LECOMTE DU NOÜY
VÀ
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 |
Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
PHẦN THỨ
HAI:
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
*
Chương
4
Những suy luận
theo nhãn quan tiến hóa và viễn đích.
Hoàn cầu phục
vụ con người,
Con người nay
trước, con Trời mai sau.
Nội tâm cố
tiến vào sâu,
Cửa trời dần
mở, cơ mầu dần hay.
Chớ còn gàng
quải đó đây,
Ngoài tuy muôn
nước, trong nay một nhà...
Thiên sơn, vạn
thủy băng qua,
Muôn người như
một, thái hòa khắp nơi...
Tiết 1
Những suy
luận và hậu quả do thuyết viễn đích xuất sinh.
Những thỉnh lý của thuyết viễn đích thực
là giản dị:
1) Cuộc tiến hóa ngày nay chưa ngừng nghỉ
nhưng đã xoay chiều vào hướng óc não, nội tâm; tức là đã bắt đầu bước
lên bình diện lý trí, tâm thần.
2) Con người mới bắt đầu đi vào con đường
tiến hóa ấy.
3) Cuộc tiến hóa này còn lâu lai và cuối
cùng sẽ thực hiện được một giòng giống siêu đẳng, những «tâm thần siêu
đẳng» những «thần nhân».
Nhưng Lecomte du Noüy đã nhân đấy suy diễn
ra vô số hậu quả.
1) Trước tiên, ông cho rằng vì con người
sẽ tiến tới «thần nhân», nên điều kiện tiên quyết là phải thoát ly thú
tính, dục tình.
2) Muốn đạt đích mới, con người nay đã có
những phương thức mới để tiến hóa, đó là:
Truyền thống,
Văn minh,
Từ ngữ,
Và lý trí ý thức.
3) Có chiến thắng được thú tính dục tình,
con người mới có nhân phẩm.
4) Muốn đạt đích cao sang ấy con người
phải cố gắng không ngừng.
5) Con người phải hoàn toàn được tự do để
có thể cộng tác hữu hiệu vào công cuộc tiến hóa của Thượng Đế.
6) Cái gì giúp con người tiến hóa về chiều
hướng thần linh là tốt, cái gì làm cho con người thoái hóa, lùi xuống
hàng muông thú là xấu.
7) Cái gì cũng tiến từ thô đến tịnh, cho
nên mê tín dị đoan chính là những bước đầu chập chững của tín ngưỡng.
8) Khẩu hiệu của Lecomte du Noüy có thể
tóm tắt như sau:
«Tiến hóa, biến cải để tiến tới tinh thần,
tiến tới tinh hoa, hoàn thiện.»
Khẩu hiệu này làm ta nhớ tới một câu tương
tự của Trình Tử viết khi đề tựa Chu Dịch:
Dịch là tùy thời biến dịch để theo
Đạo...giúp cho người sau biết ven theo dòng để có thể tìm lại được
nguồn.
Chủ trương «tiến hóa biến cải để tiến tới
hoàn thiện» của Lecomte du Noüy giúp ta hiểu rõ được quan điểm lập
trường của ông về đạo giáo cũng như về nhân sinh, nhân thế.
Xét về phương diện tiến hóa thì đạo giáo
cũng như con người không thể nhất đán trưởng thành ngay, và cũng không
thể nào bất động, không chịu biến cải với thời gian. Người tiến hóa, thì
đạo giáo cũng phải tiến hóa theo.
Khi con người còn thô lỗ thì đạo giáo có
thể tiến triển về mặt hình thức, có thể đem lợi lộc,
hoặc tai
ương
mà dụ dỗ
hay doạ nạt để dân theo mình, theo giáo lý mình.
Nhưng khi con người đã trưởng thành, thì
phải lấy nhân phẩm, nhân cách, lấy lương tâm làm kim chỉ nam cho con
người.
Khi con
người đã hiểu biết, thì đạo giáo cũng phải lo phát triển trên bình diện
nội tâm.
Vì theo nhãn quan biến dịch, tiến hóa, nên
Lecomte du Noüy không giải thích tội tổ tông như là một sa đoạ,
vì sa đoạ
là thụt lùi, là thoái hóa; ngược lại ông cho đó là sự phát hiện của
lương tâm và tự do.
