LECOMTE DU NOÜY
VÀ
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
PHẦN THỨ
NHẤT:
THỜI ĐẠI, THÂN
THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
TƯ TƯỞNG
LECOMTE DU NOÜY
*
Chương
3
Thân thế Lecomte
du Noüy
«En
naissant, tu pleurais et l’on riait autour de toi.
Conduis-toi telle sorte qu’à ta mort, tu souries, et que tout le monde
pleure.»
DEVISE
MUSULMANE
(cf. de
l’Agnosticisme à la Foi, p.13)
Khi sinh
bạn khóc người cười,
Sống sao
khi chết bạn vui người sầu.
Châm ngôn Hồi
Giáo.
Trước khi đề cập tới học thuyết viễn đích
của Ông, chúng ta hãy theo dõi cuộc đời của Lecomte du Noüy bằng xương
bằng thịt Chúng ta hãy theo dõi gót chân phiêu lãng của con người tài
hoa ấy trên muôn vạn dặm trần hoàn.
Pierre André Léon Lecomte du Noüy cất
tiếng khóc chào đời tám giờ sáng ngày 20-12 năm 1883 tại Ba Lê giữa sự
vui mừng của thân tộc.
Cha ông là một kiến trúc sư tài ba đã từng
được các vua chúa ủy thác xây cất dinh thự và những vương cung thánh
đường.
Mẹ Ông là một nữ sĩ, tuy chẳng tài danh
quán thế, nhưng cũng uy tín một thời và đã từng xuất bản được mười một
cuốn tiểu thuyết.
Do đó, từ tấm bé Ông đã được sự hướng dẫn
săn sóc của những văn sĩ lừng danh, vốn thân giao với gia đình như Guy
de Maupassant, Sully Prudhomme v.v…
Thông minh, tế nhị ngay từ tấm bé, nhưng
suốt thời thơ ấu và niên thiếu, Lecomte du Noüy đau ốm, quặt quẹo luôn.
Vì vậy mà đường học vấn cũng hơi lận đận, bước công danh cũng hơi muộn
màng: 24 tuổi mới đậu cử nhân luật, 27 tuổi mới đậu tiến sĩ luật.
Ông đa tài, đa năng từ nhỏ. Năm hai mươi
mốt tuổi đã bắt đầu viết văn, soạn kịch.
Ngoài ra, Ông còn là kịch sĩ, là đạo diễn,
là văn sĩ, hoạ sĩ, và cũnglà một «cowboy» Texas, giỏi nghề cưỡi ngựa,
quăng thòng…
Cũng như các thanh niên đương thời,
Lecomte du Noüy chịu ảnh hưởng sâu xa của Renan và Taine.
Các niềm tín ngưỡng tuổi ấu thơ của ông,
dần dần bị trào lưu khoa học cuốn trôi hết.
Ông cũng như mọi người thời ấy, tin tưởng
rằng rồi ra khoa học sẽ giải quyết được mọi vấn đề.
Nhưng mặc dầu vô tín ngưỡng, ông cũng như
Renan, vẫn giữ được niềm tin vào luân lý, vào bác ái, ý tưởng và tâm hồn
ông vẫn siêu thoát, tế nhị, nghĩa là vẫn giữ được tinh thần đạo hạnh.
Cũng như Renan, Ông không tin chúa Jésus
là Chúa Trời, Ông cũng không tin có phép lạ, nhưng Ông rất ngưỡng mộ
Chúa Jésus và coi Ngài như một bậc chí nhân, đại nhân, đã lướt thẳng
được mọi yếu đuối nhân loại.
Học thuyết của Taine cho rằng ý thức tâm
tư chẳng qua là sinh ra bởi cảm giác, mà cảm giác chẳng qua là những
chuyển động của các phần tử óc não, đã ảnh hưởng đến Lecomte du Noüy
không ít.
Ông thán phục Taine, vì lý luận rõ ràng,
chính xác và vì lề lối xét suy sâu rộng.
Làm bí thư cho Ông Aristide Briand, Bộ
trưởng Tư pháp, từ năm 24 tuổi, đỗ tiến sĩ luật năm 27 tuổi, soạn giả
nhiều vở kịch, lại là một kịch sĩ có nhiều hứa hẹn tương lai, Lecomte du
Noüy như vậy là đã thành công ngay từ khi bước vào đời.
Tháng 12 năm 1911, Ông đẹp duyên cùng cô
Jeanne Double; khi ấy Ông 28 tuổi.
