TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
Chương 9
TRUNG DUNG và DỊCH LÝ
Đ
em đối chiếu Trung Dung và kinh Dịch ta mới thấy rõ dụng tâm dụng ý cổ
nhân.
Dịch kinh
đưa ra định luật biến thiên, định luật tuần hoàn: Thái cực phân thành âm
dương, biến hóa muôn vàn, tiến thoái qua hai chiều âm dương rồi dần dà
trở lại trung cung Thái cực.
Trung Dung
đề cao tâm điểm bất biến của vòng Dịch, tượng trưng cho Trời, là căn bản
huyền diệu của hoàn võ
và là cùng đích chí thành, chí thiện cho muôn loài muôn vật vươn lên.
Dịch kinh
chỉ vẽ phương pháp biến thiên, tiến thoái theo đúng định luật âm dương
tiêu trưởng, theo đúng tiết tấu trăng sao, nhịp điệu bốn mùa; Trung Dung
nêu lên căn bản hoàn thiện và mục đích tối hậu, định mệnh cao sang con
người.
Trung
Dung là một cuốn sách cao siêu trong Khổng giáo, tương tự như Bhagavad
Gita trong Bà La Môn giáo.
Ông Tử
Tư, tác giả cuốn sách, với mục đích chọn người xứng đáng để trao truyền
tâm pháp, chỉ muốn đàm thoại với những tâm hồn cao thượng đã quen thuộc
với văn chương triết lý, với những tâm hồn đã được trau chuốt bằng nghệ
thuật, văn chương, với những tâm hồn đã biết hướng thượng, biết khao
khát những điều cao siêu, đẹp đẽ.
Cho nên
lời văn rất hàm súc, ẩn ước. Mới đầu chính xác, tinh mật, sau dần dần
trở nên uy nghi, trang trọng, cuối cùng tan biến vào sự tĩnh lãng toàn
thiện của Trời.
Ý tưởng
thì cao siêu, ẩn áo. Vì thế sách thay đổi vẻ mặt tùy theo người đọc.
Có người
thấy nó sáng suốt, có người thấy nó tối tăm; có người cho Trung Dung là
cao siêu, có người cho Trung Dung là vớ vẩn.
Người tầm
thường cho đó là một chủ trương trung lập lừng chừng, các bậc chính nhân
quân tử thì lại coi đó là một quyển sách dạy vẽ con đường hoàn thiện.
Sách bắt
đầu bằng chữ Mệnh Trời, kết thúc bằng chữ đức độ Trời không tiếng, không
hơi, tuyệt vời hoàn hảo.
Như vậy
sách cho ta khởi điểm và cùng điểm của con đường Trời, của vòng càn khôn
gặp nhau trong sự hoàn thiện, sau khi biến chuyển qua bao nhiêu thăng
trầm, bao nhiêu cung điệu, bao nhiêu sắc thái của bốn mùa đời, của lịch
sử nhân loại, lúc thì vùng vẫy, đấu tranh, hoạt động, lúc thì khinh
khoát, lập chí, tu thân, đúng theo lẽ «Âm Dương tiêu trưởng» của
Trời đất.
Ta hãy
đọc lại mấy câu đầu sách Trung Dung:
«Bản
tính cũng chính là thiên mệnh,
Đạo là
noi theo tính bản nhiên,
Giáo
là cách giữ đạo nên,
Đạo là
sau trước vẫn liền với ta.
Rời ta
được đâu là đạo nữa,
Thế
cho nên quân tử giữ gìn,
E dè
cái mắt không nhìn,
Tai
nghe không nổi, cho nên hãi hùng
Càng
ẩn áo lại càng hiện rõ.
Càng
siêu vi càng tỏ sáng nhiều.
Nên dù
chiếc bóng tịch liêu,
Đã là
quân tử chẳng xiêu lòng vàng.»
Những
lời lẽ đó thật cao siêu và ngạt ngào hương đạo đức.
