TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5
6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
Chương 6
HAI CHỮ TRUNG DUNG
V iết sách khó, nhưng tìm nhan đề sách cũng chẳng
phải dễ. Sách là nhan đề phân tán ra, nhan đề là sách cô đọng lại.
Tiền nhân xưa chắc đã lao tâm, khổ tứ nhiều mới tìm ra được hai chữ
Trung Dung. Hơn nữa, với sự sâu sắc thâm trầm cố hữu, chắc các ngài cũng
đã cố làm sao cho hai chữ Trung Dung được thật sâu sắc thâm trầm.
Ngược lại, ngày nay muốn tìm hiểu hai chữ Trung Dung cũng không phải là
chuyện dễ. Phải khảo cứu từ nguyên, nghiên cứu tượng hình (symbole), căn
cứ vào lời giải thích của các danh nhân danh sĩ lịch đại, mới mong tìm
ra manh mối được.
Trung
中, theo từ
nguyên
là một mũi tên bắn trúng hồng tâm.
Trung
中là
giữa, là tâm điểm (centre); Dung
庸
là thường (permanent, éternel), là bất biến (immuable, invariable).
Hội những ý trên ta đã thấy mục đích Trung Dung là muốn tìm cho ra tâm
điểm vũ trụ, tâm điểm cuộc đời, băng qua mọi biến thiên, để trở về tâm
điểm bất biến hằng cửu ấy.
Xét về tượng hình
(symbole), ta thấy trung điểm, trung cung từ Á sang Âu, tự cổ chí kim,
luôn luôn tượng trưng cho ngôi vị tối thượng.
HÌNH 5: Trung Quốc tinh tòa
khái lược đồ.
Để chứng minh điều ấy, chúng ta
hãy nên phóng khoáng, đừng gò bó mình vào trong đời Xuân Thu, Chiến
Quốc, trong biên giới Trung Hoa, hay phạm vi Nho giáo, mà hãy tạm cho
lòng chu du khắp bốn phương, tung hoành trong lịch sử nhân loại để tìm
hiểu chữ Trung.
Khảo sát thư tịch
Nho giáo, ta thấy trung điểm, trung dung bao giờ cũng tượng trưng cho
ngôi chí tôn vô đối. Đó là:
- Hoàng Cực trong
thiên văn.
- Thiên Trì trong
la bàn địa lý.
- Thái Cực trong
thiên Tiên thiên bát quái.
- Ngũ thập trong
Hà Đồ.
- Ngũ trong Lạc
Thư.
- Hoàng Cực trong
Hồng Phạm Cửu Trù.
- Trung Cung
trong Minh Đường.
Dịch luôn đề cập
đến Trung,
Trung Hành,
Trung Đạo.
HÌNH 6: Trung Điểm trong
Đồ Thư.
Dịch chủ trương:
Chính trung là ngôi vị của trời
và người quân tử phải thông hiểu nghĩa lý của chữ Trung.
HÌNH 7: Đế xuất Chấn đồ
Hình trích trong
Dịch kinh lai chú đồ giải của Lô lăng Cao tuyết Quân và Vĩnh
xuyên Lăng hậu tử.
Trung điểm của
bát quái đồ có viết chữ Đế
帝 và 5
chấm (Nơi dưới chú: «Vương Tạo hóa chi tôn xưng tức Thiên, Ngũ dã.»
王 造 化 之
尊 稱 即 天 五 也.
Nghĩa là: Đế hay
Vương là tiếng để tôn xưng đấng Tạo hóa tức Trung, tức ngũ.
Trong quyển
Dịch kinh lai chú đồ giải có một đồ hình Hậu thiên bát quái, ở tâm
điểm có chữ Đế.
Lễ Ký cho rằng:
Trung Dung là đạo của bậc vương giả.
Đọc Mạnh Tử ta
cũng thấy chữ Trung bao hàm nghĩa hoàn thiện.
Đời Hán, Vương
Thông cũng đề cập tới «trung thuyết» theo vi ý của Dịch và chủ trương:
«Mặc cho
biến hóa muôn nghìn,
Trung tâm ta
vẫn giữ nguyên chẳng rời.»
Đến đời Tống, chữ
Trung trở nên minh xác hơn.
