TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7
8
9 10
11 12
13 14
15 16
Chương 8
KHAI THÁC TRUNG DUNG
Bây giờ
đọc Trung Dung ta sẽ thấy nó rất hay rất rõ. Nó hay nó rõ, vì ta đã san
bằng được mọi khó khăn về từ ngữ, ta đã gỡ được mối tơ vò tính mệnh, và
nhất là ta đã nắm được chìa khóa Trung Dung của hai vua Nghiêu, Thuấn:
«Lòng
của Trời siêu vi huyền ảo,
Lòng
con người điên đảo ngả nghiêng.
Tinh
ròng chuyên nhất ngày đêm,
Ra
công ra sức giữ nguyên lòng Trời.»
Chu Hi đề
tựa Trung Dung như sau:
«Trung
ấy là không nghiêng, không ngửa,
Dung
ấy là muôn thuở y nguyên.
Trung
là đạo chính mọi niềm,
Dung
kia là lý hiển nhiên mọi đời.
Tâm
pháp này truyền nơi cửa Khổng,
Ông Tử
Tư sợ chóng sai ngoa,
Bút
thần tay thảo thiên hoa,
Muôn
vàn truyền lại Mạnh Kha sách này.
Sách
mới thoạt trình bày một lẽ,
Sau
dần dần mới tỏe thành muôn,
Cuối
cùng thu lại một nguồn.
Tung
ra tản mạn khắp muôn phương Trời,
Thu
cuốn lại dấu nơi ẩn áo,
Hay
sao, hay kỳ ảo khôn cùng.
Đó là
thực học chính tông,
Ai say
tìm hiểu sẽ thông ý màu.
Thông
ý màu rồi sau ứng dụng,
Dùng
cả đời cũng chẳng hề vơi.»
Chu Hi đã
cho ta thấy đại ý Trung Dung: «Thể duy nhất, dụng vẹn thù». Căn
nguyên chỉ một mà tác dụng hiệu quả muôn vàn.
Đồng thời
Chu Hi cũng đã gợi cho biết Trung Dung là một triết học cao siêu, một
phương pháp lý luận rất có mạch lạc. Ta có thể nói:
Thoạt
tiên, Trung Dung dùng phương pháp diễn dịch như Descartes: Từ một duyên
do căn bản suy ra ngàn vạn sự, ngàn muôn kết quả.
Trong phần thứ hai của sách, có thể nói được là Tử Tư dùng phương pháp
qui nạp như Bacon, đi từ những kết quả tạp thù vô số kể mà trở lại
nguyên nhân cũ. Nguyên nhân và kết quả đều gồm trong hai chữ Trời và
Thành.
Trời phát
quang huy, chiếu ảnh tượng người vào đáy lòng nhân loại.
ảnh tượng ấy vừa là thực thể cho tâm hồn dựa nương, vừa là tính mệnh
(vie) vừa là mệnh lệnh (ordre, loi), cũng vừa là đạo (voie). Ảnh tượng
Trời đó hoàn thiện và quang minh tuyệt đối. Trung Dung đã khéo mô tả
bằng hai chữ «thành, minh».
Trong
chương đầu Trung Dung, Tử Tư đã xác định căn bản tâm hồn con người; đồng
thời dạy luôn cả đạo làm người:
«Bản
tính cũng chính là thiên mệnh
Đạo là
noi theo tính bản nhiên.
Giáo
là cách giữ đạo nên.
Đạo
Trời giây phút vẫn liền với ta.
Rời ta
được đâu là đạo nữa.
Thế
cho nên quân tử giữ gìn,
E dè
cái mắt không nhìn,
Tai
nghe không nổi cho nên hãi hùng.
Càng
ẩn áo lại càng hiện rõ,
Càng
siêu vi càng tỏ sáng nhiều,
Nên dù
chiếc bóng tịch liêu,
Đã là
quân tử chẳng xiêu lòng vàng...»
Trời xa, nhưng quyền phép ngài siêu việt, vẫn soi sáng tâm khảm của trần
gian. Trời tuy xa nhưng vẫn giáng lâm, vẫn tại diện tiền không giây phút
nào ngơi. Đó là niềm tin tưởng then chốt cốt cán của Đạo Nho, và của các
thánh hiền Trung Hoa qua các thời đại. Tác giả Trung Dung nhắc tới lòng
tin tưởng đó ở đầu, giữa, và cuối sách Trung Dung. Cả chương 16 của
Trung Dung viện dẫn sự tin tưởng của muôn dân về thần quyền để minh
chứng sự giáng lâm của Thượng đế.
Trung
Dung viết:
«Quyền
phép thần linh oai hùng khôn xiết,
Nhìn
chẳng ra, nghe cũng chẳng thấy gì,
Nhưng
vẫn lồng vào vạn vật chẳng phân ly,
Khiến
chay tịnh tâm hồn, những chành áo xống,
Mời
cho làm những việc tâm thành thờ phụng,
Man
mác lẽ, như phảng phất ở trên,
Linh
lung, như mường tường ở hai bên.
Thần
giáng lâm lúc nào ta đâu có biết,
Cớ sao
ta dám bơ thờ khinh miệt?
Thật
siêu vi nhưng vẫn hiển hình,
Thật
hoàn hảo, không giấu nổi oai linh.»
Tác giả
Trung Dung khuyên ta nên theo phương pháp loại suy (raisonnement par
analogie) mà tìm ra căn bản tâm hồn ta, tìm cho ra đạo làm người, để cho
nhân tâm hết ngả nghiêng, cho đạo tâm siêu vi được tận hiển dương, tiến
tới thế trung hòa muôn thuở.
