LECOMTE DU NOÜY
VÀ
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 |
Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
PHẦN THỨ
BA:
NHẬN ĐỊNH VÀ PHÊ BÌNH
*
Chương
4
Tổng luận
Quel que soit
le chemin que vous suiviez, le point vital est le désir ardent la
vérité. Dieu connait les secrets de votre cœur; et il importe peu que
vous preniez le mauvais chemin; il faut seulement que vous ayez la
sincérité. Lui-même vous ramènera dans le bon chemin... On sait bien
qu’aucun chemin n’est sans erreur. Chacun croit que sa montre va bien;
mais, en fait, personne n’a l’heure exacte. Cela n’empêche pas de
travailler... (Cf. Romain Rolland, Vie de Ramakrishna, page 201,
note 2)
Bất kỳ bạn
theo đường nào, điều quan hệ là phải thành khẩn khao khát chân lý.
Thượng Đế biết rõ những bí ẩn của lòng bạn, và dẫu bạn có đi lầm đường
cũng không sao, miễn là bạn thành khẩn. Thượng Đế sẽ đưa bạn về đường
ngay, nẻo chính... Mà nào có con đường nào thoát lầm lạc đâu! Ai cũng
nghĩ rằng đồng hồ mình đúng, nhưng kỳ thực chẳng ai có giờ đúng. Cái đó
cũng chẳng ngăn trở công việc...
Trong những chương trên chúng ta đã khảo
sát cân nhắc tư tưởng và học thuyết của Lecomte du Noüy về mọi phương
diện.
Chúng ta cũng đã so sánh học thuyết ông
với ít nhiều học thuyết tiến hóa khác, ngõ hầu tìm ra được chân lý toàn
bích. Đó là một thái độ triết học, vì theo Plotin và Bergson, triết học
là sự cố gắng của thần trí để hòa hợp với Đại thể.
Dẫu có những điểm chúng ta không đồng ý
với Lecomte du Noüy, nhưng chúng ta cũng phải nhận rằng công trình của
ông không nhỏ, vì đã dám dùng một học thuyết tiến hóa vô thần để xoay
ngược lại thành một thuyết tiến hóa hữu thần, với hoài bão cao cả là chỉ
đường, dẫn lối cho nhân loại tiến tới một giống nòi siêu đẳng và đã đưa
ra những biện pháp có thể dần dà thực hiện được mục phiêu cao cả ấy.
Thế giới ngày nay đang sùng thượng khoa
học, đang vụ những chứng lý thực nghiệm bên ngoài, lại đang úy kỵ các
vấn đề siêu hình, nên lấy học thuyết tiến hóa để xây dựng thuyết viễn
đích có thể gọi là hợp với nhân tình thế thái hiện nay.
Lecomte du Noüy là một trong những người
đã nhìn thấy sự biến thiên, chuyển dịch trong vũ trụ mà Ông đã mượn học
thuyết biến hóa hiện đại để nói lên niềm tin ấy.
Ông đã đề cập đến mọi hình thức biến hóa.
1/ Vật chất biến hóa
2/ Hình hài biến hóa (hay là cuộc biến hóa
quần sinh)
3/ Tâm thần biến hóa (hay là cuộc tiến hóa
nơi con người)
Nếu ta quên đi những chi tiết, thì ta thấy
tất cả những băn khoăn thắc mắc, những sự suy tư tìm hiểu của Ông về sự
biến dịch trong hoàn võ cũng là những băn khoăn thắc mắc chung của con
người xưa nay.
Khảo sát thư tịch, truyền thống, từ ngữ
Đông Á, ta thấy từ ngàn xưa sự chuyển dịch biến hóa vẫn là một đề tài
làm bận tâm mọi hạng người.
Trong dân gian thì có huyền thoại «cá vượt
vũ môn, cá hóa rồng», hay những chuyện về tiền thân đức Phật, hoặc những
chuyện đầu thai, hóa kiếp v.v...
Văn chương thì đặc biệt nhất là quyển Liêu
trai chí dị của Bồ Tùng Linh, với những chuyện tinh hoa, tinh vật, tinh
cây biến hóa ra người để đùa cợt, tự tình với những văn nhân lãng tử.
Cao siêu hơn nữa, thì có bộ Kinh Dịch,
trong đó bàn về chủ trương «nhất thể biến vạn thù», «vạn thù quy nhất
thể», với tất cả Dịch lý, như các quan niệm biến hằng, các định luật
vãng lai, tụ tán, phản phúc, tuần hoàn v.v...
