LECOMTE DU NOÜY
VÀ
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
PHẦN
THỨ NHẤT:
THỜI ĐẠI, THÂN
THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
TƯ TƯỞNG
LECOMTE DU NOÜY
*
Chương
2
Thế kỷ XIX và thế
kỷ XX
Le problème du monde
est le problème de l’individu, nous dit le preseur indou J.
Krishnamurti. Il est de peu d’utilité de modifier les cadres extérieurs,
économiques, politiques, sociaux, juridiques, si préalablement à ces
réformes de surface, on ne procède pas à la transformation radicale du
cœur et de l’esprit des hommes, destinés à utiliser ces structures
nouvelles.
RÂM LINSSEN
(Etudes psychologiques
de C.G.Jung à J. Krishnamurti – page 17)
Vấn đề thế giới là vấn
đề cá nhân, theo lời nhà tư tưởng Ấn độ J. Krishnamurti. Ích lợi gì đâu,
nếu người ta chỉ cố hoán cải ngoại cảnh, các khuôn khổ kinh tế, chính
trị, xã hội, tư pháp, nếu trước khi thực hiện những cải cách phiến diện
đó, người ta không tìm cách hoán cải con tim, khối óc những con người sẽ
sử dụng cơ cấu mới ấy…
Tiết 1
Thế kỷ
XIX
Thế kỷ XIX là một thế kỷ huy hoàng của
Châu Âu: Ngoài thì đi chinh phục thế giới, chiếm thuộc địa, tìm tiền;
trong thì mở mang khoa học, kỹ nghệ, thương mại.
Danh nhân, danh sĩ đầy dẫy các ngành.
Về nhạc, có Beethoven (1770 – 1827),
Berlioz (1803 – 1869), Mendelssohn (1809 – 1847)
Ludwig van
Beethoven (1770 –
1827)
Về triết, có những triết gia lừng lẫy như:
Hegel (1770 – 1831), Feuerbach (1775 –
1833), Engels (1820 – 1895), Karl Marx (1818 – 1883), Schelling (1775 –
1854), Auguste Comte (1798 – 1857), Renan (1823 – 1892) v.v…
Ernest Renan (1823 - 1892)
Về văn có:
Schiller (1759 – 1805), Goethe (1749 –
1832) Anh em họ Grimm (Wilhelm: 1786 – 1859), Jacob: 1785 – 1863),
Coleridge (1773 – 1834), Byron (1788 – 1824), Wordsworth (1770 – 1850),
Walter Scott (1771 – 1832), Chateaubriand (1768 – 1848), Victor Hugo
(1802 – 1885), Lamartine (1790 – 1869).
Victor Hugo (1802 – 1885)
Về khoa học có các nhà toán học lừng danh
như:
Abel (1802 – 1829), Galois (1811 – 1832),
Cauchy (1789 – 1857), Lobatchevski (1793 – 1856), Riemann (1826 – 1866),
Henri Poincaré (1854 – 1912).
Henri Poincaré (1854 – 1912)
Các thủy tổ về điện học như:
Oersted (1777 – 1851), Faraday (1791 –
1867), Gauss (1777 – 1855), Coulomb (1738 – 1806), Ampère (1775 – 1836),
Volta (1745 – 1827), Maxwell (1831 – 1879), Ohm (1787 – 1854), Hertz
(1857 – 1894), Angström (1814 – 1874)
Michael Faraday (1791-1867)
Các thủy tổ về cơ học, nhiệt lực học như:
Helmholtz (1821 – 1894), Sadi-Carnot (1822
- 1888), Lord Kelvin (1824 – 1907).
Các thủy tổ về hóa học như:
Berthollet (1748 – 1822), Berthelot (1827
– 1907), Proust (1754 – 1826), Dalton (1766 – 1844)
Các nhà tự nhiên học hay sinh vật học tài
danh quán thế như:
Cuvier (1769 – 1832), Geoffroy Saint
Hilaire (1772 – 1844), Lamarck (1774 – 1829), Darwin (1809 – 1882).