«Khi
chưa phát vui, thương, mừng, giận,
Gọi là
trung vì chẳng ngả nghiêng.
Phát
ra đúng tiết, hợp duyên,
Ấy là
hòa tấu ấm êm nhạc Trời.
Trung
ấy chính muôn đời căn bản,
Hòa
kia là đạo quán thiên thu,
Ước gì
đạt thế trung hòa,
Ấm êm
Trời đất, nhởn nhơ muôn loài.»
Chu Hi
bình giảng thêm:
«Nguồn
đạo ấy phát từ Thượng đế.
Chẳng
đổi thay, chẳng thể biến rời,
Hoàn
toàn sẵn có nơi người,
Một
giây một phút chẳng rời khỏi ta.»
Và
khuyên:
«Quay
vào ta mà tìm đạo ấy
Tìm
đáy lòng sẽ thấy chẳng sai.
Dẹp
tan cám dỗ bên ngoài,
Căn
lành sẵn có đồng thời khuếch sung.»
Một khi
con người được giác ngộ, tin có Trời ngự trị trong tâm khảm mình, chứng
giám những điều ẩn áo nơi đáy lòng mình, và lo hoàn thiện mình để tiến
tới sự phối hợp giữa tâm và tính, nhân tâm và đạo tâm, khi ấy con người
sẽ trở thành quân tử.
Đức Khổng
nói:
«Người
quân tử Trung Dung một đạo,
Kẻ
tiểu nhân trở tráo Trung Dung.
Trung
Dung quân tử thời thường
Phản
Trung Dung ấy là phường tiểu nhân,
Tiểu
nhân chẳng thẹn, chẳng cần,
Chẳng
còn sợ hãi, lần khân tháng ngày.»
Mục đích
của đạo Trung Dung là phối hợp thiên ý với nhân tâm, tính với tình, nhân
tâm và đạo tâm, cho nên là một đạo rất cao diệu. Đức Khổng nói:
«Đạo
Trung Dung cao siêu, toàn mỹ,
Theo
Trung Dung hồ dễ mấy ai.»
Theo đạo
Trung Dung rất khó, khó vì nhiều lý do. Đức Khổng nói:
«Ta
biết đạo Trung Dung thi hành khó,
Người
sắc sảo, quá trớn đi đã lỡ,
Kẻ ngu
đần, chậm chạp khó khuôn theo.
Ta
biết đời chẳng hiểu đạo cao siêu:
Người
hiền đức ỷ mình không suy xét,
Kẻ bất
lương trông vào thì mù mịt.
Uống
ăn kia ai cũng lấy làm thường,
Nhưng
mấy ai sành mùi vị tinh tươm?»
Mục đích
Trung Dung là phát triển cho đến cực độ mầm mống hoàn thiện sẵn có nơi
đáy lòng mình, theo thiên tính thiên lý sẵn có nơi mình mà phát huy ra
ba đại đức, ba nguồn sáng tinh thần:
Trí - nhân - dũng
Trí là
khôn ngoan. Khôn ngoan như vua Thuấn, biết Trời, biết Người, biết thăm
dò xét hỏi, biết «ẩn ác dương thiện». Trí để phục vụ đạo lý, chứ
không phải trí xảo của người đời.
Đức Khổng
nói:
«Ai
cũng nói ta đây tài giỏi,
Trên
đường đời rong ruổi ngược xuôi;
Sa
vào cạm bẫy người đời,
Sa
hầm, sụp hố, thoát thôi dễ nào.
Ai
cũng ỷ tài cao, biết rộng,
Theo
Trung Dung chẳng đặng tháng Trời.»
Nhân là
nhân đức nội tâm. Nhân như Nhan Hồi luôn lo lắng làm điều thiện, cho
gương lòng vằng vặc sáng lên như đèn Trời, chứ không phải nhân đức lộ
liễu bên ngoài của thế nhân. Những người có tài cán gan góc, vị tất đã
là những người nhân đức, vị tất đã theo nổi đạo Trung Dung.
«Người
có thể trị yên thiên hạ,
Người
có gan từ bả vinh hoa,
Gươm
trần người dám bước qua,
Trung
Dung đạo ấy khó mà người theo.»
Dũng
không phải là cái dũng vũ phu, mà chính là cái dũng tinh thần của người
quân tử, là cái dũng của bậc đạo hạnh: nếu «Xét thấy lương tâm mình
ngay thẳng, thì dầu đối với hàng ngàn muôn người vẫn đi qua một cách an
nhiên.»
Luôn
êm đềm, khoan dung mà chỉ giáo,
Người
vô đạo ta không màng ác báo.
Đó là
hùng dũng kiểu Nam phương,
Đó là
lối đường người quân tử.
Thích
đao binh, mình kè kè giáp trụ,
Chốn
sa trường chết bỏ cũng không sao,
Ấy
hùng dũng Bắc, của chiến sĩ hùng hào.
Người
quân tử ôn hòa, không phụ họa,
Hùng
dũng thay, ôi hùng cường cao cả.
Theo
Trung Dung một dạ, chẳng ngả nghiêng,
Ôi,
hùng dũng kẻ sao xiết ngang nhiên.
Nước
có đạo lòng trung kiên chẳng đổi,
Hàn
vi hay hiển đạt vẫn không thay đường lối.
Hùng
dũng thay, kẻ sao xiết oai hùng.