Ông cho rằng: một đàng thì Thiên Chúa «đã
trực tiếp truyền thần» cho con người; ban cho ý thức lương tâm, tự do và
tàn lửa thiên chân; sau đó mới truyền cho con người phải lướt thắng thú
tính để tiến tới thuần thần.
Một đàng, thì nguyên tổ còn nặng nề và thú
tính, vật dục, nên chưa có thể vươn lên.
Ông không công nhận Chúa Giêsu là Thiên
Chúa giáng trần mà là một vị chí nhân, chân nhân, đã đạt đích tiến hóa,
đã thực hiện được thiên ý trước nhân loại hàng triệu năm, và là một vị
hướng đạo vĩ đại, cao siêu của nhân loại.
Địa vị của chúa Giêsu, của những vị chí
nhân, đạt nhân trong dĩ vãng, nhân loại khi tiến hóa đến chung cuộc cũng
đạt được.
Theo nhãn quan tiến hóa, nhiều học giả chủ
trương không thể có đạo giáo nào đột phát, đột khởi mà đã lớn mạnh bằng
cách vay mượn lễ nghi, truyền thuyết của các đạo giáo hiện hành để điểm
tô cho giáo lý mình.
Với nhãn quan tiến hóa, Lecomte du Noüy
cũng đã tham khảo các công trình của các sử gia như:
-
Frazer
-
Arthur Weigall
-
Edmond Claparède
và ông nhận thấy trong quá trình, đạo Công
giáo cũng đã vay mượn nhiều huyền thoại của các đạo hồi xưa.
Khi đạo Công giáo chưa ra đời, thì ở các
nước phụ cận Địa Trung Hải như Phrygie, Pháp, Ý, La Mã đã thờ những chúa
Thần Attis
và
Mithra.
Thần Attis là «đấng chăn chiên lành», con
nữ thần Cybèle, đại thánh mẫu, hoặc là con trinh nữ Nana đã thụ thai một
cách lạ lùng vì không hề chung đụng với phàm nhân. Attis đã chết và đã
sống lại. Kỷ niệm lễ Phục Sinh Thần Attis được cử hành tại La Mã từ 22
đến 25 tháng 3... Ở Phrygie, ở Pháp, ở Ý và ở những nước mà đạo Attis
còn thịnh, người Công giáo đã chọn ngày 25/3 để kỷ niệm sự khổ nạn chủa
Chúa.
Thần Mithra được gọi là Thái Dương, là
Chúa, vì vậy xưa, dân lấy ngày «chúa nhật», ngày «nhật diệu nhật» để
kính ngài và kỷ niệm sinh nhật ngài mỗi năm vào ngày 25/12.
Từ thế kỷ thứ IV, Công giáo cũng đã lấy
ngày 25/12 làm ngày lễ Giáng Sinh. Ngoài ra cũng đã lấy ngày Chủ Nhật
thay thế cho ngày Thứ bảy Do Thái.
Huyền thoại về Đức Mẹ Đồng trinh Vô nhiễm
cũng vay mượn ở các đạo giáo trên.
Những vay mượn ấy, đối chiếu với khung
cảnh lịch sử và trình độ tiến hóa khi xưa, thì không có gì đáng trách,
nhưng
ngày nay, có thể trở nên những mối đe doạ cho tiền đồ đạo giáo, và cần
được rũ bỏ dần dần.
Tuy nhiên, qua những lớp lang huyền thoại,
dị đoan bên ngoài, ta có thể tìm ra được tinh hoa đạo giáo tiềm ẩn bên
trong, đạo giáo chân truyền của Chúa Cơ Đốc và của các môn đệ.
Ta có thể hội ý Lecomte du Noüy, thâu tóm
tinh hoa đạo giáo như sau:
1- Tin có Thượng Đế, và ăn ở theo đúng
niềm tin ấy.
2- Đạo trời, nước trời, hạnh phúc, chân
lý, tàn lửa thiên chân chẳng ở đâu xa, mà ở ngay trong tâm khảm con
người.