Trung
Dung bắc nhịp cầu nối kết Trời người bằng mấy chữ: «Tính người là
mệnh Trời.»
Bản tính
con người vì là thiên lý, thiên mệnh nên thuần túy chí thiện, như một
giòng suối trong veo, vừa tung lên khỏi nguồn Trời, để rồi sẽ tung hỏa
ra muôn muôn, ngàn ngàn mạch nước trường sinh, muôn muôn, ngàn ngàn
khuôn thiêng thánh thiện, để rồi sẽ rót vào đáy thẳm, lòng sâu con người
những âm thanh thầm kín, dạy vẽ cho con người biết thế nào là văn
chương, nghệ thuật, thế nào là diệu pháp trường sinh, bất tử.
Tác giả Trung Dung muốn ta đi ngược dòng đời để trở về nguồn mạch chí
thiện ấy, khuyên ta cố gắng học hành để tìm cho ra nguồn mạch chí thiện
ấy.
Tử Tư còn
chỉ vẽ cho chúng ta biết: «Đạo Trời giây phút chẳng rời khỏi ta.»
Thoạt mới
nghe, ta tưởng là câu nói viển vông, vô lý. Nhưng suy cho cùng, thì đạo
Trời làm sao rời khỏi ta được?
Hiểu theo
nghĩa tuyệt đối, siêu thời gian, thì đạo là Thái cực bất biến, ẩn áo nơi
trung điểm tâm hồn con người. Nếu đem diễn tiến theo đà thời gian, thì
đạo là đường đời gồm hai thời kỳ âm dương, tối sáng, và tận cùng trong
trung điểm vô tận, vô biên.
Hệ Từ
viết: «Nhất âm nhất dương chi vị đạo, Kế chi giả thiện dã, thành chi giả
tính dã.»
一 陰 一 陽 之 謂 道,繼
之 者 善 也.誠
之 者 性 也.
Đường
Trời có chiều âm, chiều dương, bước vào đã hay; đi tới cùng, sẽ thực
hiện được «tính bản nhiên» mình.
Nếu ta
coi trung tâm điểm lòng ta là Thái cực, là ảnh tượng Trời, là tinh thần,
là ánh sáng Trời, thì chiều âm đoạn đường đi vào trong bóng tối vật chất
sẽ là một sự tiến dần ra ngoài biên khu xác thân, gia đình, xã hội.
Trong
giai đoạn này ta cố tiến ra hoàn cảnh, phóng ngoại để mưu sinh, đem tâm
thần phục vụ gia đình, giang sơn, xã hội. Giai đoạn này sẽ giúp ta làm
nảy nở thân xác, trí não, tính tình. Đó là thời kỳ ta rong ruổi trên
đường trần hoàn để tìm sinh thú vật chất.
Thời kỳ
này tương ứng với tuổi ấu thời và tuổi thanh niên. Lúc ấy, bao tinh hoa
đều phát tiết ra ngoài, y như cây cỏ hai mùa xuân, hạ đâm chồi, nẩy lộc,
sinh lá, sinh hoa, muôn hồng, nghìn tía đua tươi, y như những bầy chim
vô tư lự một sớm rời tổ ấm, tung đôi cánh vô định về những phương Trời
xa lạ.
Nhưng rồi
ra bóng tối nhường bước dần cho ánh sáng. Mùa thu của cuộc đời trở về
với mái tóc hoa râm, và chúng ta cũng dần dà bước vào giai đoạn thứ hai
của cuộc đời, vào chiều dương, vào đoạn đường tở về ánh sáng tinh thần
bằng cách thay đổi dần quan điểm, sở thích, chí hướng.
Thời kỳ
này, bắt đầu khi con người bốn, năm mươi, «khi bóng dâu đã xế ngang
đầu».