Thế là đại đăng khoa rồi lại tiểu đăng
khoa; tiền bạc, tiếng tăm, địa vị mặt nào cũng đã vuông tròn, đẹp đẽ.
Người khác thì lấy thế làm tự hào tự mãn.
Nhưng Lecomte du Noüy thì không. Ông ghét những thành công dễ dãi. Ông
còn muốn tiến nữa, tiến mãi… Ông thấy lòng ông bắt đầu yêu chuộng triết
học. Vì muốn sáng tác về triết học sau này, Ông nghĩ cần phải khảo cứu
khoa học, cho nên năm 1913 khi 30 tuổi, Ông xin ghi tên vào đại học
đường Sorbonne, tòng học ban Lý – Hóa.
Ở đây Ông đã được thụ huấn với các giáo sư
lừng danh quốc tế như Lippmann, Appell, Pierre Curie và Marie Curie, và
cũng đã được đàm đạo nhiều lần cùng Sir William Ramsey, một bậc thái đẩu
của Anh Quốc và quốc tế về khoa học. Vì đã đi quân dịch và đã tòng học
khóa sĩ quan trước, nên khi đại chiến 1914 bùng nổ, Ông được động viên
với cấp bậc Trung úy. Đơn vị của Ông đóng ở Compiègne, và nhờ vậy Ông
được gặp gỡ nhà bác học Carrel, bấy giờ làm quản đốc quân y viện ở đó.
Nhờ sự gặp gỡ này mà dần dà Ông trở thành bác học.
Carrel nhờ Ông tìm ra một phương trình
toán học tiên đoán được ngày liền da của các vết thương, và Ông đã thành
công, sau nhiều tháng trời tính toán, suy tư… mới đầu Ông để hết giờ
rảnh để phục vụ trong ban nghiên cứu khoa học của Bệnh viện; rồi năm
1916 được biệt phái phục vụ hẳn tại quân y.
Nhờ Bác học Carrel hướng dẫn, Ông học được
phương pháp trồng cấy tổ chức tế bào và đi sâu vào con đường khảo cứu
khoa học, sáng chế dụng cụ khoa học.
Năm 1917 Ông nộp luận án tiến sĩ khoa học.
Đến năm 1920 Ông được Bác sĩ Carrel mời
sang phục vụ tại Viện Rockfeller New York, một viện khảo cứu khoa học
lừng danh quốc tế. Ông được lời mời, y như là thấy cửa thiên đường rộng
mở. Nhưng ngược lại, bà vợ ông chẳng bằng lòng cuộc chia phôi, cũng
chẳng muốn ông xuất dương theo đường công danh sự nghiệp. Ông dỗ bà đi
theo thì bà khuyên Ông ở lại. Cuối cùng là Ông đi sang New York tháng
giêng 1920, thì Bà ở nhà xin ly dị năm sau. Cuộc ly hôn này làm cho Ông
buồn khổ nhất là vì cuộc tình duyên đã đem lại cho Ông một cậu con trai,
cậu Philippe, sinh ngày 14-11-1917, đến nay đã 4 tuổi.
Sang viện Rockfeller, Ông làm việc ngày
đêm, sống hoàn toàn hiến thân cho khoa học, cho khảo cứu, say sưa tìm
hiểu, thí nghiệm, suy tư, cố gắng phát minh suốt đêm ngày, đến quên ăn
quên ngủ.
Ông yêu phương châm của Pasteur và đã lấy
phương châm ấy để kết luận một bài diễn văn quan trọng nhan đề «Từ
Démocrite đến Einstein hay tâm lý của nhà bác học» mà Ông đọc ở Montréal
và Québec.
«Đã từ lâu lắm, gặp sinh viên nào tôi cũng
khuyên: «Bạn hãy làm việc, hãy cố gắng, hãy bền gan, trì thủ. Chỉ có sự
làm việc mới làm cho con người vui sướng thực sự và mới làm ích cho
mình, cho đồng loại và tổ quốc.»
«Bất kỳ chọn nghề nào, bạn hãy đặt cho
mình một mục đích cao cả. Bạn hãy sùng thượng những danh nhân, danh sĩ,
những đại sự, đại nghiệp.
