồm hai mạch: Nhâm (Âm, chạy
phía trước), Đốc (Dương chạy phía sau lưng). Còn Trung điểm là Nê Hoàn
Cung (xem hình 30). Nê hoàn cung hay Não thất ba (3è ventricule) cũng
như nội tẩm trong các đền đài, là nơi Hóa Công ngự trị (Garbhagrita,
chambre de l'Embryon), vì đó chính là trung tâm điểm vũ trụ, nơi mà căn
nguyên tuyệt đối của mọi hiện tượng ngự trị.
Hình 30:
Tâm điểm và vòng Hoàng Đạo trong con
người
Hình 30: Hai mạch
Nhâm Đốc và Nê Hoàn Cung
Nhìn sang Ấn Độ giáo ta thấy: Sách áo Nghĩa Thư chỉ đường về tâm điểm,
trung điểm tâm thần như sau:
«Tâm
người trăm linh mốt kinh,
Mà duy
có một thượng đình đi lên.
Cứ
theo đường ấy mà men,
Rồi ra
ắt được tới miền trường sinh.»
Nơi khác
lại viết:
«Nơi
nào mà mọi thần kinh,
Như
đũa gặp trục trong vòng bánh xe.
Nơi
thần kinh hội tụ về,
Là nơi
Tuyệt đối chưa hề hóa thân.
Cố tìm
Tuyệt đối, Chân Tâm,
Rồi ra
sẽ thoát biển trần hôn mê...»
Tóm lại,
vòng chu luân, vòng dịch, vòng luân hồi, vòng Hoàng đạo, v.v. chẳng qua
là cốt tượng trưng vạn hữu, tượng trưng hiện tượng và mọi sự biến thiên
chất chưởng bên ngoài. Vòng chu luân hay xa luân ngoài ra còn chỉ: thăng
(ascension), giáng (descente); trầm hiện (précipitation), siêu thăng
(sublimation); Thượng đế xuống với con người, và con người lên cùng
Thượng đế.
Còn tâm điểm thời học thuyết nào cũng dùng để chỉ Bản thể, hay Tuyệt
đối.
Suy ra thì con người cần phải biết dùng vạn hữu làm phương tiện để tiến
về Tuyệt đối, nhìn hiện tượng để suy ra bản thể, thấy biến thiên chất
chưởng bên ngoài để lập chí đi tìm trường tồn vĩnh cửu bên trong, bỏ
tiểu tiết chi mạt, mà tìm cầu cho được đại thể, căn nguyên. Đó cũng
chính là con đường muôn dặm con người phải đi để trở về cùng Thượng đế,
đó cũng chính là một chương trình hoạt động vĩ đại mà Trời đã uỷ thác
cho con người thực hiện, trước khi vào an nghỉ tại Trung cung...
Theo đà
thời gian, con người sẽ phát huy dần dần hết mọi nguồn năng lực, và cuối
cùng sẽ biết sử dụng thần lực của mình. Theo đà thời gian con người sẽ
trừ khử được mọi sự ngộ nhận về thân thế mình, và đến chung cuộc sẽ nhận
biết mình là ai, nghĩa là sẽ nhìn nhận ra bản thể tối hậu của mình, sự
trường tồn vĩnh cửu mình trong Thượng đế...
4. Tâm điểm và vòng tròn trong
khoa Kiến trúc và Mỹ thuật
Mới đầu,
người xưa thường coi những danh sơn, cao sơn là trung tâm điểm vũ trụ là
nơi mà trục hoàn vũ xuyên qua trái đất, nơi đất trời gặp gỡ, nơi mà
những người hiền lương nhờ ảnh hưởng trời đất giao hội có thể trở thành
hiền thánh. Đó là những danh sơn, cao sơn như Côn Lôn, Phú Sĩ, Elbrouz,
Thabor, hay Olympe.
Nhưng dần
dà các đền đài miếu mạo lớn, những công trình kiến trúc lớn cũng được
coi là trung tâm điểm vũ trụ như đền thờ Jerusalem, Kim Tự Tháp, v.v.