Các nhà sinh lý học, vi trùng học thời
danh như:
Pasteur (1822 – 1895), Claude Bernard
(1813 – 1878) v.v…
Louis Pasteur (1822-1895)
Thế kỷ XIX là một thế kỷ sùng thượng khoa
học và duy vật.
Sùng thượng khoa học vì khoa học đã đem
lại cho đời sống rất nhiều tiện nghi mới mẻ; khoa học đã làm được nhiều
phép lạ nhãn tiền.
Sùng thượng vật chất, vì nhờ khoa học
người ta trở nên gần gũi vật chất và ngoại cảnh, và tìm ra được nhiều
phương pháp biến chế và sử dụng vật chất.
Duy vật, vì bị ngoại vật khiên dẫn, con
người đã cố buông bức màn quên lãng, xoay lưng lại Thượng Đế và tâm hồn,
để hoàn toàn vụ ngoại, hướng ngoại. Từ nay, vũ trụ chỉ còn thuần có vật
chất trước nhãn quan nhà học giả.
Đồng thời,
trào lưu phản giáo và vô thần càng ngày càng lớn mạnh.
Thoạt đầu, nó là phương thức chống lại
giáo quyền, sau dần dà trở thành lối sống thực sự.
Phong trào chống đối giáo quyền ngấm ngầm
từ thế kỷ XVII; bột phát thế kỷ XVIII nhờ sự cổ vũ của Voltaire,
Diderot, và các học giả soạn thảo bộ bách khoa tự điển Pháp; toàn thắng
và trở thành một lối sống cho tri thức thế kỷ thứ XIX.
Công bằng mà nhận xét thì phong trào này
sở dĩ phát sinh một phần lớn là do những lỗi lầm của Giáo hội.
Thật vậy khi giáo hội còn thịnh, đã tỏ ra
chuyên chế, độc tài, khe khắt: một mặt thì toa rập với vua chúa, dùng
những hình phạt khủng khiếp để khống chế dân, một mặt thì dùng quyền
kiểm duyệt cấm đoán mọi tự do ngôn luận.
Mới đầu, trí thức chống lại giáo quyền,
rồi chống luôn đạo giáo, chối bỏ luôn Thượng Đế.
Dần dà người ta cho rằng vật chất cắt
nghĩa được mọi sự. Tất cả mọi sự, mọi loài trong trời đất đều là những
tổ hợp vật chất, những biến hóa vật chất, mà chẳng có thần linh, Thượng
Đế chi hết. Cho nên muốn giải thích vũ trụ chỉ cần dựa vào các định luật
vật chất, lý, hóa, cơ.
Trên trời, vật chất sinh ra mặt trời, mặt
trăng, tinh vân, tinh tú.
Dưới đất, vật chất kết tập thành núi,
thành sông, rồi ngẫu nhiên biến thành sinh vật. Sinh vật vì hoàn cảnh
thúc đẩy, vì đấu tranh sinh tồn, đã biến hóa dần dà từ loài nọ đến loài
kia, sau cùng lên cho tới con người.
Con người chẳng qua là một thứ máy móc
tinh vi,
một con
thú tiến hóa,
mà ta có
thể chi phối sử dụng tùy ý, nếu ta biết áp dụng những định luật chi phối
cơ thể óc não, tâm lý, ví dụ định luật «phản xạ có điều kiện» của Pavlov
(1849–1936) chẳng hạn.
Đời sống tâm thần ý thức chỉ là phụ tượng
do vật chất sinh ra.
Ý tưởng,
tâm tình ta chẳng qua là do cảm giác kết cấu, tạo thành mà cảm giác lại
sinh ra do sự chuyển động của các phân tử óc não.
Tất cả các hiện tượng lịch sử, xã hội cũng
có thể cắt nghĩa được bằng những duyên do kinh tế, vật chất như vậy; và
ta có thể phác hoạ được bộ mặt của xã hội, nếu ta biết rõ các yếu tố
chủng tộc, di truyền, địa lý và thời gian.
Cho nên vũ trụ là một guồng máy lớn lao
con người
là một guồng máy
xã hội là
một guồng máy. Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ, thiên văn địa lý,
nhân sinh, đều theo cùng một định luật lý, hóa, vật chất.