«Hạnh phúc thay cho kẻ nào mang trong tâm
hồn một Thượng Đế, một lý tưởng đẹp đẽ và sống theo lý tưởng ấy, bất kỳ
là lý tưởng nghệ thuật, khoa học, quốc gia, hay lý tưởng đạo giáo, Phúc
âm. Đó là những nguồn mạch sống động phát sinh ra những tư tưởng cao
đại, những hành vi cao đại. Tư tưởng và hành vi ấy sẽ bừng sáng lên
trong những ánh quang huy của vô cùng.»
Năm 1921, ngẫu nhiên mà Lecomte du Noüy
gặp Mary Bishop Harriman trong một buổi tiếp tân. Cuộc gặp gỡ này mở đầu
cho một cuộc tình duyên hết sức hạnh phúc và thơ mộng, đẹp đẽ.
Hai bên ý hợp, tâm đầu, đều tìm thấy ở nơi
nhau một tâm hồn lý tưởng, đều như nhau tha thiết muốn vươn lên, đều như
nhau nhất quyết thực hiện một tình yêu thơ mộng, thanh cao, đẹp đẽ, nồng
nàn, một cuộc đời lý tưởng, siêu việt.
Ông lấy khẩu hiệu của Guillaume d’Orange
mà khuyên Bà luôn luôn cố gắng:
«Tuy không khuyến khích, vẫn làm;
Tuy không kết quả, vẫn ham công trình.»
Hai ông bà chính thức thành hôn ngày
13-3-1923. Hai người tương đắc cho đến nỗi từ ấy, luôn luôn sống bên
nhau: bà cũng ra công học văn chương, triết học, khoa học, để có thể
rung cảm theo cùng nhịp điệu với chồng. Trong suốt 25 năm chung sống, bà
đã trở thành một cộng sự viên đắc lực của Ông trong mọi lãnh vực văn
chương, triết học, và đến khi Ông mãn phần, bà là người nối chí cho Ông
đi khắp năm châu để truyền bá học thuyết của đức lang quân.
Trong suốt 7 năm ở viện Rockfeller,
Lecomte du Noüy công bố được tất cả 57 công trình khảo cứu khoa học.
Ở Rockfeller, Ông đã cộng tác với nhiều
danh nhân như Landsteiner, Jacques Loeb, Van Slyke, Flexner.
Ông cũng đã được thuyết trình học thuyết
Einstein trong một buổi diễn thuyết do Einstein chủ toạ, nhân dịp
Einstein viếng thăm viện Rockfeller cùng với nhiều danh nhân khác, và
sau đó, được Einstein mời về khách sạn đàm đạo nhiều giờ, tặng ảnh kỷ
niệm.
Sau thời gian 7 năm ở Rockfeller, vì bà
Lecomte du Noüy hay đau yếu và muốn đổi khí hậu, Ông Lecomte du Noüy đã
xin về phục vụ tại viện Pasteur Paris lúc ấy ở dưới quyền điều khiển của
bác sĩ Roux và Calmette, Ông phục vụ ở đó tám năm. Trong suốt 15 năm
phục vụ cho khoa học thuần túy vừa ở Nữu Ước vừa ở Ba Lê. Ông đã khám
phá được rất nhiều hiện tượng lý – hóa của huyết thanh, đã sáng chế được
nhiều dụng cụ đo lường và khảo sát huyết thanh.
Trong 15 năm đó Ông cũng đã dự nhiều hội
nghị khoa học quốc tế, tiếp xúc giao thiệp với nhiều danh nhân như Bohr,
như Bergson; thuyết trình và đăng tải hơn 150 thiên thảo luận khoa học
và xuất bản được 7 cuốn sách khoa học.
Nhưng sau khi các nhà khoa học Roux và
Calmette tạ thế, Ông ngán ngẩm vì những sự kèn cựa của ban giám đốc mới,
nên Ông đã xin từ chức (1-11-1936).
Sự từ chức ấy tuy có hại cho Ông về mặt
khoa học khảo cứu, nhưng lại rất có lợi cho Ông về phương diện triết học
và trước tác, suy tư sau này.
Từ nay, Ông được rảnh rang hơn để suy tư,
và trước tác. Nhưng thực ra tâm hồn Ông đã chuyển hướng từ lâu. Lý do là
vì Ông càng ngày càng nhận chân rằng học thuyết duy vật không giải thích
được thực tại.
Sau nhiều năm khảo nghiệm về sinh lý, sinh
cơ, Ông nhận thấy sinh chất không hoàn toàn theo những định luật vật
chất; như vậy có nghĩa là vật chất không đủ để cắt nghĩa mọi sự như
phong trào duy vật thường tuyên truyền.