Các nhà
khảo cổ, quan sát các đền thờ, các thành thánh xưa (ví dụ như
Angko-Thom) đã nhận thấy rằng khi xây cất các công trình vĩ đại ấy, cổ
nhân muốn lấy gỗ, đá để xây lại một vũ trụ nhỏ, cho nên trung cung bao
giờ cũng dành để thờ các đấng Tối cao, còn bên ngoài hoặc là trạm trổ
tiên thánh, quần sinh, hoặc là có thành quách bao bọc, tượng trưng cho
núi non; có hào lạch, tượng trưng cho sông biển. Con người muốn đi vào
Trung cung muốn lên tới thần minh sẽ phải, trèo non, sẽ phải lướt thắng
các trở ngại, sẽ phải đi quanh quất, tiến tới mãi mới đến được chứ không
phải là chuyện dễ...
Tâm điểm
và vòng tròn với những ẩn ý sâu xa của nó (Hóa công và hoàn vũ)
còn là đề tài cho nhiều công trình kiến trúc, hay đền đài miếu mạo.
Chính điện
trong khu đền Bayon ở Angkor-Thom là hình một Pháp luân lớn có tám tai
hoa tỏa ra tám hướng như bông sen tám cánh, như bát chính đạo, ở giữa có
chuyển luân Thánh Vương.
Ở Ấn Độ, các di tích bằng đá xếp vòng tròn, còn được thấy ở nhiều nơi.
Di tích cổ nhất có lẽ là ở Dipaldiana.
Trong
những cổ tích của đạo Druidisme, ta cũng thấy nhiều tảng đá khổng lồ xếp
thành vòng tròn như ở Stonehenge, và ở Avebury.
Các đền
thờ Druide cũng xếp theo hình tròn; ở trung tâm lại có đặt một tảng đá
lớn, chắc chắn là tượng trưng cho đấng Tối cao (di tích «Y Cromlech» ở
Pembroshire hay di tích ở gần Keswich trong vùng Cumberland nước Anh).
Đối với
các dân miền Na Uy, Thụy điển thì đền thờ thần Odin gồm có 12 tòa xếp
vòng tròn dành cho mười hai vị thần chính, có một chính tòa ở Trung cung
dành cho chúa thần Odin. Những cổ tích này còn thấy ở Scania, Zeland,
Jutland...
Thật là:
«Một
trời bát ngát trăng sao,
Vần
xoay âu cũng nương vào Trung Cung,
Sen
kia nghìn cánh nở tung,
Nhưng
mà gốc gác vẫn
cùng
một tâm.»
Khảo sát
các truyền thuyết Do Thái,
Công Giáo,
Ba Tư,
Atlante,
hay Hi Lạp,
Ấn Độ,
v.v. ta đều thấy cây trường sinh, hay núi hạnh phúc đều ở trung tâm một
khu vườn huyền diệu có bốn con sông chảy vào.
Áp dụng
những truyền thuyết này vào công cuộc khảo sát con người, ta cũng thấy ở
trung tâm não bộ, phía mặt dưới, có vòng Willis với bốn động mạch phát
ra tứ phía não bộ.
Nếu đúng
vậy, thì cây trường sinh, hay nguồn hạnh phúc cũng chẳng phải ở Doành
Châu, Phương Trượng, mà đã ở sẵn ngay trong đầu não con người.
Khảo sát
khoa trang trí và hội họa từ Á sang Âu, ta thấy một loại hình ảnh rất
đặc biệt mà C.G. Jung gọi là «Mandala». Những Mandala này hoặc
vuông, hoặc tròn; tâm điểm thường có những hình Chúa, Phật, hay Shiva,
ám chỉ căn nguyên vũ trụ; vòng ngoài là những thần nhân hay, thần vật
tượng trưng tứ tượng.
Bên ngoài
chỉ ly tan, chia rẽ, hay là sân khấu để đóng tấn kịch đời, còn tâm điểm
là nơi hòa hợp,
là «kim hoa», «kim thân», hay là «cố hương, cố quốc».
Các
mandala ngụ ý dạy người tìm về gốc, trở về nguồn,
cốt giúp con người tìm ra chân tâm bất biến của mình. Mà chân tâm ấy
chẳng ở đâu xa, nó ở ngay trong ta.