Lúc ấy,
là lúc cần phải thu thập tinh hoa, phục hồi nhân cách, y như cỏ cây, sau
mùa khai hoa kết quả, khi thu, đông tới, sẽ thu hồi dần sinh khí vào
trong để sửa soạn một cuộc phục sinh, y như những cánh chim xạc xào tìm
về tổ ấm khi hoàng hôn xế bóng.
Thời kỳ
này là thời kỳ hồi tâm phản tỉnh, trở về với chính mình để tìm cho ra
mình, thời kỳ suy tư, tu tâm, luyện chí, phục hồi lại tâm hồn nhân cách
mà tuổi trẻ đã làm cho phá tán, lạc lõng.
Nhờ có
những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời, nhờ luân lý, nghệ thuật, học vấn,
nhờ sự suy tư, tu luyện, tâm hồn dần dần trở nên hoàn thiện, phục hồi
lại được quang huy Trời.
Trong
thời kỳ này, con người dần dần sẽ tháo gỡ được những dây nhợ đã trói
buộc mình vào hoàn cảnh, vào những công chuyện phù du, tạm bợ, để cố
gắng thần thánh hóa bản thân.
Một cuộc đời như vậy sẽ là một sự biến chuyển không ngừng để tìm về
chân, thiện, mỹ, một cuộc đời tìm tường sinh vĩnh cửu, qua những cảnh
phù du hư ảo.
Thời kỳ
đầu là thời kỳ nhân tâm phát triển, thời kỳ sau là thời kỳ đạo tâm hiển
dương, như đêm có vừng nguyệt, ngày có vừng dương, kế tiếp nhau theo
đúng thiên ý, thiên mệnh.
Đó là phác họa lại hai thời kỳ của vòng Dịch tiên thiên. Thời kỳ đầu
băng qua 32 quẻ âm từ Cấu đến Khôn, thời kỳ sau băng qua 32 quẻ dương từ
Phục đến Càn. Mà Càn là thuần dương, biểu hiện sự hoàn thiện.
HÌNH 18:
Đồ biểu tâm tính tương giao và Âm Dương thuận nghịch.
Hoàn
thiện được mình, thực hiện được tính bản nhiên thuần túy, chí thiện, là
trở lại được trung tâm điểm của vũ trụ, tiến lên tới Thái cực, là kết
hợp với Trời (phối Thiên) là hòa tấu khúc nhạc Trời muôn thuở (Hòa). Lúc
ấy sẽ «thung dung trung đạo» cùng đất Trời trường sinh bất tử.
Đề tài
này cũng đã được đề cập một cách khác trong sách Đại Học. Đại Học chủ
trương muốn tìm ra căn bản, tìm ra tính cách con người, thì phải biết
tĩnh trí, biết cố gắng suy tư, biết triền miên nghiên cứu mới mong thành
công được. Khi đã tìm ra được tính cách con người, sẽ có thể «chính tâm,
thành ý» để đi đến chỗ toàn thiện, toàn mỹ.
«Đại Học có mục phiêu rõ rệt,
Đuốc lương tâm cương quyết phát huy,
Dạy dân lối sống tân kỳ,
Chưa nơi hoàn thiện còn đi chưa ngừng.
Có mục phiêu rồi lòng mới định,
Lòng định rồi nhẹ gánh lo toan.
Hết lo lòng sẽ bình an,
Bình an, tâm trí rộng đàng xét suy
Xét suy rộng, tinh vi thấu trọn,
Thấu sự đời ngành ngọn đầu đuôi,
Trước sau đã rõ khúc nhôi,
Tức là gần đạo, gần Trời còn chi
Muốn đức sáng truyền đi thiên hạ,
Người xưa lo cải hóa dân mình,
Trị dân, trước trị gia đình
Gia đình muốn trị, sửa mình trước tiên
Muốn sửa mình, tâm nên sửa trước,
Sửa
tâm hồn trước cốt ý ngay.