Ngũ Phong (Hồ
Hoằng, ?-+1163) định nghĩa Tính là tuyệt đối siêu việt
trên các quan niệm thiện ác, và chủ trương Trung tượng cho
Tính.
Lam Điền Lữ Thị cũng cho rằng: «Trung chính là Tính, là Thiên đạo.»
Nhưng đọc những lời tranh luận của Chu Hi và Lục Tượng Sơn chữ Trung và
chữ Thái Cực
ta mới hiểu rõ ràng quan niệm của tiên nho về chữ Trung.
Chu Hi cho rằng Thái Cực ở trung tâm vạn vật nhưng Thái cực không phải
là trung điểm. Trung như vậy chỉ là ngôi vị của Thái Cực.
Ông viết: Gọi là cực để diễn tả sự chí cực của Lý ây, gọi là Trung để
diễn tả sự không lệch lạc của Lý ấy. Tuy cùng một lý, nhưng danh nghĩa
phải dùng cho tùy nghi, thích dáng.
Lục Tượng Sơn phóng khoáng hơn, chủ trương dứt khoát rằng: Trung là cực.
Ông viết: Cực cũng là Lý ấy, Trung cũng là Lý ấy.
Lại nói: Gọi là Nhất hay Trung cũng vẫn là Thái Cực.
Khảo sát nền văn học nước nhà, ta thấy Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)
cũng đã thấu nghĩa chữ Trung, thấu hiểu định mệnh cao sang con người.
Năm Nhâm Thìn (1532)- lúc ấy Cụ 41 tuổi - nhân cùng các hương lão dạo
chơi bến Trung Tân
中 津
bên sông Tuyết Giang, Cụ thấy hai chữ
Trung Tân có thể bao quát đạo làm người nên cho xây một quán gọi
là quán «Trung Tân», dựng một bia gọi là bia «Trung Tân»
trên bến sông, để truyền sở học uyên nguyên lại cho hậu thế.
Cụ cắt nghĩa Trung là hoàn thiện, Tân là bến bờ, ý muốn nói con người
chỉ được dừng chân nơi bến bờ hoàn thiện.
Nhân sinh quan của Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là nhân sinh quan của
Trung Dung, Đại Học; nhân sinh quan của các bậc thánh hiền.
Tổng hợp các quan điểm thánh hiền Nho giáo, ta thấy Trung là ngôi vị của
Thái Cực, của Hoàng Cực, bất thiên, bất ỷ, là nguồn gốc vạn vật, và là
tuyệt đỉnh hoàn thiện làm tiêu chuẩn cho muôn loài, muôn vật vươn lên.
☸
Mở rộng tầm khảo sát, ta sẽ thấy trung tâm, trung điểm bao giờ cũng
tượng trưng cho căn nguyên, cho Tuyệt đối thể và Trung đạo là đạo «vô
thượng», là đạo Huyền đồng (mysticisme), hay là Thiên đạo. Vì thế các
nhà huyền học (mystiques), tự cổ chí kim, không phân đạo giáo, đều
truyền thụ cho nhau một chữ Trung.
Huyền học Hồi giáo gọi trung điểm là thiên cung (station divine).
Huyền học Do Thái (Qabbalah hébraðque) gọi Trung điểm là «Thánh điện»
(Saint Palais),
hay Trung cung (the Middle Chamber).
Phật giáo cũng đề cập nhiều tới Trung Đạo (Majjhimā patipadā). Đức Phật
Thích Ca đã tìm ra Trung Đạo và Trung Đạo đem lại cho con người viên
giác thanh tịnh, niết bàn.
Thiên Thai Tông gọi Thật Tướng là Trung Đạo.
Hoa Nghiêm Tông lấy Pháp Giới làm Trung Đạo.
Pháp Tướng Tông lấy Duy Thức làm Trung Đạo.
Trung là duy nhất, tuyệt đối, tuyệt đãi, là căn nguyên sinh vạn pháp.