3- Đạo giáo thuần túy là thương giúp kẻ
bần cùng, sống đời tinh vi, cao khiết không muốn bợn nhơ tục lụy.
4- Theo đạo là cải tạo tâm hồn, tiến tới
siêu nhiên, để một ngày kia thiên ý, nhân tâm hòa hợp.
Xét về phương diện tiến hóa, thì những mê
tín dị đoan, huyền thoại, huyền sử là sản phẩm của quần chúng.
Quần
chúng dĩ nhiên không phải là những phần tử tiến hóa, mà ngược lại luôn ù
lì bất động, chậm tiến.
Cho nên
những huyền thoại, huyền sử dẫu đẹp đẽ mấy rồi ra cũng không lợi cho
công cuộc tiến hóa, vì vậy cần rũ bỏ dần dần.
Trái lại tinh hoa đạo giáo là một truyền
thống quý báu do những vị đạt nhân, đạt đạo lưu lại, nên cần phải được
bảo tồn, truyền tụng vì đó chính là bí quyết để tạo nên những chính nhân
quân tử.
Quần
chúng thì vô vàn, nhưng những phần tử tiền tiến, những vị đạt nhân, chân
nhân thì thực hết sức hiếm hoi.
Quần chúng có nhiệm vụ sinh sôi nảy nở để
bảo vệ giống nòi, để may ra sinh được những danh nhân, những phần tử
tiền tiến.
Những phần tử tiền tiến sẽ hướng dẫn nhân
loại dần dần về cùng đích.
Những
phần tử nào thực tình muốn tách khỏi quần chúng, phải nhìn nhận ra con
đường tiến hóa của mình là tiến sâu vào chiều hướng, lý trí, tâm tình,
tâm thần, bao quát cả các đoạn đường mà khoa học, nghệ thuật và đạo giáo
đã vạch ra, để trở thành những «thần nhân», những mẫu người lý tưởng soi
đường cho tương lai.
Sau khi đã thấy rõ các nấc thang giá trị,
cần phải biết ước muốn cho cao xa, ước muốn những gì là tinh hoa, là
vĩnh cửu.
Theo nhãn quan tiến hóa, thì những phần tử
tiến hóa chân chính – những tao nhân mặc khách, những hiền nhân quân tử
– thật ít ỏi, còn những người có trách nhiệm lãnh đạo tinh thần trên
thực tế, nếu xét theo phương diện tiến hóa, theo những tiêu chuẩn giá
trị tâm thần, thì nhiều khi lại chẳng có giá trị gì.
Cho nên, Lecomte du Noüy kêu gọi những tao
nhân mặc khách, những hiền nhân, quân tử phải nhận lãnh trách nhiệm sửa
sang những lỗi lầm của dĩ vãng,
và tìm
cho ra con đường chân thực cho tương lai, tìm cho ra «một bộ giáo lý mà
mọi người có thể chấp nhận được».
Các tao nhân mặc khách không có quyền làm
ngơ trước thế cuộc, nhất là khi những người có trách nhiệm và ở vào địa
vị lãnh đạo khai hóa nhân dân thường lại không quán xuyến được vấn đề,
không phân biệt được tinh thô, chỉ biết hấp thụ mà không biết biến hóa,
nên thường đã cản bước tiến của nhân loại.
Vì thuyết viễn đích chủ trương mục đích
thì duy nhất, mà phương tiện thì muôn vàn, tùy nghi tùy tiện, nên
Lecomte du Noüy công nhận nhân loại không phải chỉ có một con đường, mà
có nhiều con đường đưa đến chân, thiện, mỹ.
Các đạo giáo cổ kim đều đã hướng nhân loại
về con đường hoàn thiện.
Cho nên thay vì đả kích, hãm hại lẫn nhau,
mọi người phải bắt tay nhau để cùng nhau học hỏi rút tỉa những kinh
nghiệm đẹp đẽ của nhau, để cùng tiến về đinh non hoàn thiện.
Ông tha thiết chủ trương phải phá bỏ cho
hết những bức tường, những chướng ngại vật ngăn chặn chia rẽ con người,
làm cho họ mất niềm tin cậy lẫn nhau, giảm tình tương thân, tương ái.