Lúc
nước nhà vô đạo lao lung,
Dẫu
muôn thác cũng không rời đạo cả,
Hùng
dũng thay, ôi hùng cường khôn tả.»
Ba đức «nhân,
trí, dũng» đó đều mầm mống trong đáy lòng mọi người; chân lý muôn
trùng hằng ẩn áo trong tâm khảm mọi người. Thánh hiền là những người có
công khuếch sung trí nhân dũng cho tới mức cao siêu, tuyệt diệu. Vì thế
đạo Trung Dung như hạt sồi của Lamartine,
lúc nhỏ chưa sinh sôi nảy nở thì rất tầm thường, nhưng khi đã triển
dương tới mức độ lớn lao, thì trở nên thiệt uy nghi, cao đại.
Theo
Trung Dung đạo Trời có hai đầu: Một đầu thì ẩn ảo huyền vi, tiềm ẩn ở
tít tận đáy lòng, còn một đầu thì mênh mông bát ngát. lúc sơ phát thì ẩn
áo siêu vi, nhưng lúc đạt đạo tới chỗ chí cùng, chí cực, thì vĩ đại.
«Đạo
người quân tử mênh mông,
Đồng
thời ẩn áo, mông lung khó dò.»
HÌNH 17: Thiên đạo, Nhân
đạo, Vật đạo
Tác giả
Trung Dung viện dẫn Kinh Thi để làm nổi bật những nét mênh mang và ẩn áo
đó:
«Diều
tung cánh sát từng mây biếc,
Cá
dương vây lặn miết đáy sâu.»
Rồi tác
giả khuyên ta nên tung tầm mắt mà quan sát vạn vật đất Trời để tìm cho
ra đại đạo. Quan sát đất Trời ta thấy gì? Ta sẽ thấy:
«Ngoài
nội chim kia còn chấp cánh,
Trên
lương yến nọ chẳng lìa đôi
Từng
mây kết ngãi lưng Trời...»
Đôi
chim ríu rít, đôi người chắt chiu.
Đầu Kinh
Thi, ta đọc thấy:
«Quan
quan thư cưu, tại Hà chi châu,
Yểu
điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.»
Trung
Dung viết:
«Đạo
quân tử từ nguồn phu phụ,
Tung
mãi ra trùm cả đất Trời.»
Đạo phu
thê là đạo phu xướng phụ tùy, để đi đến chỗ sắc cầm hòa hợp. Còn Trời
đất thì lúc nào cũng quấn quít lấy nhau, hưởng ứng nhau. Trời che, đất
chở, Trời sinh, đất dưỡng. Đầu đất là chân Trời. Vòng càn khôn lúc nào
cũng hiện ra nơi nhãn giới. Suy ra, thì trong đạo làm người, tâm phải
thuận theo tính, tâm phải biết phục mệnh. Nếu tâm theo tính, nếu nhân
tâm phục tòng thiên mệnh, thì tức là theo đúng đạo xướng tùy, hòa hợp
của đất Trời. Thế là Âm theo Dương, bóng tối nhường gót cho ánh sáng, sự
chết nhường chỗ cho sự sống. Thế là Dương sinh, Âm dưỡng, Dương sinh, Âm
trưởng. Tâm hồn sẽ tài bồi cho mầm tính nở tung muôn hoa đức hạnh, tâm
hồn sẽ phả quang huy của vừng dương thiên tính, sẽ biến hóa theo đúng
Đạo Trời.
Khi đạt
đạo, mảnh trăng lòng sẽ thoát ly hết mọi mây mù dục vọng, sẽ viên mãn,
như vầng nguyệt hôm rằm, tung hết mọi làn ánh sáng đã thụ hưởng được của
vừng dương thiên lý. Thế là Âm Dương phối hợp trong thế trung hòa của
Thái cực. Thế là «nhật nguyệt đồng minh» thành chữ Dịch muôn đời.
Vậy muốn
hiểu đạo Trung Dung, phải hiểu chỗ thấp, chỗ cao, chỗ gần, chỗ xa. Chỗ
đắc đạo, đạt đạo là Trung Dung, Trung đạo «dữ Thiên đồng đức»,
chí thành, chí thiện. Chỗ đạt đạo thì bao trùm hết không gian, thời
gian, rực rỡ ngàn trùng.
Chỗ khởi
điểm chỉ là một tàn lửa thiên lý, thiên chân, thiên mệnh, ẩn áo nơi đáy
lòng. Chỗ đạt đạo thì chỉ bậc chí thánh mới vươn lên tới, nhưng con
người đạo lý mở rộng chờ đón mọi người, và thực ra khởi điểm của nó cũng
dung dị tầm thường, dầu ngu phu, ngu phụ cũng vẫn hay biết và có thể thi
hành được như thường.
Quan điểm
Trung Dung phù hợp với Đạo Đức Kinh của Lão Tử:
«Muốn
làm những việc khó khăn.
Phải
từ chuyện dễ đi lần mới xong.
Muốn
làm những việc kỳ công,
Phải
từ việc nhỏ mới mong hoàn thành.»
Vậy thì đạo Trời
tuy rất khó, nhưng chính ra rất giản dị. Chúng ta chỉ việc làm những
công việc thông thường hằng ngày, không cần lập dị, «sách ẩn hành quái».
Đối với mọi người thì nên khoan dung, độ lượng, mà uốn nắn cho qui hướng
về đường thiện mỹ:
«Người
quân tử khi lo giáo hóa,
Sửa
trị người sẵn có khuôn người.