Claude Bernard viết:
«Descartes, Leibnits, Lavoisier đã dạy
chúng ta rằng vật chất và các định luật vật chất ở nơi sinh vật cũng
giống như ở nơi khoáng vật. Các ngài đã cho chúng ta thấy trong trời đất
chỉ có một thứ cơ học, một thứ lý học, một thứ hóa học chung cả cho vạn
vật.
Ta cũng cóthể coi vũ trụ như gồm bởi những
con toán số, và có thể sắp xếp được thành phương trình;
như những
cơ cấu có thể diễn biến thành những phản ứng hóa học;
như những
sự chuyển động mà vận tốc có thể đo lường ước định được.
Cho nên bất kỳ một hiện tượng gì trong vũ
trụ, rồi ra khoa học cũng tiên tri, tiên đoán được.
Hoặc tiên
đoán một cách chính xác theo những phương trình cơ học, nếu là vận
chuyển của các tinh cầu, hoặc một cách đại cương đại khái theo phương
pháp thống kê, xác xuất, nếu là những cấu tử đa đoan phiền tạp như phân
tử, nguyên tử hay con người.
Chẳng cần gì phải nại đến thần quyền để
cắt nghĩa vũ trụ. Giả thuyết Thượng Đế, theo Laplace, trở nên vô ích.
Hơn thế
nữa Hœckel cho rằng phải xua đuổi ý niệm Thượng Đế ra khỏi nhân sinh,
nếu con người muốn trở nên khôn ngoan và sung sướng.
Trước mắt các nhà duy vật vô thần, đạo
giáo trở nên vô dụng, và chỉ là những công cụ áp bức, bưng bít, ru ngủ
con người.
Chỉ có khoa học mới có thể giải thoát con
người, chỉ có khoa học mới vạn linh, vạn ứng, mới có thể đem lại hạnh
phúc mà con người mong mỏi, đợi trông.
oOo
Phong trào duy vật phát xuất từ các triết
gia Đức quốc.
Đầu thế kỷ 19, các triết gia Fichte,
Shelling, Hegel đã làm mưa gió trên thao trường triết học.
Hegel với biện chứng pháp, đã đề cao vấn
đề biến dịch trong vũ trụ, tuy là với khuynh hướng duy linh.
Nhưng các đồ đệ khuynh tả của ông lại cố
giải thoát lý trí con người khỏi ảnh hưởng thần học, đạo giáo, và phổ
biến chủ nghĩa vô thần.
Năm 1835, Strauss cho xuất bản cuốn «Đời
sống Chúa Jésus» phê bình gắt gao chặt chẽ các bản thánh kinh và kết
luận chúa Jesus cũng chỉ là một con người,
và đề
nghị thay vì sùng thượng Chúa Jésus, nên sùng thượng «Nhân loại» một
«Nhân loại» đã được thần minh hóa.
Feuerbach cũng có những chủ trương tương
tự.
Ông chủ
trương hồn chẳng thể tách rời khỏi xác và vũ trụ không hề biết phép lạ.
Moleschott cho rằng: có lân tinh mới có tư
tưởng.
Karl Vogt chủ trương con người gần vật hơn
gần thần, và cho rằng óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật.
Mặc dầu có sự chống đối của các nhà tư
tưởng duy linh như Maine de Biran, Jouffroy và Victor Cousin, làn sóng
duy vật cũng lan tràn sang nước Pháp nhất từ sau khi thất trận năm 1870.
Đồng thời, ở Pháp, Auguste Comte đưa ra
chiêu bài duy thực.
Ông cho rằng thời kỳ thần học và siêu hình
của nhân loại đã qua, và nay là thời kỳ khoa học, thời kỳ toàn thịnh của
lý trí.
Auguste Comte tuyệt đối cấm chỉ không cho
bàn đến nguyên lý hay cùng đích.
Những sự suy cứu ấy theo ông chẳng có thay
đổi được số phận nhân loại, chẳng làm cho nhân loại hạnh phúc hơn.
Con người cần phải hoạt động trên bình
diện thực tế, cho nên thuyết duy thực chống lại mọi mơ hồ, viển vông.