Ông ước mong sự hợp nhất các đạo giáo,
trên phương diện lý tưởng, tinh hoa phổ quát đại đồng.
Và để tỏ ra trung thành với học thuyết của
mình, Lecomte du Noüy chẳng những đã đề cao Phúc âm, mà nhiều lần còn tỏ
ra có nhiều cảm tình với Ấn giáo, Phật giáo,
Mormon
giáo,
Hồi giáo.
Ông đã dùng phương châm Hồi giáo để kết
thúc quyển giá trị con người:
«Khi sinh bạn khóc người cười,
Sống sao khi chết bạn vui người sầu.»
Sau khi đã đoán định con người phải tiến
hóa về chiều hướng tâm thần, Lecomte du Noüy đã nhận định được giá trị
tương đối, và giai đoạn của khoa học. Ông cho rằng khoa học cần phải đi
sâu vào nội tâm; kiến văn và trực giác phải bắt tay nhau để phục vụ con
người.
Ông cũng chủ trương rằng những tiến bộ về
cơ khi trí xảo có nhiều điều hay điều lợi, nhưng nếu thay vì coi nó là
một chặng đường để tiến về tinh thần, ta coi nó là cùng đích nhân loại,
thì sẽ nguy hiểm vô cùng. Chẳng những lý trí sẽ không đem lại hạnh phúc
mong muốn cho nhân loại, mà còn đưa đến một thế giới máy móc, khô khan,
tàn nhẫn.
Trong nhãn quan viễn đích, thì cá nhân là
quan trọng nhất.
Xã hội, đạo giáo, hay bất kỳ đoàn thể tổ
chức nào cũng có mục đích giao hóa, cải thiện và tạo dựng nên những bầu
không khí thuận tiện cho siêu nhân thần nhân xuất hiện, và cũng là để
cho nhân loại cùng nhau tiến bước trên con đường hoàn thiện, đại đồng.
Phải lo cải thiện tâm hồn con người, hơn
là cải thiện hoàn cảnh vật chất bên ngoài.
Con người có thực sự được cải thiện, thì
nhân loại mới có thể hưởng được thái bình chân chính «tứ hải giai huynh
đệ».
Tiết 2
Toát lược
các hậu quả của học thuyết viễn đích theo Lecomte du Noüy.
Sau khi đã suy luận ra các hậu quả của học
thuyết viễn đích chúng ta có thể cùng với Lecomte du Noüy toát luợc lại
một lần nữa dưới một hình thức khác.
Lecomte du Noüy cho rằng nhãn quan tiến
hóa và học thuyết viễn đích đưa đến ba hậu quả:
1) Hậu quả triết lý
2) Hậu quả xã hội nhân sinh
3) Hậu quả thực hành và luân lý.
A. – Hậu quả triết lý.
1. – Trước tiên chúng
ta phải coi những ý niệm, những sự kiện tâm thần là những sự kiện khoa
học, vì chúng ta là những tiêu chuẩn mới để đo lường sự tiến hóa, thay
thế cho những tiêu chuẩn cơ thể và sinh lý đã được xử dụng nơi các loài
vật hạ đẳng.
Coi hiện tượng tâm thần là hiện tượng khoa
học,
ta sẽ lập
được hệ thống duy nhất cho các loại hiện tượng, và công cuộc khảo sát,
suy tư, giải thích, nhân đó, cũng sẽ trở nên giản dị, vì ta sẽ lấy được
cái dễ mà khó.
Hơn nữa, lý trí tiến sâu vào bình diện tâm
tình ý thức sẽ tiếp tay được với tuệ giác, trực giác, nguồn mạch phát
sinh ra các đạo giáo.
Ta sẽ thấy đường lối suy tư của khoa học
cũng đi tới cùng một loại nhân định và kết quả y như những đường lối
trực giác, linh giác của các đạo giáo xa xưa.
Ngày nay lý trí và trực giác phải tiếp tay
nhau, khoa học phải mở rộng biên cương để tiến về phía tâm thần, đạo
giáo cần phải rũ bỏ những tàn tích bàng môn, tả đạo hình tướng thô sơ.