Thấy
người giác ngộ thì thôi,
Đã
chiều cải hóa, liệu bài ta ngưng.»
Còn đối
với mình, thì lúc nào cũng cúc cung tận tụy thi hành phận sự, coi người
như mình; đối với ai cũng cố vẹn tình, vẹn nghĩa, hết lòng, hết dạ:
«Đối
với người hết lòng, hết dạ,
Coi
mọi người cũng cả như mình.
Thế là
sắp tới tinh thành.
Việc
mình thoái thác chớ dành cho ai...»
Tìm bí
ẩn làm điều quái dị.
Cốt
mong cho hậu thế người khen
Xá chi
chuyện ấy nhỏ nhen,
Đã là
quân tử chẳng thèm quan tâm.»
Muốn
thành người quân tử, chúng ta phải:
«Tu
đức hạnh, hành vi thường nhật,
Nói
năng luôn đúng mực căn cơ.
Hành
vi khiếm khuyết nên lo,
Nói
năng thái hóa, liệu mà bớt đi.
Lời
nói với hành vi phù hợp;
Nói
làm sao, làm khớp như in;
Lòng
người quân tử triền miên,
Thấp
tha, thấp thỏm, mới nên công trình...»
Nếu thời
thường, lo hàm dưỡng tính tình, trau dồi óc chất như vậy, thì trí, nhân,
dũng sẽ như ngọn lửa, ngày một lan cháy rực Trời, như nguồn lai láng,
tràn ngập năm hồ bốn biển.
Ngu phu, ngu phụ nếu ra công tu tâm, dưỡng tính cũng có thể nên người
quân tử, nên gương cho nhân loại soi chung; nếu người quân tử biết tu
thân, hàm dưỡng khuếch sung tính tình thì có thể nên những trang hiền
thánh, chẳng kém gì Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ, Chu công.
«Đạo
quân tử như in lữ thứ
Muốn
đi xa phải tự chỗ gần.
Đạo
người như cuộc đăng san,
Muốn
lên tới đỉnh, đầu đàng là chân.»
Chân là
ngu phu, ngu phụ, mà đỉnh thì là đại thánh, đại hiền. ở gần là chuyện
làm cho gia đình ấm êm, hòa hợp. Ở xa tít tắp là chuyện quốc chính, cai
trị muôn phương, lo sao cho mọi người được sống những ngày thanh bình,
tươi đẹp. Thấp là những chuyện tình ái thông thường giữa những vợ chồng,
mà cao là nền luân lý phổ quát, bao gồm hết cương thường. Cao hơn nữa là
đạo thánh hiền, «dữ Thiên đồng đức», vượt tầm không gian, thời
gian, trường tồn cùng với càn khôn, vũ trụ.
Khởi điểm
ở ngay thâm tâm, khởi điểm là chữ kính, chữ sợ:
«E dè
cái mắt không nhìn,
Tai
nghe không nổi cho nên hãi hùng.»
Cùng
đích, mục phiêu sẽ là chỗ chí thành, chí thiện, treo gương cho khắp thế
soi chung...
Nhờ sự tu
thân tích đức, tâm hồn người hiền thánh rạng tỏ dần, và khi long vân gặp
hội, khi đức cả đã cảm ứng được đất Trời, sẽ đạt tới địa vị cao sang
tuyệt phẩm. Vì thế giữa sách, Trung Dung đề cập tới sự cao cả, vinh
quang của các đấng đại thánh, đại hiền:
Trung
Dung viết:
«Vua
Thuấn là người trọn niềm hiếu thảo,
Đức
sánh thánh hiền, vị cao sang ngôi báu;
Giàu
vô biên, giàu bốn bể gồm thâu,
Tổ
tiên nơi tôn miếu được cao dao,
Con
con, cháu cháu đều nương vào tiếng cả.
Đức đã
lớn, địa vị đâu có khó,
Bổng
lộc theo, danh giá cũng chạy theo.
Sống
lâu dài, tuổi thọ lại thêm nhiều.
Vì xưa
nay Trời sinh ra muôn vật,
Đều
chăm nom, vun sới tùy tài, tùy chất;
Đã tốt
tươi chăm bẫm tốt tươi thêm,
Đã
nghiêng ngả, phạt quang cho hết ngả nghiêng.»
Luật Trời
đất là như vậy: Đã tốt tươi, tài bồi cho thêm tươi tốt, đã tàn tạ thì sẽ
bị vứt bỏ đi... Xưa nay bất kỳ ai đã vượt được thang tiến hóa lên tới
mức đại trí, đại đức đều được kính tôn trọng vọng. Trung Dung cũng hết
lời tán tụng Văn vương, Võ vương... Trời đã cho các bậc đại trí, đại
hiền, đại đức đó ra đời, để làm vinh danh Thượng đế, để làm ích lợi cho
chúng dân, và cũng là để treo gương sáng cho đời soi... Bổn phận hậu
sinh là phải noi gương tiền bối như vậy mới thật là hiếu thảo...