Auguste Comte chỉ vụ ích lợi, nên gạt bỏ
những gì vô bổ, chỉ cần chắc chắn nên gạt bỏ những gì mơ hồ, bất định;
chủ trương tích cực chứ không tiêu cực; chỉ cầu tự nhiên, nên gạt bỏ
siêu nhiên, cầu tương đối chứ không cầu tuyệt đối.
Nguyên
tắc của Ông là cái gì cũng tương đối.
Thậm chí, Auguste Comte còn muốn gạt bỏ
hẳn phương pháp «nội quan» trong khoa tâm lý học và cho đó là một huyễn
vọng.
Thế tức là con người thế kỷ XIX đã thu hẹp
phạm vi hoạt động của mình, gạt bỏ những gì không thể chứng minh, đo
lường, khảo sát được ra khỏi đời sống.
Người ta muốn đo lường mọi sự, đo lường cả
những hoạt động của tâm thần; và do đó, ta thấy có định luật của Weber
và Fechner chẳng hạn về tương quan giữa cảm giác và kích thích.
Ribot đem áp dụng phương pháp thực nghiệm
vào khoa tâm lý học. Ông chủ trương, muốn học về tâm lý con người, vừa
phải dùng phương pháp nội quan, vừa dùng phương pháp ngoại quan. Ngoại
quan là khảo sát các sự bộc lộ, phát tiết của tâm hồn ra bên ngoài, như
lịch sử, từ ngữ, thái độ, tâm bệnh, bệnh thần kinh, phong tục các sắc
dân kim cổ, từ man mọi cho đến văn minh, nghiên cứu hành vi, tác phong
của mọi tuổi từ trẻ đến già. Thậm chí còn nghiên cứu cả tâm lý loài vật
để hiểu thêm tâm lý loài người.
Max Otto thuật lại chủ trương của một nhà
tâm lý học cho rằng: «Muốn hiểu con người, hiểu bản tính con người, cần
học hỏi về con khỉ, vì đã có thời con người là con khỉ. Thay vì học xem
con người sẽ tiến hóa đến đâu, phải học xem con người xưa kia đã làm
gì?»
Và thế kỷ thứ XIX cũng đã làm rung chuyển
đạo giáo đến tận gốc rễ khi đem thuyết tiến hóa để cắt nghĩa quần sinh.
Tóm lại thế kỷ XIX là một thế kỷ có khuynh
hướng:
-
Vô thần
-
Duy vật
-
Máy móc, tất định
-
Sùng thượng khoa học.
Và chủ trương:
-
Sinh cơ ngẫu nhiên mà có
-
Quần sinh do một thủy tổ rồi biến
hóa dần lên mãi, từ thảo, trùng cho tới con người.
-
Ta toát lược bằng bản đồ sau:
Tiết 2
Thế kỷ XX
Nhưng bước sang thế kỷ XX, niềm tin vào
khoa học vào vật chất dần dần bị lung lay suy sụp.
Mà lý do, không phải là vì khoa học suy,
mà lại vì khoa học thịnh, mới lạ!
Bước sang thế kỷ XX nhân loại còn tiến
vượt bậc hơn nữa.
Điện lực, cơ khí phổ cập khắp nơi.
Nhân loại chế ra được những dụng cụ tân kỳ
hơn để khám phá vũ trụ, khám phá vật chất, khám phá không gian.
Nhưng chính vì những tiến bộ vượt mức,
chính vì những khám phá lạ lùng, các nhà khoa học đã nhận thấy các định
kiến thế kỷ XIX là lầm lạc hay thiển cận, hẹp hòi.
Các nhà khoa học đã khám phá ra nhiều hiện
tượng tân kỳ, nên bắt buộc phải thay đổi lập trường, thay đổi quan điểm.
Với sự tiết tháo sẵn có, nhiều nhà khoa
học thời danh đã nhìn nhận các đồng nghiệp thế kỷ trước đã có nhiều
thiển kiến, nhiều lầm lỗi, và cho rằng không làm sao có được thái độ cố
chấp, ngạo nghễ một chiều như xưa được nữa.
Khảo cứu cho đến căn để, người ta thấy cái
gì cũng biến thiên chất chưởng, tráo trở, đảo điên; cái gì cũng phiền
tạp rắc rối.