Ông lại nhận thấy rằng thực ra nhiều nhà
khoa học và chính trị, vì những lý do tâm tình, đã vội vàng kết luận
rằng khoa học chứng minh được là không có Thượng Đế.
Ông sợ hãi khi nhận thấy rằng khi chối bỏ
đạo giáo, con người trở nên hư hỏng và mất hết những nguồn vui thiêng
liêng thanh khiết.
Năm 1927, Ông lại chứng kiến sự sụp đổ của
«Nguyên lý duy vật tất định» do Laplace đề xướng.
Laplace chủ trương: Trong trời đất không
có gì ngoài vật chất, mọi hiện tượng trong vũ trụ đều do vật chất xuất
sinh biến hóa, theo đúng định luật nhân quả, và có thể đoán ra được hết.
Nhưng tới năm 1927, nhà bác học Heisenberg
đã chứng minh rằng nguyên lý tất định không áp dụng vào thế giới điện
tử, vi tử, vi trần.
Nhân loại không làm sao vừa biết được vị
trí của điện tử, vừa biết được tốc độ của điện tử.
Nói thế, tức là khai tử cho nguyên lý tất
định.
Thế là một lần nữa, Ông thấy lý thuyết duy
vật mất chân đứng về phương diện khoa học.
Đằng khác, Ông thấy toán học đã chứng minh
rằng sinh linh không thể ngẫu nhiên mà có.
Điểm này đã được giáo sư Charles Eugène
Guye đề xướng và chứng minh bằng toán xác suất từ năm 1922.
Ông dần dần thấy rõ rằng nhiều nhà khoa
học không thành thực với chính mình, và đã có những lối sống phụ hoạ,
những chủ trương xu thời, vì đảng phái, vì địa vị, chính kiến.
Ông dần dà nhận thấy mình đã sai đường,
lạc lối. Ông mới nhất quyết soát xét, nhận định lại các phương pháp khoa
học, các thành quả khoa học. Sự khảo sát ấy cho ông thấy khoa học chỉ có
giá trị tương đối, thực tiễn.
Ông cân nhắc ưu, khuyết điểm và nhìn xem
những thực hiện của các triết thuyết xã hội và các chủ nghĩa độc tài.
Ông thấy rằng các chủ nghĩa này tuy có cải
thiện đời sống vật chất bên ngoài, nhưng thực sự đã bóp nghẹt tự do con
người, và đã làm cho con người mất hết nhân phẩm, nô lệ hóa con người.
Một thí dụ điển hình nhất là các hoạt động
dã man, phi nhân của Đức quốc xã.
Cho nên, Ông bỗng thấy niềm tin Thượng Đế
trở lại tràn ngập trong tâm hồn Ông không phải Thượng Đế có nhân hình,
nhân dục, mà là Thượng Đế siêu nhiên bất khả tư nghị.
Ông nhận thấy cần phải bảo vệ tinh hoa con
người, tinh hoa đạo giáo. Đồng thời, Ông cũng nhìn thấy định mệnh sang
cả của con người đang được dần dà thực hiện qua muôn thăng trầm và luân
lạc của thế sự, thời gian.
Ông nhìn thấy định mệnh con người, có lẽ
một phần lớn cũng nhờ linh giác của Renan, vì Renan luôn chủ trương con
người sẽ tiến tới bậc thần nhân, siêu đẳng.
Từ đó, Ông thấy cần viết sách để công bố
niềm tin, và tư tưởng Ông để cảnh tỉnh nhân loại, và đồng thời tìm cho
nhân loại một hướng đi mới, một niềm hi vọng mới.
Bà Lecomte du Noüy viết: «Những sự thất
bại những năm qua
đã làm
vững mạnh những niềm khát vọng tâm thần và siêu nhiên của Ông, và đã làm
cho Ông thấy rõ chủ nghĩa duy vật đã làm cho các nguyên tắc luân lý tâm
thần suy vi, điên đảo.
Ông tin
chắc rằng sự sống không có hoàn toàn theo những định luật vật chất. Ông
cũng tin rằng những khám phá khoa học mới mẻ nhất thay vì làm cho mọi
người tin vào thuyết duy vật thì ngược lại chỉ có thể giải thích được
bằng một năng lực, tuy nay còn ở trên tầm khoa học nhưng chắc không phải
là một năng lực vật chất.