Trung
Dung cho rằng hiếu thảo sáng suốt là biết noi theo đường lối sự nghiệp
của cha ông. Người xưa lập ra những cuộc tế tự nơi tông miếu cốt là để
thắt lại mối giây liên lạc họ hàng giữa các người còn sống, xác định lại
tôn ti, trật tự, kẻ hèn, người sang trong gia tộc, tỏ tình thân ái với
họ hàng, và cũng là để hun đúc lại khí thiêng truyền thống, tâm niệm
bước theo lối đường của tổ tông xưa:
«Nghiệp xưa tôn tỏ mọi điều,
con
người hiếu thảo y chiếu khuếch trương,
Xuân
thu tới, sửa sang miếu mạo,
Bao đồ
thờ xiêm áo bày ra,
Mùa
nào thức ấy hương hoa,
Nhờ kỳ
lễ tổ, nhận ra họ hàng.
Theo
chức tước, biết sang, biết khó,
Theo
phân công, tổ rõ hiền, ngu.
Rồi ra
chén tạc, chén thù,
Dưới
trên chuốc chén, nhỏ to đãi đằng,
Khi
yến ẩm, mới phân già, trẻ,
Theo
tóc răng, định lẽ dưới, trên.
Ngôi
xưa, nối gót bước lên,
Lễ xưa
tôn tổ, giữ nguyên chẳng rời.
Nhạc
cha ông, không thôi hòa tấu,
Ngài
yêu gì, ta cũng dấu, tôn.
Trước
sau, mất cũng như còn,
Dẫu là
sống thác, chẳng mòn tình thâm.
Lòng
hiếu thuận, không phân sống chết,
Thế
mới là trọn hết đạo con...»
Chí tổ
tiên xưa là thờ Trời, kính sợ mệnh Trời, cho nên muốn trọn niềm hiếu
thảo, tất nhiên cũng phải tin kính Trời. Trung Dung phân biệt rõ ràng:
Thờ Trời và kính nhớ tổ tiên.
Muốn hiếu kính tổ tông phải biết thờ Trời:
Kinh Thi
viết:
«Muốn
nhớ tới tổ tông khi trước,
Hãy
gắng công tích đức tu nhân,
Mệnh
Trời phối hiệp vào thân,
Muôn
ngàn phước lộc xa gần chiêu lai.
Thuở
triều Ân còn thời thịnh trị,
Đã
từng cùng Thượng đế tất giao,
Gương
triều Ân hãy soi vào,
Mệnh
Trời cao cả lẽ nào dễ đâu.»
Hiếu kinh
cũng cho rằng hiếu thảo chân chính là lập thân giữ đạo, lưu danh hậu
thế...
Thế mới đúng là «sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn». kính nhớ tổ
tiên thực ra khôn phải là xì xụp van vái. Như vậy Tử Tư muốn dùng lòng
hiếu kính tổ tiên để lưu truyền đạo Trời mãi mãi...
Từ thiên
«Ai công vấn chính» về sau, Trung Dung bắt đầu dùng phương pháp quy nạp.
Trung Dung chủ trương rằng muốn cầm đầu giang sơn, sửa đổi giường mối
chính trị vẫn không qua được lòng người, không qua được điều nhân nghĩa,
không qua được vấn đề tu thân, không qua được Trời.
«Biết
người, trước phải biết Trời,
Hiểu
Trời chẳng nổi, hiểu người làm sao.»
Trời là
căn để cho một nền chính trị hoàn hảo. Sự hoàn thiện vẫn là căn bản cho
mọi động tác nhân loại. Tung tầm mắt ra khắp muôn phương, ta thấy ngũ
luân là năm bổn phận cao cả nhất. Nhưng ngũ luân vẫn phải dựa vào ba đức
là: Trí, Nhân, Dũng. Trí, Nhân, Dũng truy tới căn nguyên lại chính là
biểu dương của chữ Thành, của sự toàn thiện muôn thuở.
Ai Công
hỏi về chính trị, Khổng Tử trả lời:
«Phép
chính trị vua Văn, vua Võ,
Nay
hãy còn ghi ở sử xanh.
Người
ngoan, chính trị thịnh hành,
Con
người gian ác, tan tành quốc gia.
Người
tài đức phun hoa chính trị,
Như
đất mầu, trổ rễ cỏ cây.
Chính
quyền lau lách, dắt dây,
Cầm
quyền hành chính dở hay tại người.
Nếu
muốn được nhân tài giúp sức
Mình
cố sao tài đức hơn người.
Tu
thân lấy đạo tài bồi,
Đạo tu
trước phải rạng ngời đức nhân.
Người
chân chính là nhân là ái,
Yêu từ
nhà yêu mãi ra xa,
Nghĩa
là mọi vẻ tinh hoa,
Muốn
dân trọng nghĩa, trước ta tôn hiền.
Phân
thân sơ, biết hay hèn,
Trọng
nhân, trọng nghĩa, xây nền lễ nghi.»
Như vậy,
rút lại, ta phải để tâm khuếch sung Nhân, Trí, Dũng, cố gắng tiến tới
chỗ chí thành, chí thiện. Ánh sáng Trời cao cả, sự hoàn thiện thiên
nhiên nơi đáy lòng ta đó, có khi sinh ra đã biết, có khi nhờ học hỏi mới
biết, có khi vì lao lung, cùng khốn mới biết, nhưng đã biết thì cũng chỉ
là một như nhau. Có khi tự nhiên ta muốn trở nên hoàn thiện, có khi vì
lợi lộc mà ta cố trở nên hoàn thiện, có khi vì bắt buộc mà ta trở nên
hoàn thiện, nhưng kết quả trước sau vẫn là một.
Muốn tiến
tới hoàn thiện, điều kiện thiết yếu là phải biết gắng gỗi công trình.
«Muốn
thông thái không ngoài học vấn,
Muốn
tu thân phải gắng công lao,
Muốn
nên hùng dũng anh hào,
Hai
câu liêm sỉ ghi vào thâm tâm.»