Trung Đạo, trung điểm ấy tức là điểm bất biến, là chân tâm nằm giữa mọi
biến thiên. Quan niệm này được tượng hình bằng chữ
Vạn
卍 và trục các bánh xe «Bát Chính Đạo»,
«Thập nhị nhân duyên», ý nói trong thân «Tứ đại giả hợp» vẫn có một điểm
chân nguyên vĩnh cửu, trường tôn hay niết bàn bao giờ cũng nằm trong
trung tâm luân hồi.
HÌNH 8:
Oum mani padme hum = Ngọc châu viên giác chiếu diệu trong
liên hoa tâm
=
Tuyệt Đối Thể chiếu diệu ở trung tâm não
bộ.
HÌNH 9: Oum (Trung điểm,
Tuyệt Đối Thể) là con đường đại đồng. (Oum the the path of universality)
Nói cách khác, đó chính là ngọc châu viên giác chiếu diệu trong liên hoa
tâm.
Chu Hoành, tác giả quyển «Trúc song tùy bút», trong bài «Phát
chân qui nguyên» cũng chủ trương chữ Trung của Trung Dung tức là
Chân Nguyên của Phật giáo.
Trong thư tịch đạo Lão, ta thường thấy đề cập đến Trung Đạo, Trung Cung.
Trung Cung ấy được gọi là Huyền
玄,
là Cốc Thần
谷
神,
là Đạo
道, v.v...
HÌNH 10: Hình khắc vào đá
để lưu truyền lời chú: «Oum mani padme Hum.»
HÌNH 11: Cốc Thần là
Trung Điểm trong đạo Lão
HÌNH 12: Nê Hoàn Cung
泥 丸 宮 (Thời chiếu đồ 時 照 圖)
Lão Tử chỉ có một nguyện vọng, một lý tưởng là Thủ Trung bão Nhất
守 中 抱 一. Như trên trời, Thiên Tâm ở Bắc Cực,
thì trong đầu não con người Thiên Tâm ở cung Nê Hoàn, mà Nê Hoàn ở trung
tâm não bộ.
HÌNH
13: Nê Hoàn Cung 泥 丸
宮 (Tẩy tâm thoái tàng đồ 洗 心 退 藏 圖)
Thiên tâm ấy không phải là Nhân tâm mà chính là Đạo.
Sách Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ
太 乙 金 華 宗 旨
thường đề cập tới Trung điểm ấy
dưới danh hiệu Trung Hoàng
và tất cả công phu tĩnh tọa, theo đạo Lão, là cốt tập trung tâm thần cho
qui tụ về trung điểm ấy.
Những nhận xét cổ kính của các đạo gia thực ra không đến quá viển vông
như ta tưởng.
Các nhà sinh lý học Âu Mỹ tiên tiến hiện nay đang cố dùng các phương
pháp khoa học để tìm cho ra «điểm hội tụ» trong đầu não mà họ gọi
là «giác giới» (lieu de la compréhension) hay là «não tâm»
(le foyer centrencéphalique, le foyer centrencéphalique d’integration)
và cho rằng bản ngã ẩn áo sau điểm hội tụ ấy. Tuy nhiên, họ chưa xác
định được trung điểm, trung cung là điểm hội tụ. Họ giả thiết: Hạ thị
tằng (hypothalamus) là nơi các thần kinh giao hội.
Nhưng nếu ta áp dụng định luật tương tự (loi d’analogie: phép loại suy)
ta sẽ phải nhận rằng Trung cung, trung điểm mới là điểm hội tụ, và Nê
Hoàn cung của các đạo gia chính là não thất 3 (3e ventricule) trong đầu
não con người; vì nơi ấy, phía dưới là giao tuyến của thần kinh mắt
(chiasma optique), là nơi giao tiếp các mạch máu trong đầu, nơi ấy cũng
là điểm hội tụ của các thần kinh, đồng thời cũng là «trung diểm hình
học» của đầu não như các đồ hình giải phẫu, sinh lý và quang tuyến y
học hiện đại chứng minh. triết học và đạo giáo, và đồng thời cũng là
điểm hội tụ của muôn vạn nẻo đường suy tưởng.
Khảo sát phong tục, ta thấy dân gian bao giờ cũng trọng trung điểm:
Chiếu giữa, gian giữa, trung ương đều là chỗ tôn trọng nhất.
HÌNH 14 A
Medical sagittal section of brain;
Relationship of the central
sulcus and lateral frissure to the
ventricules and skull.