Đó là một công trình lâu lai không phải nhất đán, nhất tịch mà thực hiện
được.
Đã đành, giáo lý Cơ đốc giáo thuần túy
ngày nay đối với quần chúng cũng khó hấp thụ như thuyết Tương đối. Nhưng
quần chúng có thể bỏ qua thuyết Tương đối, mà không thể bỏ qua được đạo
giáo. Tuy nhiên người ta không thể nào để cho quần chúng dựa dẫm mãi vào
một thứ tôn giáo bắt nguồn từ những sự thờ phượng quấy quá, những thần
minh khoác lốt người, một tôn giáo không có sức cải thiện sâu xa được
tâm hồn con người.
Đã đành đạo giáo có hai mặt nội ngoại,
tinh thần và hình thức, nhưng không thể nào dung túng được những hình
thức, những hành vi có thể giảm giá các giáo lý cao siêu.
Đó là một vấn đề tế nhị, nhưng không phải
vì thế mà trốn tránh quanh quẩn không dám nhìn thẳng vào vấn đề.
Ta nên nhớ lời Renan: «Nếu sau này lòng
sùng kính Chúa Giêsu suy giảm đi trong hoàn vũ, thì cũng do những sự
kiện mà trước kia đã làm cho người ta tin sùng ngài.» Đừng để cho ý muốn
quảng đại ra quần chúng, thu hút đại chúng làm lu mờ mất mục đích chính
yếu của đạo giáo là giúp con người chuyển hóa, cải thiện nội tâm, bằng
một sự cố gắng chân thành và sáng suốt, chứ không phải bằng sự bo thiết
vâng giữ các lễ nghi hình thức bên ngoài mà nay được coi như là những
bảo đảm không tốn tiền giúp con người thoát được những hoạn nạn bất kỳ
mai hậu.
Giai đoạn chúng ta là giai đoạn giao thời.
Nhiều người thấy đau lòng khi phải thay đổi thái độ, phải chuyển hướng,
thích ứng.
Những người già nua, luống tuổi đôi khi
không còn thích ứng được nữa.
Nhưng tuổi ấu thơ thích ứng dễ dàng. Cho
nên cần phải giáo dục lại con trẻ. Mà muốn giáo dục con trẻ, cần phải
huấn luyện lại các giáo viên, giáo học.
Các giáo viên theo đuổi tín ngưỡng duy vật
lỗi thời về phương diện khoa học là một nguy hại đáng kể.
Cần huấn luyện cho con trẻ, cho các thế hệ
tương lai biết trọng lý trí, biết suy tư, nhưng chúng ta cũng cần lý sự
cho hợp thời theo kịp những kiến thức mới mẻ nhất, chứ không phải bám
víu vào khoa học cũ kỹ già nua từ 50 năm nay. Trọng lý trí là một phương
pháp làm việc chứ không phải là một chiêu bài để che giấu, để tuyên
truyền cho một chủ nghĩa chính trị.
2.- Một hậu quả triết
lý khác của thuyết viễn đích là sự phân tách tâm thần và thể xác.
Sự phân tách này không phải là một động
tác tín ngưỡng là là một sự kiện khoa học, bởi vì từ nay không phải thân
xác tiến hóa mà là tinh thần tiến hóa.
Phân tách đây không phải là cắt chặt, chia
phôi thành hai nửa, hai bên riêng rẽ, mà là cho thấy hai chiều, hai mặt
của một khối óc, một con người.
Về phương diện cơ cấu thì khối óc lệ thuộc
các ảnh hưởng lý hóa vật chất.
Nhưng về phương diện hoạt động, thì óc não
lại sinh ra những hiện tượng tâm thần, lại lệ thuộc vào những lề luật
cao siêu, khác biệt.
Nếu chúng ta chấp nhận sự phân biệt này,
thì ta thấy yếu tố tâm thần trở nên quan trọng.
Một sự «tự canh cải chuyển tiếp» được bắt
đầu.
Tất cả những hình thức tín ngưỡng, thờ
phụng tôn giáo bên ngoài trở nên tùy thuộc, đền thờ tâm hồn trở nên
chính yếu.