Trước kia, người ta cho cái gì cũng liên
tục, năng lượng liên tục, ánh sáng liên tục. Nhưng Max Planck với thuyết
lượng tử
đã bắt
mọi người phải chấp nhận cái gì cũng gián đoạn.
Sự khảo nghiệm về tông chi các chất phóng
xạ của gia đình Curie
và của
Henri Becquerel (1852-1908) cho tấy vật chất có sinh tử, cũng phân hóa
biến thiên, biến tính, biến thể, có con, có cháu, ví dụ chất Radium sau
khi phóng xuất Hélium sẽ biến thành Radon.
Chất nhôm khi bị pháo kích bằng phi đạn
alpha, sẽ biến thành lân tinh phóng xạ. Lân tinh phóng hết xạ tuyến sẽ
biến thành Silicium v.v…
Và đây là gia phả những chất phóng xạ từ
Uranium 238 cho đến chì theo Rutheford.
Tiếp đến, Lorentz và Eintein gây ra một
cuộc đảo chính mới, đó là học thuyết tương đối.
Học thuyết này rất phức tạp. Chúng ta chỉ
ghi lại ít điểm chính yếu:
1- Không gian và thời gian là một hệ thống
duy nhất, bất tương ly.
2- Thời gian trở thành chiều kích thứ 4
của không gian
và để cho
thấy tình không gian và thời gian khăng khít, người ta lấy thời gian đo
không gian, lấy năm ánh sáng làm đơn vị đo lường vũ trụ.
3- Einstein còn chứng minh năng lực và vật
chất hỗ hoán, tương giao. Năng lực có khối lượng; vật chất có năng lực,
năng lực sinh vật chất, vật chất sinh năng lực theo phương trình.
E= mc2
Những khám phá mới mẻ này có hậu quả kinh
thiên động địa vì nó đã dần dà đưa tới trái bom nguyên tử đầu tiên ở
Alamogordo và sự tàn phá kinh khủng ở Hiroshima và Nagasaki năm 1945.
4- Einstein còn cho rằng vật chất làm
cong, làm trũng không gian…
Ánh sáng
các vì sao, vì có khối lượng, nên bị mặt trời hấp dẫn và làm lệch hướng
khi xuống tới trái đất v.v…
Tóm lại một mình Einstein đã đổi được
nhiều quan niệm siêu hình và khoa học, vì Einstein đã:
(1) Tiêu hủy khái niệm không gian và thời
gian riêng rẽ và tuyệt đối tự ngàn xưa.
(2) Khai tử khái niệm khí Thái hư (Ether).
(3) Tiêu hủy khái niệm vật chất vĩnh cửu
và cố định.
(4) Tiêu hủy khái niệm phẳng phiu và đồng
đẳng của Euclide.
(5) Thay đổi cả lý thuyết «vạn vật hấp
dẫn» của Newton.
(6) Đem lại cho khoa học và nhân loại một
nguồn năng lực vô tận là nguồn năng lực vật chất và nguyên tử, và một
tương lai vô cùng rực rỡ cho nhân loại, nếu nhân loại biết xử dụng năng
lực nguyên tử vào những mục phiêu hòa bình và xây dựng.
Càng khảo sát về nguyên tử người ta càng
thấy nó chứa chấp nhiều ly kỳ bí ẩn.
Trong lòng mỗi nguyên tử là cả một giang
sơn theo đà khám phá của khoa học, số vi tử vi trần càng ngày càng gia
tăng và kỳ ảo nhất là mỗi vi tử, vi trần lại có một phản vi tử, vi trần
ẩn ước chế hóa. (xem bảng)
Các nhà khoa học cố hình dung dáng dấp
nguyên tử, nhưng dần dà thấy là công toi vô ích.
Mới đầu, Rutherford
rồi Bohr
rồi
Sommerfield
mỗi người
nghĩ ra một kiểu nguyên tử khác nhau.
Người thì cho rằng nhiều điện tử có thể ở
cùng một quỹ đạo, người thì cho rằng mỗi quỹ đạo chỉ có thể có hai điện
tử quay ngược chiều,
người thì
cho rằng mỗi điện tử có một đường lối riêng tư, chẳng hề san sẻ cùng
nhau quỹ đạo.