HÌNH 14 B
HÌNH 14 C
HÌNH 14 D
HÌNH 14 E:
Le Foyer centrencéphalique
HÌNH 15: Não thất 3 chụp thẳng
Nếu giả thuyết này được chấp nhận thì ta sẽ thấy tâm điểm não bộ sẽ là
trung điểm tâm hồn, tuy nằm trong não mà chẳng phải là não; tâm điểm não
bộ cũng sẽ là điểm gặp gỡ giữa khoa học thực nghiệm.
Nhưng mở rộng tầm quan sát ta thấy trung điểm còn nhiều kỳ bí, huyền
diệu hơn: Đài hoa, nhụy hoa điều là tâm điểm của hoa; lúc hoa rơi cánh
rã thì đài hoa vẫn còn và chứa đầy nguồn sống cho các thế hệ cây sau.
Nhân, hạt thường nằm trong giữa quả. Những cái vỏ bên ngoài dù có thối
nát, thì nhân và hạt vẫn trường tồn với thời gian, để rồi ra đóng lại
tấn kịch đời với quang âm, với gió mưa, đất nước.
Đặc biệt nhất là nếu ta dùng được những kính hiển vi tối tân mà nhìn vào
đáy lòng vật chất, đáy lòng các tinh thể vi ti của vật chất, ta vẫn thấy
Trung điểm uy nghi quen thuộc đó hiện ra bất biến hằng cửu giữa sự tuần
hoàn, giao động của muôn nghìn nguyên tử. Ta vẫn thấy sau những biến
thiên chất chưởng bên ngoài, còn có chủ chốt hằng cửu bền vững bên
trong.
Xưa kia tuy chưa có những phương tiện khoa học tiến bộ như hiện nay
nhưng có lẽ vì cứ tiến lên lần hồi trên các nấc thang suy luận mà hiền
thánh xưa đã tìm ra Thượng Đế trong trung tâm vũ trụ và trung tâm con
người.
Trung tâm vũ trụ, trung điểm tâm hồn chính là lò cừ tạo hóa, sẽ phối hợp
mọi mâu thuẫn, khắc phạt.
Tinh thể nước đá dưới X-quang |
Tinh thể Tungstène phóng đại 5 triệu
lần. |
HÌNH 16
Thay vì đứng theo một chiều nào trong tứ duy lục hợp, để bị quáng
lòa vì bóng tối, bóng sáng tương tranh, ta vào trung điểm để nhìn bao
quát trái phải, thấp cao, ta sẽ thấy mọi tương phản tan biến như mây
khói.
Thay vì chuyển vận bằng chân tay, bằng ngũ quan tri giác trong những nẻo
đường vô tận của thời gian lịch sử, ta hãy dùng tâm thần một vút bay lên
tới Thái Cực, trung tâm, chỗ phát xuất và hội tụ của không gian và thời
gian. Ở đấy ta sẽ thấy mọi sự đều có lớp lang, tiết tấu, việc trước hỗ
trợ việc sau, lớp ngoài bảo vệ lớp trong, tầng dưới nâng đỡ tầng trên.
Tầng tầng lớp lớp bao quanh một tinh hoa duy nhất như muôn cánh hoa ấp ủ
đài hoa với nhụy hoa.
Nếu đúng vậy thì đạo Trời cũng rất giản dị chỉ cần phá tan tấm màn vật
chất ngu muội, dục tình bên ngoài là vầng dương muôn thủa sẽ hiện ra
sáng quắc.
Sau khi khảo sát ý nghĩa chữ Trung, sau khi đã tìm hiểu ý nghĩa của
Trung điểm trong thiên văn, địa lý, trong các đồ bản, trong đầu não con
người; ta có thể trở lại Nho giáo, trở lại với đề tài của ta.
Bây giờ chắc ta phải nhận chân rằng hai chữ Trung Dung thực là cao diệu.
Trung là ngôi vị của Thái Cực, Hoàng Cực. Trung Dung, Trung Đạo chính là
đạo «Phối thiên».
Có hiểu như vậy
thì nhan đề sách mới hợp với ý nghĩa sách, và hai chữ Trung Dung sẽ nên
ngọn đuốc sáng, soi rọi cho công trình khảo cứu của ta sau này.