5. Tầm quan trọng của Trung điểm
trong thiên văn và địa lý
Copernic
đã đặt mặt trời vào tâm điểm thái dương hệ, cho địa cầu và các hành tinh
khác xoay trên các vòng tròn bên ngoài, khác hẳn với quan niêm của
Ptolémée lấy trái đất làm tâm điểm vũ trụ.
Có thể nói rằng quan niệm của Copernic về thiên văn tương-ứng vói những
quan niệm triết-học Đông Tây lấy «Đạo» (Logos) làm tâm điểm con người.
Quan niệm Ptolémée tương ứng với những quan niệm triết học lấy «tâm hồn»
(âme) làm tâm điểm con người.
Các dân
tộc xưa thường coi tâm điểm, trung diểm là quê hương của họ. Theo Do
thái thì trung điểm hoàn cầu là Jerusalem, là núi Sion.
Pindare,
Sophocle, Tite Live, Ovide, v.v. chủ trương Athènes hay Delphes là trung
tâm trái đất (omphales).
Người Trung Hoa thì lấy núi Côn Lôn làm trung điểm. Ấn Độ giáo và Phật
giáo lấy núi Tu Di làm tâm điểm. Dân Babylone lấy thành Babylone làm tâm
điểm hoàn cầu.
Nếu chỉ
xem các hình vẽ không, ta sẽ tưởng người xưa thiển cận, chỉ biết nước
mình mà không biết nước người, nhưng nếu hiểu theo nghĩa bóng, thì tất
cả đều ngụ một ý: Tu-Di, Côn Lôn, tâm điểm địa cầu, tâm diểm vũ trụ
chẳng có ở đâu xa, nó ở ngay trong lòng ta...
6. Bí quyết tìm Đạo tìm trời
Chúng ta
đã cùng nhau dùng thần trí đi chu du khắp hoàn vũ, chúng ta đã cùng nhau
rong ruổi trên triền không gian thời gian của ngót sáu ngàn năm lịch sử
nhân quần, đã bao quát các học thuyết Đông Tây, đã dùng chữ Trung làm
chìa khóa mở kho tàng tư tưởng các hiền nhân quân tử mọi nơi mợi đời,
chúng ta cần phải thâu lượm được một kết quả gì cụ thể và hữu ích.
Kết quả ấy
là bí quyết tìm đạo, tìm Trời của người xưa.
Cổ nhân
đã lao tâm khổ tứ vẽ các tượng hình, xây các miếu mạo có dụng tậm dụng ý
như trên, cốt là đã chỉ vẽ cho ta con đường trở về căn nguyên, con đường
«hoàn nguyên phản bản».
Học
thuyết nào cũng dạy ta tìm cho ra tâm điểm, trung điểm tức là tìm cho ra
tuyệt đối thể, tìm cho ra chân thiện mỹ, tìm cho ra Trời ẩn áo trong đáy
lòng vũ trụ và lòng người.
Trở về
trung điểm là giải thoát vì tâm điểm tượng trưng cho tự do khinh khoát,
còn vòng chu luân tượng trưng cho nghiệp chướng cho sự thằng thúc, sự
chi phối.
Trở về
trung điểm tức là tìm được nguồn mạch trường sinh. Thông thiên học vẽ
dấu hiệu chữ thập Ankh ở trung điểm, có ấn tín vua Salomon (âm dương
thác tống) và con chu xà Ouroboros bao quanh (thiên địa tuần hoàn chung
nhi phục thủy) cũng không ngoài ý đó, vì chữ thập Ankh tượng trưng cho
sự sống.
Theo «le Livre
des morts» của Ai Cập thì trở về Trung cung, Trung điểm là kết hợp
với thần Osiris, là phục sinh, đó là lên núi thánh Ament nơi thần Osiris
ngự trị ở Trung cung, Trung điểm của hoàn vũ.
Trở về
Trung điểm là đạt đạo Trung Dung, là đắc đạo, là phối thiên. Pho Kinh
Dịch viết ra cũng không ngoài mục đích cao cả ấy. Vì Kinh Dịch cốt chỉ
vẽ cho nhân loại đường trở về cùng Thượng đế.