Sự thành khẩn, ý chí cương quyết cải thiện
tâm hồn để tiến tới, để góp phần vào công cuộc của Thượng Đế, sự ý thức
được nhân phẩm con người, với tất cả những bổn phận do nhân phẩm ấy phát
sinh, trở nên những hoạt động đạo hạnh tín ngưỡng quan trọng, và hữu
hiệu hơn những lễ bái hình thức bên ngoài, bất kỳ con người theo tôn
giáo nào, gọi Thượng Đế bằng danh hiệu gì.
Cố gắng cần thiết nhưng chưa đủ.
Con người muốn tiến hóa còn phải được sự
tuyển lựa, sự hộ phù của Đấng Tối Cao.
Muốn tiến hóa, muốn đạt những thành quả,
những đặc tính mới mẻ, con người không cần dùng đến công cụ xa xưa như:
- thích ứng
- đấu tranh
- ngẫu biến
mà dựa vào cố gắng cá nhân và truyền
thống.
Nhờ truyền thống mà ta bớt nhiều thì giờ
mò mẫm tìm tòi.
... Có một điều lạ là học thuyết viễn đích
cũng bắt gặp tư tưởng Ấn giáo, Phật giáo hiện đại. Ta cứ đọc đoạn văn
của nhà tư tưởng lỗi lạc Ấn giáo là Shri Aurobindo sẽ thấy: «Con người
thường sống phiến diện, nhưng dưới hình tượng con người phiến diện ấy,
còn tiềm ẩn một con người nội tai sâu sắc đầy khả năng và uy thế, con
người nội tại ấy ngày nay cần phải đánh thức dậy.
Tuy ngày nay, ảnh hưởng con người nội tại
ấy chưa được phổ cập rộng rãi, nhưng con người ấy sẽ luôn luôn theo đuổi
chân thiện mỹ, tăng trưởng quyền uy trí tuệ và tiến tới thái hòa... Cỏ
cây và cầm thú đã thực hiện những chặng đường tiến hóa đầu tiên nhưng
không hay khôngbiết.
Con người ngày nay tiến hóa, và biết mình
tiến hóa.
Tuy nhiên sự tiến hóa ấy không thể thực
hiện được nguyên bằng lý trí và ý chí.
Lý trí chỉ tiến được tới một trình độ, một
tầm kích nào rồi trở nên luẩn quẩn.
Muốn tiến hóa thêm, con người cần phải
chuyển hóa nội tâmđể lý trí có thể biến thành một thực thể tinh vi cao khiết
hơn.»
Anilbarin Roy, đệ tử của Shri Aurobindo
quảng luận tư tưởng của sư phụ mình như sau:
«Con người có thể trở thành siêu nhân,
không phải vì đã biết cố gắng hay vì đã biết thiền định, mà khi đã hoàn
tất được công cuộc tiến hóa của đất trời.
«Cũng như con người đã từ con vật mà tiến
lên, siêu nhân từ con người mà tiến hóa tiếp.
«Chỉ khác là một đàng muông thú không biết
mình tiến hóa, mà đã tiến hóa vì tiềm thức đẩy đưa, còn con người đã có
ý niệm về mình, về bản thể của mình, nên có thể góp phần vào công cuộc
tiến hóa, thế tức là «minh tri tiến hóa».
«Chính vũ trụ giúp con người bước lên,
giúp con người tiến hóa. Tất cả những công trình suy tư về triết học, tu
luyện và đạo giáo trong quá vãng đều là những phương thế khác nhau để
chuẩn bị cho nòi giống bước lên cho tới giai đoạn tối hậu đó.
«Cái mà con người phải đóng góp, phải cung
cấp là sự tin tưởng vào những khả năng thần bí, vào quyền uy đang tung
hoành hoạt động ám ẩm sau con người, là sự chân thành rủ bỏ những thú
tính thấp hèn, làm cản trở không cho thiên ý hoàn thành công trình, và
là một sự ao ước hăng nồng, và bình sinh như nhất.»
II. – Hậu quả xã hội
nhân sinh
1) – Mỗi người phải cố
gắng không ngừng để tiến tới lý tưởng.