CHÚ THÍCH
Léon Wieger, Leçons étymologiques No 190, p. 290.
a) Thiên
Trì hư hàm Thái Cực bản Vô Cực dã.
天
池
虛
咸
太
極
本
無
極
也
(La kinh giải định, quyển I, tr. 2)
b) Coi
hình la bàn (La kinh giải định, quyển II, tr. 12)
- Ngũ
theo từ nguyên viết là
ㄨ,
nghĩa là Ngũ hành (trung ương và bốn hướng) sau thêm hai nét trên
dưới ( 二
) mà thành , tượng trưng âm dương ngũ hành chuyển Vận giao
phối trong trời đất.
- Thập cũng gồm đủ Ngũ hành
(Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung)
Đọc các
quẻ: Khôn, Nhu, Tụng, Tỉ, Đồng nhân, Đại hữu, Khiêm, Dự, Khuê, Kiển,
Giải, Ích, Quải, Tỉnh, Chấn, Phong, Tiết, Trung phu, Tiểu quá, Vị tế.
(Dịch kinh)
- Hệ từ
hạ: Càn khôn thành liệt, nhi dịch lập hồ kỳ trung hĩ.
乾 坤 成 列,
而 易 立 乎 其 中 矣.
Thù vấn cực chi vi ngôn. Cứu cánh chí cực bất khả hữu gia chi vị; dĩ
trạng thử lý chí danh nghĩa tắc cử thiên hạ vô dĩ gia thử chi xưng dã.
Cố thường tại vật chi trung, vi vật chi đích. Vật vô chi, tắc vô dĩ vi
căn chủ nhi bất năng dĩ hữu lập. Cố dĩ vi tại trung chi nghĩa tắc khả
nhi tiện vị cực vi trung tắc bất khả.
銖 問 極 之 為 言.
究 竟 至 極 不 可 有 加 之 謂;
以 狀 此 理 之 名 義 則 舉 天 下 無 以 加 此 之 稱 也.
故 常 在 物 之 中,
為 物 之 的.
物 無 之,
則 無 以 為 根 主,
而 不 能 以 有 立.
故 以 為 在 中 之 義 則 可 而 便 謂 極 為 中 不 可
(Stanislas Le Gall S.J., Tchou Hi: Sa doctrine, son influence, p.
116)
- Vấn Lưu
Tử sở vị thiên địa chi trung, tức Chu Tử sở vị Thái Cực phủ. Viết chỉ
nhất ban, đãn danh bất đồng. Trung chỉ thị kháp hảo xứ. Thư duy hoàng
Thượng Đế, giáng trung ư hạ dân diệc chỉ thị kháp hảo xứ. Cực bất thị
trung. Cực chi vi vật chỉ thị tại trung như giá cá chúc đài, trung ương
trâm xứ tiện thị cực.
問 劉 子 所 謂 天 地 之 中,
即 周 子 所 謂 太 極 否.
曰 只 一 般,
但 名 不 同.
中 只 是 恰 好 處.
書 惟 皇 上 帝,
降 衷 於 下 民 亦 只 是 恰 好 處.
極 不 是 中.
極 之 為 物 只 是 在 中 如 這 個 燭 臺,
中 央 簪 處 便 是 極
(Ibidem,
tr. 104)
Pháp tướng dĩ duy thức vi Trung Đạo, Thiên Thai dĩ thật tướng vi Trung
Đạo, Hoa Nghiêm dĩ pháp giới vi Trung Đạo. Trung giả bất nhị chi nghĩa,
tuyệt đãi chi xưng, song phi song chiếu chi mục dã.
法 相 以 唯 識 為 中 道,
天 台 以 實 相 為 中 道,
華 嚴 以 法 界 為 中 道.
中 者 不 二 之 義,
絕 待 之 稱,
雙 非 雙 照 之 目 也.
Trung Luận kệ viết: Nhân duyên sở sinh pháp, ngã thuyết tức thị không,
diệc danh vi giả danh, diệc thị Trung Đạo nghĩa.
中 論 偈 曰:
因 緣 所 生 法,
我 說 即 是 空.