Cho nên,
nếu không tìm ra được Trung cung, trung điểm để kết hợp với Trời tức là
phụ lòng các tiên hiền, tiên thánh:
«Đường
về chẳng rõ tiêu hao
làm
sao biết được lối vào Trung cung
Thế
là bát quái thành không,
Thế
là vòng Dịch uổng công vẽ vời .
Bên
trong mù mịt tăm hơi,
Làm
sao biết được bên ngoài mà mong,
Thế
là bố trí như không,
Ngũ
hành thác loạn rối tung, rối bời.»
Tìm được
Trung cung, Trung điểm, tức là tìm ra tâm ấn, tâm pháp, tìm ra bí quyết
tương truyền giữa các thánh hiền muôn thủa:
«Ta
nay truyền dạy đạo trời,
Nương
theo Dịch lý dạy người điểm trung.
Huyền
quan ở chính giữa lòng,
Giữ
chừng tý ngọ, khơi giòng thần tiên.
Hồi
quang soi tỏ căn nguyên,
Căn
nguyên rạng rỡ ước nguyện thỏa thuê.»
Tóm lại, nếu thực
tình chúng ta có thiện tâm, thiện chí, muốn tìm Đạo, tìm Trời chúng ta
phải đi vào nội tâm để mà tìm kiếm. Đạo, Trời không phải là chuyện bán
mua, quảng cáo nơi ngã ba, đầu chợ;
nước Trời chẳng có đến rộn rã trong rước sách, trống chiêng, mà đến âm
thầm, mà đã ẩn tàng ngay trong tâm hồn ta.
Vậy muốn tìm ra chân sư
bày tỏ cho mình các lẽ huyền vi, chỉ giáo cho mình phương pháp tu luyện
trường sinh bất tử, ta phải như Tề Thiên đại thánh tìm về Phương Thốn
Sơn, tìm tới ‘Tà nguyệt tam tinh động’, mà Phương Thốn Sơn
chính là ‘tấc lòng’ ta, mà tà nguyệt tam tinh động chính là tâm
ta viết bằng ‘nửa vành trăng khuyết và ba sao giữa trời’.
Đi vào
nội tâm, gạt cho hết mây mù dục vọng tăm tối, không sờn lòng, không lui
gót, theo gương các hiền thánh muôn đời tiến bước, chắc chắn có ngày
chúng ta sẽ thấy Trời, thấy Đạo hiện ra rực rỡ giữa tâm hồn ta.
Khi ta đạt được mục phiêu cao diệu ấy, ta cũng tự nhiên sẽ hấy thánh
hiền sau trước chẳng hề có nói sai ngoa. Dịch và Trung Dung thực ra cũng
không có bí quyết nào cao diệu hơn ...
Cf. A.Tanon, Théosopie et Science, p.44 et ss., 48 et ss.:
... Symbole d'Isvara c'est le cercle avec un point au centre. Le
centre universel n'est pas, dit-il (René Guénon) «nulle part» étant
absolument transcendant par rapport à la manifestation tout en étant
intérieur à toutes choses.
-
C'est au contraire la circonférence qui est partout puisque tous
lieux de l'espace, toutes choses manifestées ne sont que des
éléménts du «courant des formes», des points de la circonférence de
la «roue cosmique».
Cf. René Guénon, Le Roi du Monde, p.18,19,20.
- Senard, Le Zodiaque
Clef de l'ontologie appliqué à la psychologie, p.10 et ss.
- Dr R. Allendy, Le
Symbolisme des Nombres, p.16,17.
- La Doctrine Secrète
IV, 134, IV 123 et 133.
- Ezechiel I, 4,
15, 16, 18, 21.
Cf. Mr Senard, Le Zodiaque, Clef de l'ontologie appliqué à la
psychologie, p.10.