Rốt cuộc các nhà bác học bỏ hết các kiểu
nguyên tử nói trên và thú nhận rằng chẳng thể nào hình dung được vi
trần, vi tử, điện tử. Tất cả những danh từ ấy chẳng qua là không ngôn,
là giả thuyết, là những khái niệm toán học;
hình dung
dáng dấp điện tử cũng lờ mờ, ẩn hiện như làn sóng, hơi sương.
Louis de Broglie (1892-1987)
Rồi đến lượt Louis de Broglie chủ trương
cái gì cũng vừa là vi trần, vừa là ba động, bất kỳ là ánh sáng hay là
dương điện tử, âm điện tử. Thế tức là cái gì cũng vừa gián đoạn vừa liên
tục từ nay, và bức tường ngăn chặn ánh sáng và vật chất được hủy bỏ.
Mới hay đi sâu vào đáy lòng vật chất, cái
gì cũng trở nên ỡm ờ, hai chiều hai mặt, lúc chuột lúc chim, như chuyện
con dơi trong ngụ ngôn La Fontaine.
Các khái niệm toán học cũng trở nên bất
định: không gian hoặc phẳng, hoặc cong tùy theo nhãn quan. Ba góc một
tam giác có thể:
Bằng 1800
To hơn 1800
Nhỏ hơn 1800
Tuy là ta theo Euclide hay Lobatchevski
hay Riemann.
Ngay cả đến đại vũ trụ, cũng trở nên biến
thiên chất chưởng. Nhờ phương pháp tán quang, và dựa vào định luật
Dopler-Fizeau, các nhà thiên văn học khám phá ra rằng các giải ngân hà
đang đua nhau tiến về vô tận, và vũ trụ y như là một cái bọt xà bông của
trẻ con chơi đang được thổi phồng lên, theo lý thuyết của Georges
Lemaître và đã được Hubble và Eddington xác nhận.
Năm 1927, Heisenberg đề xướng nguyên tắc
bất định trong thế giới điện tử. Thế là trong phạm vi này, thuyết nhân
quả duy vật tất định của Laplace hoàn toàn sụp đổ.
Các nhà khoa học ngày nay đã quen thuộc
với những mâu thuẫn ấy, và chủ trương muốn hiểu biết về một hiện tượng
cần phải cân nhắc, xoay xở, lộn lạo trái phải ngược xuôi như vậy mới
mong có một ý niệm toàn bích được.
Tổng kết lại ta thấy các khái niệm cơ bản
về vũ trụ trở nên co giãn, khái quát, dính dấp, mắc míu nhau chứ không
còn rời rạc, riêng rẽ, cố định như xưa:
Từ nay:
- Vật chất là khí lực.
-
Khí lực là vật chất
-
Không gian là thời gian
-
Vật chất là không gian v.v…
Khoa học trở nên trừu tượng hơn. Các hình
ảnh được thay thế bằng những công thức toán học
Khoa học ngày nay bắt phải suy, phải nghĩ,
thay vì phải trông phải nhìn như xưa. Khoa học khuyến dụ ta dùng thần
trí nhìn cho ra cái thế giới vô hình.
Tóm lại, thế kỷ XX trở nên uyển chuyển
linh động về 1ý thuyết hơn, và những thái độ ngạo nghễ, độc đoán của thế
kỷ XIX không còn nữa.
Thuyết «duy» gì cũng được coi là khiếm
khuyết.
«Duy linh» cũng không xong, mà «duy vật»
cũng mất hậu thuẫn khoa học.
Con người
hình như còn phải tìm cho ra một học thuyết «nhất thể lưỡng diện», hoặc
«nhất thể vạn thù» để giải thích bao quát các hiện tượng, cũng như để
dung hòa phối kết mọi dị đồng…
Nhiều nhà khoa học trở thành triết gia
trong số
có Lecomte du Noüy.
Khoa học đến chỗ thực tiễn nhất thì lại
trở thành siêu hình, vì chỉ dựa trên những khái niệm, ngay cả về phương
diện toán lý hóa.
Thế là siêu hình lại trở về với thế nhân.