Then chốt
vạn sự, chung quy vẫn chỉ là một chữ Thành. Dẫu đứng đầu trăm họ, thống
lãnh giang sơn, cũng vẫn phải lấy sự tu thân, sự cải thiện mình làm gốc.
Bất kỳ quốc sách chân chính nào cũng phải xây trên căn bản toàn thiện.
Tóm lại,
con người sinh ra ở đời cốt để trở nên hoàn thiện:
«Hoàn
toàn là đạo của Trời,
Trở
nên hoàn thiện đạo người xưa nay.»
Những bậc
đại thánh trong thiên hạ tự nhiên có một đời sống thánh thiện, hành vi
tự nhiên hoàn hảo, ý nghĩ tự nhiên sáng suốt. Còn những người phàm tục
như chúng ta phải cố công cố sức đêm ngày mới mong trở nên hoàn thiện
được.
Trung
Dung viết:
«Còn
những kẻ cố công nên thánh
Gặp
điều lành phải mạnh tay co,
Ra
công học hỏi thăm dò,
Học
cho uyên bác, học cho tận tường.
Đắn đo
suy nghĩ kỹ càng,
Biện
minh thấu triệt, mới mang thi hành.
Đã
định học, chưa thành chưa bỏ;
Đã hỏi
han, chưa tỏ chưa thôi.
Đã
suy, suy hết khúc nôi,
Chưa
ra manh mối, chưa rời xét suy,
Biện
luận mãi tới khi vỡ lẽ,
Chưa
rõ ràng, không thể bỏ qua.
Đã
làm, làm tới tinh hoa,
Tinh
hoa chưa đạt, việc ta còn làm.
Người
một chuyến thâu toàn thắng lợi,
Ta tốn
công dở dói trăm khoanh.
Người
làm mười bận đã thành,
Ta làm
nghìn thứ ta ganh với người.
Đường
lối ấy nếu ai theo được,
Dẫu u
mê sau trước sẽ thông.
Dẫu
rằng mềm yếu như không,
Sớm
chày cũng sẽ ra lòng sắt son.»
Nếu cố
gắng, con người sẽ cải thiện hoàn toàn được mình, đó là luật tiến hóa
của Trời đất: muôn vật đều tiến từ thô sơ tới tinh vi, từ mầm mống tới
trưởng thành, từ hỗn độn tới quy mô tổ chức, từ tối tăm đến sáng láng.
Như vậy con người cũng phải khuếch sung, tài bồi mầm mống đức hạnh nơi
đáy lòng mình để tiến tới chỗ tinh vi cao diệu.
«Đạo
trời đất một câu tóm hết,
Làm
muôn loài nhất thiết một khuôn,
Nhưng
mà sinh hóa khôn lường
Đất
trời đường lối mênh mang rộng dày.
Cao
minh trong sáng xưa nay,
Xa gần
vĩnh cửu, đó đây khôn lường.
Kìa
như trời vài nguồn sáng sáng,
Nhưng
tới khi tản mạn vô cùng,
Lửng
lơ nhật nguyệt hai vừng,
Muôn
vàn tinh tú tưng bừng treo trên.
Trời
còn che chở mọi miền.
Kìa
như đất vài thưng bụi cát,
Nhưng
một khi bát ngát rộng dày,
Hoa
sơn nó chở như bay,
Muôn
vàn sông biển hút ngay vào lòng.
Đất
còn chở hết non sông.
Kìa
núi non đá chồng mấy tảng,
Nhưng
một khi khoáng đãng vươn cao,
Cỏ cây
muôn khóm chen nhau,
Muông
chim cầm thú nương vào ở ăn.
Núi
còn biết mấy kho tàng.
kìa
sông nước mấy ang, mấy gáo,
Nhưng
một khi biến ảo mênh mông.
Sấu,
rùa, cá, giải, giao long,
Sinh
sinh, hóa hóa, vẫy vùng triền miên
Nước
còn biết mấy nguồn tiền,
Biết
bao hóa phẩm còn chìm bể sâu.
Việc
Trời gẫm xiết bao huyền ảo,
Thực
sâu xa, ẩn áo không cùng,
Thực
là đáng mặt Hóa công.»
Như vậy luật tạo hóa là muốn cho mọi người cải thiện, tiến hóa không
ngừng. Như vậy con người phải cố gắng, tiến bước mãi trên con đường hoàn
thiện, không lúc nào được dừng chân hay lui gót.
Khi đạt
tới mức độ hoàn thiện, sẽ đạt đạo Trung Dung «dữ Thiên đồng đức»,
sẽ cùng Trời đất vững bền muôn thuở.
«Bậc
chí thánh không hề ngơi nghỉ,
Không
nghỉ ngơi nên sẽ vững bền.
Vững
bền muôn vẻ trưng lên,
Trưng
lên vang dội khắp miền gần xa.
Khắp
gần xa ắt là dày rộng,
Đã
rộng dày thời cũng cao minh.
Rộng
dày để chở chúng sinh,
Cao
minh che khắp sinh linh xa gần.
Trường
cửu để tác thành muôn vật,
Rộng
dày nên cùng đất sánh duyên.
Cao
minh kết ngãi thanh thiên,
Vô
biên, vô tận triền miên khôn cùng.
Được
như vậy không trưng vẫn tỏ,
Tuy ở
yên, biến hóa khôn lường,
Không
làm mà vẫn thành công...»