... Avant la création, disent les textes védantins, il n'y avait
rien que Brahman, l'être pur, le non-manifesté, l'indifférencié,
Mahâ Bindu, le Point suprême, Energie-Conscience-Potentialité. Afin
de nous donner une idée du Premier Principe, car nos facultés
imparfaites ne nous permettent pas de concevoir adéquatement la
Réalité en soi, ce Point peut être comparé au point métaphysique
sans grandeur, ni position. Du Point Suprême il est dit qu'il est
«la Source de toutes les directions de la Création».
Ce point peut être assimilé au Centre du Zodiaque d’où émanent ses
douze rayons en direction des douze signes.
Le Cercle symbolise l'extension dans toutes les directions possibles
du Point ou Principe suprême se manifestant sur un plan ou en un
cycle limité dont l'accomplissement prépare un cycle ultérieur de
manifestation. La période involutive de la manifestation de
l'Energie-Conscience (mouvement de haut en bas est représenté par
l'hémi-cycle gauche du cercle et la période évolutive de cette
manifestaion (mouvement de bas en haut par l'hémi-cycle droit.
Le Cercle symbolise donc l'Infini se manifestant dans le fini par un
mouvement involutif - évolutif.
Ce «séjour de Brahma» est véritablement le point Central, tant dans
l'ordre cosmique que dans l'ordre humain, tandis que tout ce qui est
de la manifestation et surtout de la manifestation formelle, est
extérieur et «périphérique», si l'on peut s'exprimer ainsi,
appartenant exclusivement à la circonférence de la «roue des
choses». (René Guénon, L'homme et son devenir selon le Védanta,
p.96)
Cf.: René Guénon, Le roi du monde, p.19.
Tâm điểm, bản thể được gọi bằng nhiều danh hiệu trong khoa luyện đan
Âu Châu; xin đan cử ít nhiều danh từ: Mercurius; Prima materia
(nguyên thể); Archetype of the divine child (Hóa nhi); Anthropos
(chân nhân), Hermès; philosophical gold (Kim đan), Quintessence
(Tinh); Unum; Unica res; Monad (Nhất), Rebis (Thái Cực); the drug of
immortality (thuốc trường sinh) v.v...
Đọc: C.G. Jung, Psychology and Alchemy, đoạn the Materia
prima, tr.304-331.
... Các đơn gia Trung Hoa thời cổ cũng dùng tâm điểm và vòng tròn để
toát lược thuật luyện đan. Tâm điểm cũng là kim đan (hay Đạo, hay
Thái Cực hay Cốc thần), các quẻ xếp vòng tròn ngoài tượng trưng cho
lô đỉnh (Càn, Khôn), dược vật (Khảm, Ly), hỏa hầu (60, sáu mươi quẻ
còn lại).
Cf. Các hình trong: C.G. Jung, Psychology and Alchemy:
Hình 8, tr.47: Tâm điểm
là vũ trụ chi tâm (The Anima mundi, guide of mankind, herself guided
by God).
Hình 20, tr.62: Tâm điểm
là nơi «Loan phụng đồng minh» (The red and white -
hermaphroditic - double eagle).
Hình 23, tr.65: Tâm điểm
là nơi «Âm Dương giao thái» (the mystic vessel where the two natures
unite - Sol et luna caduceus - to produce the filius
hermaphroditus).
Hình 25, tr.69: Tâm điểm
là nguồn sống (the fountain of life as fons mercurialis).
Hình 31, tr.79: Tâm điểm
là đế đô, là thánh điện (The symbolic city as center of the earth).
Hình 51, tr.104: Tâm
điểm là ngọc cung (The lapis sanctuary).
... Rota or opus circulatorium which serves the
same purpose of sublimation. (ibid., p.365)
... It is to be noted that the wheel is a
favourite symbol in Alchemy for the circulating process, the
circulatio... The contemporary moral allegories of the wheel emphasize that the ascensus and descensus are, among other
things, God's descent to man and man's ascent to God... (Ibid.,
p.157)
... There is a circle surrounded by rays of light in the center of
the square.
The Scholium gives the following explation: reduce your stone to the
four elements... and unite them into one and you will have the whole
magistery.
The circle in the middle is called a mediator, making peace between
enemies or (the four) elements... circulation of spirits or circular
distillation that is the outside to the inside, the inside to the
outside, likewise the lower and the upper, and when they meet
together in one circle, you could no longer recognize what was
outside or inside or lower or upper but all would be one thing in
one circle or vessel...