Thế là từ năm 1938 trở đi cho đến năm
1947, khi tạ thế. Ông đã để hết tâm trí thực hiện một công trình vĩ đại,
đó là học thuyết viễn đích, một học thuyết nói lên niềm tin vào Thượng
Đế. Vào sự tiến hóa, vào các giá trị tâm thần và siêu nhiên, cũng như
vào định mệnh sang cả của con người trong tương lai.
Quyển «Con người trước khoa học» xuất bản
năm 1939.
Quyển «Tương lai tinh thần» xuất bản năm
1941.
Quyển «Phẩm giá con người» xuất bản năm
1946 và cuối cùng là quyển «Định mệnh con người» xuất bản năm 1946 ở Mỹ
và 1947 ở Pháp.
Nhưng «công thành thân thoái», nhiệm vụ
nơi gian trần của ông đã hoàn tất từ nay, thì con người xương thịt của
Ông cũng sắp sửa rút lui khỏi sân khấu đời.
Cuối năm 1946, các bác sĩ khám phá ra rằng
Ông bị ung thư thận.
Giải phẫu và phương pháp trị liệu bằng
quang tuyến đều được áp dụng, nhưng khoa học đâu có níu áo được thời
gian và định mệnh: ngày 21-12-1947 sau nhiều tháng bệnh hoạn Ông đòi
Champagne để chuốc chén giã từ người vợ hiền và bạn hữu với nụ cười.
Uống Champagne xong Ông hôn mê, đến ngày hôm sau tức là ngày 22-12-1947
Ông từ trần tại Nữu Ước, hưởng thọ 64 tuổi, sau khi đã biến thiên qua 64
quẻ dịch của cuộc đời.
Vài ngày trước khi từ trần Ông đã trở lại
đạo Công giáo và đã chịu các phép Bí tích trước khi chết…
Lần bước theo Ông từ khi ra chào đời cho
tới khi tạ thế, chúng ta thấy Ông là một người rất đặc sắc.
Ông là một con người tài hoa, thông minh,
tình tứ và đã thành công trong mọi lĩnh vực.
Ông thành công một phần vì thiên tư đĩnh
ngộ, một phần vì đã cố gắng liên tục, và đã biết đặt cho mình một lý
tưởng cao siêu để vươn lên.
Như vậy, ta mới hiểu tại sao Ông lại có
thể có hai bằng tiến sĩ: Luật học và khoa học; tại sao Ông có thể là nhà
văn, nhà báo, soạn giả, kịch sĩ, hoạ sĩ, bác học, triết gia v.v.
Ông là một con người thanh quí, cả từ thể
chất cho đến tâm thần. Lúc nào Ông cũng chỉ say mê chân thiện mỹ, say
sưa lý tưởng.
Ông là một con người thoát sáo, ghét mọi
khuôn khổ, thích ngao du sơn thủy, thưởng ngoạn các vẻ đẹp của vũ trụ và
suốt đời đã tỏ ra phóng khoáng, không chịu gò bó mình vào một khuôn khổ
chật hẹp nào.
Ông luôn luôn muốn tâm hồn có một tầm kích
vũ trụ, một cái nhìn toàn bích, và lúc nào cũng trung thành tha thiết
với lý tưởng.
Trong đời Ông, Ông đã theo và sống 3 tôn
chỉ của Pasteur:
1/ Say sưa lý tưởng.
2/ Cố gắng không ngừng.
3/ Thành khẩn tìm chân lý và sẵn sàng rũ
bỏ mọi thành kiến sai lầm.
Ông cũng đã thực thi được câu phương châm
của Hồi giáo:
«Khi sinh bạn khóc người cười,
Sống sao khi chết bạn vui người sầu.»
Ông biết Ông chết đi nhưng sẽ để lại một
vết tích gì lâu lại nơi trần thế… Đối với Ông, như vậy là trường sinh,
trường thọ với non sông.
Ông nuôi hoài bão chỉ đường dẫn lối cho
nhân loại.
Cuộc đời đẹp đẽ của ông làm chúng ta liên
tưởng đến mấy câu Kinh Thi tặng khen người quân tử:
Kìa xem bên khuỷu sông Kỳ
Tre non mới mọc xanh rì vườn ai.
Người sao văn vẻ hỡi người,
Nhường như cắt đánh, dũa mài bấy nay
Lẫm liệt thay, rực rỡ thay
Hỡi
người quân tử biết ngày nào quên.
CHÚ THÍCH
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
|