Khi đạt tới giai đoạn «Thiên nhân nhất quán», giai đoạn huyền
đồng, thánh nhân sẽ được phối hợp với Trời, thông phần vinh hiển cao
diệu của Trời.
Trung
Dung viết:
«Chỉ
có đấng chí thánh trong trần thế,
Mới có
đầy đủ thông minh trí tuệ,
Y như
thể có Trời ẩn áo giáng lâm,
Mới
khoan dung, hòa nhã, ôn thuần,
Y như
có dung nhan Trời phất phưởng;
Phấn
phát tự cường, kiên cương, hùng dũng,
Y như
là đã cầm giữ được sức thiêng.
Trang
trọng khiết tinh, trung chính, triền miên,
Y như
thừa hưởng được đôi phần kính cẩn,
Nói
năng văn vẻ, rõ ràng, tường tận,
Y như
là chia được phần thông suốt tinh vi.
Mênh
mang sâu thẳm, ứng hiện phải thì,
Mênh
mang như khung Trời bao la, vô hạn,
Sâu thẳm như vực muôn trùng
thăm
thẳm...»
Bậc chí thánh đó sẽ vì đời sang sửa đại kinh:
«Chỉ
những đấng chí thánh trong thiên hạ,
Mới có
thể vì đời sang sửa đại kinh.
Mới có
thể xây căn bản cho xã hội quần sinh,
Mới
thấu rõ luật đất Trời sinh hóa...»
Các ngài
sẽ tiên tri, tiên đoán, biết trước những công cuộc hưng vong, suy thịnh
của quốc gia...
Đạo
Trung Dung lúc đạt tới cùng cực, thực là mênh mông, bát ngát:
«Đạo
thánh nhân to sao, to lớn quá,
Nó
mênh mang, biến hóa chúng nhân.
Nó
cao, cao vút tới Trời thẳm muôn tầm;
Nó
rộng, rộng bát ngát khôn kể xiết.
Gồm
thâu mọi điều lễ nghi, chi tiết.
Bao uy
nghi quán triệt hết chẳng trừ.
Đợi
thánh nhân, Trời mới phú thác cho,
Không
đức cả, Trời không ngưng đạo cả.»
Đạo đó,
con đường hoàn thiện đó là con đường cho quân tử noi theo:
«Nên
quân tử dốc một lòng, một dạ,
Trọng
kính Trời, quyết gắn bó học hành.
Tiến
sao cho tới mức rộng rãi, tinh anh,
Mức
cao sáng của Trung Dung đạo cả,
Ôn
điều cũ, học thêm điều mới lạ,
Chuộng
lễ nghĩa, sống đời sống nết na.
Ở ngôi
cao, không có thói kiêu xa,
Ở cấp
dưới, không làm điều trái nghịch,
Nước
có đạo, chỉ một nhời làm tiến ích,
Nước
đảo điên, lặng lẽ đủ dung thân...»
Đạo
thiên nhiên đó, đã được đức Khổng, nương theo các vua Nghiêu, Thuấn,
Văn, Võ, đem truyền dạy và phổ biến cho đời:
«Đức
Khổng nối tiếp đạo Thuấn, Nghiêu,
Làm
sáng tỏ lối đường Văn, Võ.»
Tóm lại
đạo quân tử mới đầu ngỡ tầm thường, giản dị, nhưng dần dần mới thấy nó
thật chứa chan ý vị, đầy vẻ đẹp tươi, và mênh mông, bát ngát. Nó khởi
điểm từ chỗ biết kính sợ e dè, dẫu ở một mình nơi thanh vắng cũng chẳng
dám làm điều gì đáng để hổ ngươi, để tiến tới chỗ «dữ Thiên đồng đức»
chỗ hoàn hảo tuyệt vời. Đó là đại ý đoạn kết sách Trung Dung:
«Thơ
rằng:
Gấm mặc trong, ngoài phủ áo sa,
Là vì
ngại gấm đầy hoa lòe loẹt,
Nên
đạo quân tử ám nhiên ẩn ước,
Sau
dần dà mới sáng rực mãi lên;
Đạo
tiểu nhân mới ngó ngỡ là đèn,
Nhưng
càng ngày càng tối đen, tối xẫm.
Đạo
quân tử đạm thanh, không ngán ngẩm,
Đơn sơ
nhưng chan chứa vẻ đẹp tươi;
Thuần
phác nhưng lý sự chẳng kém ai.
Biết
xa gần, biết nguyên lai bản mạt
Biết
lẽ vi hiển, vừa rỡ ràng, vừa e ấp,
Là có
thể bước vào nẻo đức đường nhân.
Thơ
rằng:
Cá tuy lặn sâu thẳm mấy tầm,
Nhưng
bóng dáng vẫn rõ ràng, hiển hiện.
Nên
quân tử lo xét mình cho chín,
Đừng
cho tội khiên làm u ám thâm tâm.
Người
quân tử vượt trổi quá chúng nhân,
Chính
ở chỗ mọi người trông chẳng đặng.
Thơ
rằng:
Chái
tây bắc một mình thanh vắng,
Cũng
đừng làm chi đáng để hổ ngươi.
Nên
quân tử không làm vẫn thu phục lòng người,
Chẳng
nói năng, nhưng ai nấy đều tin tưởng.
Thần
thánh giáng lâm, không một lời động dạng,
Nhưng
mọi người tuyệt nhiên hết tranh giành.