Presumably the leftward circumambulation... is one of those paths to
the center of the non-ego, which were also trodden by the medieval
investigators when producing the lapis. (Ibid., p.122)
Bánh xe là một biểu tượng quan trọng trong các học thuyết vì nó có
nhiều ngụ ý:
(1) Nó chỉ sự biến động,
biến dịch.
(2) Nó chỉ sự tuần hoàn
(the circulation, the circulating process) và gợi ra được hai chiều
thăng (ascensus), giáng (descensus) của vạn hữu.
(3) Nó ám chỉ sự Trời
xuống với Người, người lên với Trời (Suo nobis descensu ac salubrem
dedicavit ascensum, nhờ sự xuống thế, ngài đã chuẩn bị cho ta được
lên trời hạnh phúc sung sướng. Thánh Bernard).
(4) Nó ám chỉ các đức
tính trung kiên tùng phục, tiết lộ, bình thản, khiêm cung cần thiết
cho công phu tu luyện.v.v...
Hư vô không có nghĩa là tương đối hay vạn pháp, hay là hư không, mà
trái lại nghĩa là tuyệt đối, hay là bản thể siêu việt.... cho nên
chữ Hư vô (Sunyata) nên hiểu là tuyệt đối.
Svetasvatara Upanishad 1-6;6-1.
There are a hundred and one channels of the heart.
Where the channels are brought together
The Sidpe - Korlo or World Wheel represents the course of human
existence in its various forms as conceived by the Buddhists...
Le temple est aussi montagne, il est Centre du monde, à quoi tout se
résume et se rallie: d'abord à Roluos, le Bakong; premier construit
à Angkor, le Bahsei Chamkrong; puis Takeo, Baphuon, seront l'un et
l'autre "montagnes d'or". C'est qu'en effet le Kun Lun, le Fuji,
l'Elbrouz, le Thabor et l'Olympe, ne sont pas les seuls centres du
monde, mais aussi les tours babyloniennes et la Grande Pyramide, les
tours précolombiennes et le temple de Salomon. Les uns et les autres
sont le point où l'Axis Mundi - le Shambha du Veda-issu du Ciel,
touche à la terre, projection sur le plan terrestre de l'activité
divine, point d'aboutissement aussi du cheminement horizontal à
partir duquel "l'homme" véritable" pourra s'élever à la condition de
«l’Homme universel"...
Dans l'Inde, l'intérieur comme l'extérieur des temples est un
symbole du Cosmos et la cella qui renferme la divinité est assimilée
au corps divin qui contient le germe sacré... mais chose curieuse,
ce symbolisme hindou du temple-cosmos, représentation de l'univers
se retrouve au Cambodge, non plus appliqué au temple lui-même mais à
des ensembles, à des plans de ville (Angkor Thom), à des bassins
(Néak Péan)...
Just as the stupas preserve relics of the Buddha in their innermost
Sanctuary, so in the interior of the lamaistic quadrangle, and again
in the Chinese earth-square, there is a Holy of Holies with its
magical agent, the cosmic source of energy, be it the God Shiva,
Buddha, a bodhisatta or a great teacher. In China it is Kien-heaven
- with the four cosmic forces radiating from it (fig. 61,
Psychology and Alchemy).
Xem chú thích trang 282 của sách này.
Cf. Senard, Le Zodiaque, p.36; Cf. Ernest d'Aster,
Histoire de la Philosophie, p.52.
Cf. Le Zodiaque, p.251.
Bất tri lai lộ yên tri nhập lộ, bàn trung bát quái giai không. Vị
thức nội đường, yên thức ngoại đường, cục lý ngũ hành tận thác.
不 知
來 路 焉 知 入 路,
盤 中
八 卦 皆 空 未 識 內 堂 焉 識 外 堂,
局 裏
五 行 盡 錯 (Ngô Cảnh
Loan, Huyền không bí chỉ).
Cf. Wang Tch'ang Tche, Wang Yang Ming, Appendice 1.
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
|