Mỗi người tùy khả năng mình, phải cố gắng
tiến tới lý tưởng nhân loại, thuần túy chí thiện mà theo tôi là Chúa Cơ
Đốc, không phải nguyên vì những mục đích vị kỷ cầu an, cầu phúc cho tâm
hồn, cầu trường sinh vì đã tham tán tài thành và công trình của Tạo hóa,
nhưng chính là để chuẩn bị cho một giống người siêu đẳng xuất sinh, đúng
như sự hứa hẹn của đại cuộc tiến hóa.
«Cho nên học thuyết này tạo ra cho mọi
người một giây liên lạc mới mẻ – một mình liên đới sâu xa, phổ quát,
vượt tầm hoạt động cá nhân, và quốc gia dân tộc.
2)- Phải dạy dân trọng
nghĩa thay vì trọng lợi. Phải cải tạo con người bên trong, thay vì cải
tạo hình thức bên ngoài.
- Mọi người đều góp phần vào công cuộc
tiến hóa chung: khi ấy mục đích cá nhân cũng là mục đích nhân loại, nhân
quần, nên sự cố gắng của mỗi người, không còn là sự hy sinh nữa mà là
một sự đóng góp.
Quyền lợi cá nhân, và quyền lợi nhân loại
chỉ có thể hòa hợp đoàn tụ trên bình diện tinh thần. Các nhà khoa học
xưa nay thất bại vì chỉ dạy con người vụ lợi lộc vật chất.
-
Các nền luân lý xã hội đã tỏ ra rất
thiển cận.
Chúng không đếm xỉa đến tâm lý con người
vô cùng phong phú, mà chỉ lo vá víu, chắp nối sửa sang những hệ thống
sẵn có, nêu cao các đảng phái, các tổ chức chính trị, vì thế nên trước
sau cũng đưa đến tranh chấp kinh tế và chiến tranh.
Tất cả những nền luân lý nhuốm màu sắc duy
vật đều chung một số phận như vậy.
Xưa nay có nhiều dân nước đã cố gắng cải
tạo con người bằng những chính thể, những tổ chức xã hội, những cải tổ
bên ngoài.
Dân Incas xưa đã có một tổ chức xã hội,
chính trị, đạo giáo vững chãi, tương tự như cộng sản nhưng chính thể ấy
đã không bền, vì đã bị những người Tây Ban Nha cuồng bạo, bất nhân, tham
vàng làm cho tan tành suy sụp.
Năm 1850, ở Hoa Kỳ, ông Robert Owen cũng
định cải tạo lại xã hội, bằng cách bãi bỏ tiền bạc, và tài sản, bằng
cách thực thi một chủ nghĩa cộng sản thuần túy. Ông lập ra một tỉnh mới
gọi là «Tân Hòa» (New Harmony). Sau ba năm, người trong tỉnh bắt đầu xâu
xé, chống đối, ghen ghét nhau và cuộc thí nghiệm đã đi đến thất bại hoàn
toàn.
Con người tóm lại không thể cải tạo được
bằng cách thay đổi chế độ tổ chức bên ngoài. Làm như vậy chẳng khác nào
một nhà hóa học tính chuyện thay đổi ve chai, để tạo ra những phản ứng
hóa học mới.
Nguồn gốc các tệ đoan, tội lệ ở ngay trong
thể chất con người.
Muốn diệt trừ những tệ đoan, tội lệ ấy
phải tìm cách thanh lọc, tiễu trừ thú tính còn lưu lại, vương vấn nơi
con người, và phải dạy con người trọng nhân phẩm, nhân cách.
Đó không phải là chuyện dễ, vì kẻ phàm phu
tục tử thừa biết muốn có nhân phẩm, sẽ phải hy sinh nhiều lạc thú, nên
họ cũng chẳng muốn có nhân cách nhân phẩm. Cũng như anh binh nhì từ chối
không muốn lên cấp tướng, vì nếu làm tướng, anh không còn được la cà
trong các cao lâu, tửu quán và theo đuổi tình nhân.