Các học thuyết đều bị rung chuyển.
Truy kỳ căn, thường thấy chúng dựa trên
những khái niệm chẳng chắc chắn, sáng tỏ là bao, và thường là nhân tạo,
ước lệ, chứ không tự nhiên, khách quan và phổ quát.
Các nguyên lý, các thỉnh lý, khái niệm mà
từ bao ngàn năm nay, hoặc từ hàng trăm năm nay được coi là hiển nhiên,
là chân lý bỗng trở thành không ngôn hay vọng niệm.
Đến với thế kỷ XX, không còn không gian và
thời gian riêng rẽ.
Quan niệm khí thái hư (Ether) cáo chung
sau những thí nghiệm của Michelson về tốc lực ánh sáng.
Nguyên lý tất định Laplace bị toán xác
xuất và nguyên lý bất định của Heisenberg tiếm vị cướp ngôi.
Hai nguyên lý Lavoisier
«Khí bất diệt»
«Chất bất diệt»
Bị thuyết tương đối đổi lại thành:
Nhất thể lưỡng diện
Khí chất tương sinh.
Euclide bị Lobatchevski và Riemann qua
phân ảnh hưởng, và đến Moïsé cũng bị Darwin đảo chính, tranh ngôi.
Các học thuyết như những lâu đài cũ kỹ trở
nên nứt rạn.
Người thì chủ trương vá víu, hàn gắn bên
ngoài, để có nguyên phong thái cũ, kẻ thì đi sâu xuống nền tảng để vỡ lẽ
ra rằng sự rạn nứt đã xảy ra vì tòa lâu đài đã xây trên cát trên bùn chứ
không có nền móng vững chãi như ta tưởng.
Các nhà bác học có chủ trương mới mẻ là:
tiện thì dùng hay thì dùng; không tiện, không hay thì bỏ. Không có một
học thuyết nào là chính xác, là tuyệt đối, nó hay tùy theo người dùng ưa
hay ghét, quen hay lạ…
Đó là lập trường của nhà toán học Henri
Poincaré,
và đó
cũng là lập trường của khoa học đoàn họp tại Vienne (Cercle de Vienne),
mà người thủ xướng là Ernest Mach.
Về phương diện nhận thức ta thấy rằng ngày
nay những tiêu chuẩn chân lý đã đảo ngược lại những tiêu chuẩn ngày xưa:
Thời xưa, người ta:
-
Cứ thần, cứ thánh.
-
Cứ sư, sách.
-
Cứ quyền.
-
Cứ tình.
Để đoán định phải trái.
Ngày nay người ta:
-
Cứ lý.
-
Cứ chứng.
-
Cứ nghiệm
-
Cứ sự
-
Để đoán định chân lý.
Đời xưa vụ nội hơn, đời nay vụ ngoại hơn.
Và ta có thể tóm tắt thái độ người xưa, và người nay bằng những vần thơ
sau.
Thái độ của người trung cổ:
«Cần chi cứ phải nghe xem,
Cần chi suy nghĩ, kiếm tìm nhọc công.
Sự đời Thánh đã giải xong,
Phận hèn thôi chớ mơ mòng viễn vông.
Hồng trần thây kệ rối bong,
Trần ai ấy chốn lao lung tù đầy.
Hồn ta chẳng gửi nơi đây,
Gửi về thiên quốc từ ngày còn thơ.»
***
Thái độ người thế kỷ XIX, XX:
Sự đời cần phải nghe xem,
Phải suy, phải nghĩ, phải tìm tốn công.
Sự đời giải thích chưa xong,
Kiếm tìm đâu phải mơ mòng viễn vông!
Hồng trần quyết gỡ bòng bong,
Cho trần thoát kiếp lao lung, tù đầy.
Hồn ta, ta gửi nơi đây,
Đây là thiên quốc, mơ ngày còn thơ.
Thái độ chung là khinh đạo, trọng đời;
khinh đức, trọng tài; khinh nghĩa, trọng lợi; khinh cá nhân, trọng đoàn
thể; khinh nội giới, trọng ngoại giới; khinh thiểu số, trọng đa số.