Trong Xung Hư Chân Kinh của Liệt Tử,
Chương I, ta cũng thấy đề cập đến khả năng biến hóa của vật nọ sang vật
kia:
«Ếch có thể hóa thành chim cút, chim cút
có thể hóa thành ếch, tùy thổ ngơi ẩm ướt hay khô ráo.»
«Cùng một mầm mộng, có thể thành bèo trên
mặt ao, hay thành rêu trên lưng đồi.»
Tóm lại,
Sự biến hóa chuyển dịch trong vũ trụ đã
được người Á Đông chấp nhận từ lâu.
Nhưng biến hóa chuyển dịch thế nào, thì
lại có nhiều quan điểm khác nhau, người thì chủ trương vật chất biến
thành tinh thần, tinh thần biến thành vật chất, âm dương hỗ vi kỳ căn,
vật chất tinh thần là hai chiều, hai mặt của một thực thể hằng cửu, là
Thái cực, như Phục Hi, Văn Vương, Khổng Tử, Chu Hi, các tác giả Dịch
Kinh đã chủ trương.
Người thì chủ trương hình hài biến hóa, và
loài nọ có thể biến thành loài kia tùy hoàn cảnh. Đó là chủ trương của
Liệt Tử trong Xung Hư Chân Kinh.
Người thì chủ trương tâm hồn biến hóa, hết
kiếp này qua kiếp khác, và một tâm hồn, tùy tội phúc, có thể mặc nhiều
hình hài khác nhau, sau mỗi lần đầu thai, hóa kiếp. Đó là chủ trương
luân hồi của Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Cũng có người lại cho rằng vạn sự vạn vật
là do thần, do Đạo biến hóa ra, như chủ trương của Veda,
của
Upanishad (Áo nghĩa thư),
hay của
Bhagavad Gita (Kinh Thế Tôn ca).
Bài Chính Khí Ca của Văn Thiên Tường cũng
cho ta thấy âm hưởng ấy:
«Anh hoa chính khí đất trời,
Khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng,
Tràn mặt đất tuôn sông kết núi,
Vút trời mây, chói lói trăng sao,
Trần ai lẫn bóng anh hào,
Muôn nghìn khí phách rạt rào tầng
xanh.»
(Bản dịch Nguyễn Văn Thọ)
Thực ra chúng ta cũng chẳng cần phải lộn
lạo đất đai, khai quật hài cốt sinh linh, mới tìm ra được lẽ biến dịch,
và mối dây liên lạc «nhất thể vạn thù» giữa trời đất quần sinh.
Chúng ta chỉ cần nhìn quanh ta, suy nghĩ
về các hoạt động sinh lý cơ thể, như hô hấp tiêu hóa, gạn đục khơi
trong, hấp thụ, đào thải trong con người, các hành vi, cử chỉ lao tác
sinh nhai của thế nhân, ta sẽ thấy ngay rằng tinh thần vật chất tương
thông,
âm biến
dương, dương biến âm, «âm dương hỗ vi kỳ căn» để cuộc sống luôn phong
phú, biến động, tân kỳ.
Romain Rolland viết:
«Chúng ta hãy lắng nghe toàn thể! Sự hòa
hợp đẹp đẽ cao siêu nhất là hiện tại, nơi tương dung, tương hợp của mọi
ước mơ, cố gắng của dĩ vãng và tương lai, của mọi chủng tộc và mọi thời
gian! Mỗi giây đồng hồ, đối với người biết thưởng thức, là khúc hòa ca
của quần sinh vạn vật, từ người đầu tiên, cho đến người sau chót, quấn
quanh bánh xe thế hệ, như những đóa hoa nhài.
«Chẳng phải đi ngược đường tư tưởng của
thế nhân, chẳng phải truy cứu các cổ văn, cổ tích. Tư tưởng nhân loại
vẫn ở quanh ta, những tư tưởng từ ba ngàn năm nay vẫn tại mục tiền.
Chẳng có gì tiêu ma, hủy diệt! Bạn hãy lắng nghe ! Hãy nghe bằng tai!
Khỏi cần đọc sách vở!...»
Trở lại giả thuyết quần sinh biến hóa, ta
thấy giả thuyết này có thể đúng, mà cũng có thể sai.
Nếu đúng, thì theo lời Keyserling, nó còn
ly kỳ hơn huyền thoại Thánh kinh về sự sáng tạo rất nhiều.