亦 名 為 假 名,
亦 是 中 道 義
(Phật
học đại từ điển)
Hình
khắc vào đá để lưu truyền lời chú:
«Oum mani padme Hum.»
(1a) Đầu hữu cửu cung, trung viết Nê Hoàn.
頭 有 九 宮 中 曰 泥 丸
(Kim
đơn đại thành tập, tr. 4)
(1b)
Thiên tâm chi cư ư Bắc Cực, vi tạo hóa chi khu cơ giả. Thử tâm dã, cố
đẩu tiêu nhất vận, tứ thời ứng tiết, ngũ hành thuận tự, hàn thử trúng
độ, âm dương đắc kỳ nghi hĩ. Tại nhân diệc nhiên. Thủ hữu cửu cung,
thượng ứng cửu ngung, kỳ trung nhất cung viết thiên tâm, nhất viết tử
phủ thiên uyên, thiên luân, thiên quan, thiên kinh, thượng đô quan, côn
lôn đỉnh. Kỳ danh phả chúng. Tổng nhi ngôn chi, viết Huyền quang nhất
khiếu...
天 心 之 居 於 北 極,
為 造 化 之 樞 機 者 此 心 也,
故 斗 杓 一 運,
四 時 應 節,
五 行 順 序 寒 暑 中 度 陰 陽 得 其 宜 矣.
在 人 亦 然,
首 有 九 宮,
上 應 九 隅 其 中 一 宮 曰 天 心 一 曰 紫 府,
天 淵,
天 輪,
天 關 天 京,
上 都 關,
崑 崙 頂 其 名 頗 眾,
總 而 言 之,
曰 玄 關 一 竅.
(Kim đơn đại thành tập, tr. 2) (1c) Nê Hoàn cung đối chiếu với cơ
thể học hiện đại là não thất 3 (3e ventricule). Cho tới nay chưa có giả
thuyết y học nào nói Nê Hoàn cung hay não thất 3 là điểm hội tụ và phát
xuất các ý tưởng và cảm giác. Trong quyển Vie et Rénovation các
nhà sinh lý học Pháp giả thuyết là điểm hội tụ ở khoảng hypothalamus
(minh đường hay hạ thi tằng).
Năng tri vận dụng giả, dĩ đạo quán tâm, tâm tức đạo dã, dĩ tâm quán đạo,
đạo tức tâm dã. Thị tâm dã phi nhân tâm chi tâm, nãi thiên tâm chi tâm
dã.
能 知 運 用 者,
以 道 觀 心,
心 即 道 也,
以 心 觀 道,
道 即 心 也.
是 心 也 非 人 心 之 心,
乃 天 心 之 心 也
(Kim
đơn đại thành tập, tr. 2)
… J’ai considéré notre âme comme un château, fait d’un seul diamant ou
d’un cristal très pur. Tout comme au ciel il y a diverses demeures, ce
château renferme plusieurs appartments: les uns en haut. les autres sont
en bas, d’autres dans les ailes, enfin au centre, au milieu de tous, se
trouve le principal, ou se passent les choses les plus secrètes entre
Dieu et l’âme…
Vous
savez comment la tige du palmier est fermée de plusieurs enveloppes, qui
entourent et protègent la partie savoureuse, le cœur proprement dit de
l’arbre; de même au centre du château se trouve la demeure du Roi et
tout autour sont d’autres demeures.
Sainte
Thérèse d’Avila, La religion essentielle, p. 166. cf. Sainte
Thérèse de Jesus, ¬uvres complètes, Édition du Seuil. Le
Château de l’Âme, p. 815, 825.
Phụ Lục 4 note 1/tr. 516:
1. Ngày 6/1/63, ông Kỹ Sư Trung Hoa Chương Dật Nguyên đã có nhã ý gửi
cho tác giả quyển Chu Dịch Xiển Chân do Lưu Nhất Minh trước tác.
Nhân thấy trong đó có bài Trung Đồ này, tư tưởng thâm trầm, văn chương
khoáng đạt, nên trích dịch, để cống hiến độc giả làm tài liệu. Tr. 543:
Phụ Lục 7, note 1.
»
Mục lục
»
Chương:
1 2
3 4
5
6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
|