Các học đường thì nặng về trí dục, sao
lãng hẳn đức dục và cố thoát ly hết mọi ảnh hưởng thần quyền, giáo
quyền.
Câu cách ngôn «kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân» ngày nay hầu như bị sao lãng hẳn. Người ta dám làm mọi sự, miễn
sao đưa đến thành công, và các đảng phái chính trị, các chính thể độc
tài đã không lùi gót trước thủ đoạn gian trá, ác độc nào mà không dùng,
miễn sao chi phối, huyễn hoặc được quần chúng.
Thế kỷ XIX, XX lại còn có đặc điểm là tư
tưởng Đông Tây gặp gỡ; nhiều người Á Châu bỏ Đông theo Tây, thì nhiều
người Âu Châu lại bỏ theo Tây theo Đông… Nhân loại vẫn còn đang đi tìm
kiếm chân lý và hạnh phúc.
Nhân loại hết còn muốn tuần tự nhi tiến,
mà thích đốt giai đoạn và nhảy vọt; thay vì khoan hòa mà xử sự, nhiều
người chủ trương bạo động, đấu tranh…
Tất cả những duyên do ấy đã đem lại những
khủng hoảng về đạo giáo, về tinh thần, những sa đoạ về luân lý, những
chế độ độc tài, những tai hoạ diệt chủng, những chiến tranh khủng khiếp…
Có những bậc ưu thời mẫn thế cho rằng tất
cả những thảm cảnh, những sự điên đảo suy vong ấy sở dĩ xuất sinh là vì
nhân loại quá chú trọng các giá trị vật chất mà sao lãng cái giá trị
tinh thần.
Cũng có học giả cho rằng những sự hỗn loạn
đổ nát hiện nay sở dĩ có là vì con người đã nhắm mắt chấp nhận tất cả
những gì đã được tuyên truyền dạy dỗ, mà không hề phán đoán, cân nhắc,
xét suy.
Lại nữa, con người, vì bị giáo dục một
cách sai lầm, đã mất hết niềm tin vào mình, nên quay ra dựa dẫm vào
người khác, quỵ lụy vào người khác, do đó sinh ra một sự bóc lột về phía
lãnh đạo, và sự mất nhân cách về phía người bị hướng dẫn cai trị và
nhiều tội ác trong lịch sử các dân các nước.
Vì vậy, mà có nhiều học giả hồi tâm để suy
tư, để góp phần vào công cuộc chấn hưng tinh thần, chấn hưng đạo đức,
cải thiện tầm nhìn, lối nghĩ để ngăn ngừa bớt hiểm hoạ cho nhân loại
cũng như để xây dựng cho nhân loại một tương lai tươi sáng hơn.
Trong số những học giả ấy có Lecomte du
Noüy.
Chúng ta
hãy đi vào đời sống của ông, trước khi thảo về học thuyết của ông.
CHÚ THÍCH
Mettant sous les yeux de tous les réalisations stupéfiantes obtenues
par la Science, il (cet immense bouleversement économique)
s’accompagnait d’une admiration de plus en plus vive pour celle-ci,
d’une espérance de mieux en mieux fondée sur ses destinées, d’une
foi de plus en plus profonde dans la conviction qu’a elle seule
était réservée la mission de rebâtir le monde.
…
Cette connaissance empirique pouvait se formuler sans parler de Dieu
ou de nous-mêmes… – Cf. Werner Heisenberg, Physique et
Philosophie, page 79.
Le
monde n’est qu’un agencement mécanique, réductible à un système
d’équations différientielles. – Pierre Roussau, L’Histoire de la
Science, page 524.
Les
premiers vivants furent des «monères», cellules sans noyaux
semblables aux chromacées actuelles. De ces organismes primitifs,
ont dérivé par évolution les organismes plus complexes jusqu’à
l’homme.
Réflexes conditionnels de Pavlov (ou réflexes conditionnés).
… II (Pavlov) montra que… ce que nous
croyons être notre volonté, notre intention, notre libre-arbitre,
n’était qu’un système de réflexes conditionnels lentement acquis au
cours de ce dressage qu’est l’éducation. – Pierre Rousseau,
Histoire de la Science, p. 684.
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
|