Nếu sai,
thì cũng là cái lầm của những danh nhân vì nó đã mang tên của những anh
tài quán thế đã từng làm chấn động dư luận năm châu như Buffon, Geoffroy
Saint Hilaire, Lamarck, Darwin, và cũng là những cái lầm hết sức phong
phú vì nó đã làm cho nhiều ngành khoa học tiến bộ vượt mực.
Cho nên Lecomte du Noüy có dựa trên học
thuyết tiến hóa hiện đại mà xây dựng học thuyết của Ông, ta cũng không
thấy có gì là quải lý. Nhưng ưu điểm của học thuyết viễn đích không phải
là ở chỗ coi con người là một mắt xích trong chuỗi dây tiến hóa, mà
chính là ở chỗ tìm ra chiều hướng tiến hóa cho con người, và chủ trương
con người cần phải biến hóa trên bình diện tâm thần để tiến tới con
người toàn thiện siêu đẳng.
Lecomte du Noüy chẳng những đã chỉ nẻo
đường tiến hóa trong tương lai, lại còn chỉ vẽ các phương thức để đạt
tới mục đích.
Cá nhân phải biết tự cường, tự trọng, cố
gắng chế ngự thú tính, dục tình, để có thể tiến tới toàn thiện. Xã hội
phải biết trọng tự do cá nhân, và quan tâm đến vấn đề đức dục trong các
học đường.
Đạo giáo phải bắt tay với khoa học, các
đạo giáo phải bắt tay thân thiện, học hỏi lẫn nhau để cùng nhau tiến tới
hoàn thiện.
Ông cho rằng hạnh phúc của các dân tộc lệ
thuộc vào sự thống nhất tư tưởng đạo giáo. Thế giới chỉ tin tưởng vào
hòa bình, khi nào các giáo hội chứng minh là hòa bình có thể có được.
Ông kêu gọi mọi người phải cải thiện tâm
hồn mới mong có hòa bình vĩnh cửu.
Ông tha thiết kêu gọi mọi người tin tưởng
vào tương lai và định mệnh sang cả của con người, và khuyên mọi người cố
gắng cải thiện tâm hồn, lướt thẳng dục tình thú tính, để bước lên bình
diện siêu nhiên, thực hiện được nhân phẩm, nhân cách.
Thực là những lời khuyên thành khẩn và xác
đáng hết sức.
Nếu ta chịu đọc các sách Ông cho thấu đáo,
tìm hiểu tư tưởng học thuyết Ông cho hẳn hoi, ta sẽ thâu lượm được rất
nhiều lợi ích. Bất kỳ ta thuộc về tôn giáo, tín ngưỡng nào, tư tưởng của
Ông cũng có sức làm chi niềm tin ta thêm vững vàng, tư tưởng ta thêm
sáng suốt, ý chí ta thêm mạnh mẽ, niềm tin vào tương lai, vào giá trị và
định mệnh con người thêm mãnh liệt. Tóm lại ta chỉ toàn thâu lượm được
những điều tốt đẹp, lợi ích, có thể dùng làm phương châm hướng dẫn cho
cả cuộc đời ta.
Tuy Ông đã khuất núi hai mươi năm nay,
nhưng tư tưởng của Ông vẫn hết sức hợp thời.
Vả lại cái thái độ cởi mở, khoan dung, sự
cố gắng để tiến tới, sự lướt thắng thú tính dục tình để thực hiện nhân
phẩm nhân cách, tất cả những thái độ, những quan điểm, những tư tưởng ấy
sẽ mãi mãi hợp thời, hợp tình, hợp lý, vì đó chính là lập trường tư cách
của con người muôn thuở.
Ước gì mọi độc giả đều chia sẻ niềm tin
của Ông vào định mạng con sang cả của con người, ước gì mọi người sau
khi đọc các tác phẩm của Ông sẽ quyết chí thay đổi tâm tình, hướng đời
mình về những giá trị tâm thần vĩnh cửu và tinh hoa cao đại.
Ước gì mọi người cũng sẽ tin một cách hăng
nồng vững mạnh rằng trong tâm hồn mình, có tàn lửa thiên chân, và mình
có thể cộng tác với Thượng Đế trong công cuộc hóa sinh, tham tán, tài
thành vũ trụ vạn vật, và có thể tiến dần tới hoàn thiện tinh hoa, tiến
dần tới Thượng Đế.
Nếu như
vậy thì hạnh phúc biết bao! Mong lắm thay!
CHÚ THÍCH
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 |
Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
|