Ý ngay
phải học cho dày,
Học
cho thấu triệt, mới hay
«khuôn Trời»
Hay «khuôn Trời», thoắt thôi thấu triệt,
Thấu triệt rồi, ý thiệt lòng ngay,
Lòng ngay, ta sẽ hóa hay,
Ta hay, gia đạo mỗi ngày một yên;
Nhà đã yên, nước liền thịnh trị,
Nước
trị bình, bốn bể bình an.
Từ vua
cho tới dân gian,
Tu
thân một mực, lấy làm căn
cơ...»
Các hiền
nhân, quân tử trong đạo Nho đã cố gắng bước theo «thiên đạo» trang
nghiêm này. Mới đầu các ngài cố gắng học hỏi, suy tư cho tận tường, thấu
đáo để tìm ra nguyên uỷ con người, tiếp đến các ngài ra công trau dồi
đức độ, lúc nào cũng kính cẩn như thể có Trời ẩn áo giáng lâm, lấy sự
hoàn thiện, lấy sự phối Thiên làm cùng đích đời mình: Tiền tài không mua
chuộc được khí phách, gian lao không làm nao núng được tâm hồn. Cao siêu
thay! quý trọng thay!
Trung Dung
đã dài dòng mô tả những ân sủng Trời dành để cho các bậc thánh hiền. Lời
lẽ Trung Dung phảng phất như lời lẽ Cựu Ước.
Sự tương đồng, tương tự ấy thực là lạ, vì thời xưa các tư tưởng rất khó
truyền bá: phương nào, phương ấy sống riêng tư, bí ẩn, cách biệt nhau
bằng bao nhiêu tầng hào lũy, núi non, sông biển và từ ngữ.
Đọc Trung
Dung, khảo sát lại tư tưởng thánh hiền qua Tứ Thư, Ngũ Kinh, ta phải
sửng sốt lạ lùng vì lòng tin tưởng, vì sự thánh thiện các ngài, y như có
quang huy Trời chiếu diệu qua đời sống, qua sách vở các ngài. Luận điệu
Trung Dung cũng y thức như luận điệu thánh hiền mọi nơi, mọi đời.
Còn gì
đẹp đẽ hơn là một chủ trương lấy Trời làm căn nguyên và cùng đích cho
đời người, coi đời người như một khúc nhạc tuyệt vời khởi thủy và tận
cùng đều bằng một âm điệu chân thiện mỹ, sau khi đã hòa tấu với muôn âm
thanh của nhân quần, vũ trụ. Còn gì đẹp đẽ hơn là thôi thúc con người
hăng hái tiến bước trên con đường hoàn thiện để cuối cùng đi đến chỗ
tuyệt đỉnh công phu, Trời người gặp gỡ.
Phối hợp
Trung Dung và Dịch kinh ta xác định lại bước đường tiến hóa nhân loại
như sau:
1. Trước
tiên là giai đoạn «phóng thể» («phóng tâm» theo Mạnh Tử)
tức là âm đạo, lấy ngoại cảnh vật chất làm mục phiêu chính.
2. Tiếp
theo là giai đoạn «hồi thể» (hồi tâm), lấy nội cảnh tinh thần làm
mục phiêu chính.
Đó là dương đạo.
3. Cuối
cùng là giai đoạn
«bản thể», «toàn thể»
tức là trung đạo, thung dung, thanh thả, vô tận, vô biên.
Dịch và
Trung Dung đều mong muốn chỉ vẽ cho con người lối dường hoàn thiện, và
đều có cùng đích là sự «chí thành, chí thiện» của con người.
HÌNH 19: TRUNG HÒA ĐỒ
Đồ bản
này biểu thị ba giai đoạn tiến hóa:
1 Âm đạo
để cải thiện vật chất,
2 Dương
đạo để cải thiện tinh thần,
3 Trung
đạo = Sự hoàn thiện.
(Trong
hình Thái Cực, nửa trắng là Trung Đạo, nửa đen là Hoàn Thiện.)
CHÚ THÍCH
Xin đọc các mục danh ngôn đối chiếu trong quyển II.
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
|