Nên
quân tử không thưởng, mà dân vẫn đua tranh,
Không
giận dữ, mà người sợ hơn oai rìu búa.
Thơ
rằng:
Văn
Vương chẳng phô trương đức độ,
Nhưng
chư hầu đâu đấy vẫn khuôn theo.
Người
quân tử nếu dốc một dạ kính yêu,
Đạt
đức cả, thiên hạ lẽ tất nhiên thịnh trị,
Thơ
rằng:
Ta
muốn đức rạng ngời, sáng tỏ,
Không
cần chi lớn tiếng hay làm bộ ra oai.
Đức
Khổng nói dùng miệng lưỡi, hay kiểu cách bên ngoài,
Cảm
hóa dân, lối ấy rất nên thô thiển.
Thơ
rằng:
Đức
nhẹ như lông;
Lông
còn có bề hơn kém,
Đức
Trời cao, siêu việt chẳng tăm hơi,
Thực
là hoàn hảo tuyệt vời.»
Chu Hi
bàn thêm:
«Tử Tư trên kia
vừa
nói tới điều chí cực,
Nay
quay về nói lại chủ chốt căn nguyên.
Nhắc
ta tu thân căn cốt ở kính tin.
Dẫu
chiếc bóng cũng không làm điều tà khuất.
Suy
rộng ra nếu ai cũng dốc một lòng chính trực,
Thì
thiên hạ lo chi chẳng an bình.
Khen
nhân đức khi đạt mức huyền linh,
Sẽ bát
ngát, vô thanh và vô xú.
Một
lời lẽ gồm biết bao tự sự,
Lòng
thiết tha khẩn khoản muốn dạy người.
Bao ý
tình thắm thiết biết mấy mươi,
Học giả ta lẽ nào không hết
lòng
hết sức.»
CHÚ THÍCH
Thiên mệnh chi vị tính... Suất tính chi vị đạo. Tu đạo chi vị giáo. Đạo
dã giả bất khả tu du ly dã. Khả ly phi đạo dã. Thị cố quân tử giới thận
hồ kỳ sở bất đổ. Khủng cụ hồ kỳ sở bất văn. Mạc hiện hồ ẩn, Mạc hiển hồ
vi. Cố quân tử thận kỳ độc dã.
天 命 之 謂 性;
率 性 之 謂
道;
修 道 之 謂 教 道 也 者,
不 可 須 臾
離 也;可
離,
非 道 也 是 故 君 子 戒
慎 乎 其 所 不 睹,
恐 懼 乎 其 所 不 聞 莫
見 乎 隱,
莫 顯 乎 微 故 君 子 慎
其 獨 也
(Trung
Dung, ch.1)
Tử viết: Đạo chi bất hành dã, ngã tri chi hĩ. Trí giả quá chi;
ngu giả bất cập dã. Đạo chi bất minh dã, ngã tri chi hĩ. Hiền giả quá
chi; bất tiếu giả bất cập dã. Nhân mạc bất ẩm thực dã, tiễn năng tri vị
dã. 子
曰
道
之
不
行
也,
我
知
之
矣;
知
者
過
之;
愚
者
不
及
也
道
之
不
明
也,
我
知
之
矣;
賢
者
過
之;
不
肖
者
不
及
也
人
莫
不
飲
食
也
鮮
能
知
味
也
(Trung Dung, ch.4,
tr.44)
Tử viết: Thuấn kỳ đại trí dã dư ! Thuấn hiếu vấn nhi hiếu sát nhĩ ngôn,
ẩn ác nhi dương thiện. Chấp kỳ lưỡng đoan, dụng kỳ trung ư dân. Kỳ tư dĩ
vi Thuấn hồ.
子 曰 舜 其 大 知 也 與
舜 好 問 以 好 察 邇 言 隱 惡 而 揚 善 執 其 兩 端,
用 其 中 于
民 其 斯 以 為 舜 乎
(Trung
Dung, ch.6, tr.46)
Kinh
Thi,
Quốc phong, Chu Nam, Quan Cưu.
«Đôi
thư cưu nó kêu quang quác,
Bãi sông Hà man mác chắt chiu.
Bên người thục nữ yêu kiều,
Âm = Đất, bóng tối, đêm, chết, kém. Dương = Trời, ánh sáng, ngày, sống,
hơn. (In, Iang: duo elementa quibus constant res
universae. Elementum Iang referre solet perfectiorem et In
imperfectiorem ex duabus rebus quoe inter se aut conveniunt aut
opponuntur, quales sunt sol et luna, coelum et terra rex et subditus,
mas et femina, actio et quies, dies et nox, lux et tenebroe...
(Couvreur, Dictionnarium sinicum et Latinum, p.1100)
Thiên hạ chi đạt đạo ngũ; sở dĩ hành chi giả tam. Viết: quân thần dã,
phụ tử dã, phu phụ dã, côn đệ dã, bằng hữu chi giao dã; ngũ giả thiên hạ
chi đạt đạo dã. Trí nhân dõng tạm giả, thiên hạ chi đạt đức dã. Sở dĩ
hành chi giả nhất dã.
天 下 之 達 道 五,
所 以 行 之
者 三,
曰:
君 臣 也,
父 子 也,
夫 婦 也,
昆 弟 也,
朋 友 之 交
也 五 者,
天 下 之 達 道 也 知,
仁,
勇 三 者,
天 下 之 達
德 也.
所 以 行 之 者 一 也
(Trung
Dung, ch.20, tr.68)
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7
8
9 10
11 12
13 14
15 16
|