Các đạo giáo, vì đã biết rõ tâm lý con
người, nên đã phải bày ra địa ngục để cầm giữ con người; dầu vậy, cũng
vẫn chưa cải hóa được tâm hồn con người.
Vua Philippe nước Tây Ban Nha, một giáo
hữu sốt sắng lúc gần chết đã phàn nàn vì chưa đốt, giết được nhiều người
rối đạo và cho rằng có lẽ vì thế mà Ông gặp nhiều tai ách lúc cuối đời.
Nếu được phỏng vấn, không biết Chúa Cơ Đốc trả lời sao về điểm này!
3)- Con người cần phải
được hoàn toàn tự do.
Một hậu quả nhân sinh, xã hội khác là con
người cần phải được hoàn toàn tự do, tự chủ. Sự tự do là tiêu chuẩn tiến
hóa từ đơn bào cho tới con người.
Con người phát triển nhân cách là để tiến
tới khinh khoát tự do.
Tự do vừa là công cụ vừa là mục phiêu.
Tự do là mục phiêu, vì trước sau con người
cũng phải giải thoát mình khỏi mọi chi phối, kiềm tỏa của nhục dục xác
thân đó là quan điểm mà Phật giáo chủ trương tha thiết.
Tự do là công cụ, vì nếu không có tự do,
con người sẽ không được tự ý lựa chọn giữa đôi đàng thiện ác, sẽ không
thực sự đóng góp được vào công cuộc tiến hóa, và không thể cải thiện,
chuyển hóa nội tâm một cách sâu xa.
III.- Hậu quả luân lý,
thực hành.
1) Trở về với tinh hoa
Thiên Chúa Giáo, đồng thời tẩy trừ những tàn tích mê tín dị đoan đã xâm
nhập vào Thiên Chúa giáo.
Hậu quả quan trọng nhất có lẽ là phải trở
về với những tôn chỉ cơ bản với tinh hoa Thiên chúa giáo và phải tẩy trừ
những mê tín đã đột nhập thẩm thấu vào giáo lý công giáo và đang đe doạ
tương lai của đạo giáo.
Chúng ta đã nhận thấy Công giáo đã bắt
buộc phải chấp nhận một mớ dị đoan của ngoại giáo, một là vì những dị
đoan tà thuyết ấy đã thâm căn cố đế trong dân gian, hai là vì cần phải
thu hút tín đồ cho đông đảo.
Ta cũng không nên trách cứ Công giáo đã có
hành động ấy, nhất là vì những truyền thuyết, những lối thờ phụng sùng
bái hạ đẳng của dân gian tuy trên nguyên tắc lý tưởng thì đáng chê,
nhưng xét về mặt thực tế, thì lại chính là những bước đi chập chững,
những lời nói bập bẹ tỏ ra con người muốn vươn lên cho tới lý tưởng,
tinh hoa, và cũng là sự biểu dương, phát lộ thông thường của ý thức đạo
giáo, mỗi khi con người gặp chuyện không hay.
Thực vậy, con người có đau khổ, có băn
khoăn, có sợ hãi thì phẩm cách mới được hình thành, thì các nguyện ước
siêu nhiên mới có thể phát sinh. Cho nên nhiều khi đau khổ cũng sinh
được điều hay, nhiều khi mê tín, dị đoan cũng đáng quý, đáng trọng.
Tuy nhiên mê tín dị đoan, chỉ có thể quí,
có thể thương khi nó còn ngây thơ, ấu trĩ. Nhưng một khi mê tín dị đoan
không còn là tin, là mến, một khi nó toa rập với cuồng bạo và độc đoán
hà khắc, thì nó trở nên khủng khiếp.
Cuồng bạo và độc đoán hà khắc là hai loại
ung thư. Đạo giáo nào dung dưỡng chúng sẽ không còn hy vọng chinh phục
được lòng người.
Chúng chính là những cách thức hoành hành
của những dục tình hạ đẳng nơi con người, của kiêu căng, độc ác, giả
hình, oán hận khi được xã hội, mấu cớ để phát triển vô tội vạ.
Các giáo phái Thiên Chúa cũng đã lâm vào
những hoạ hoạn này.
Tây Ban Nha đã mục kích những cảnh tượng
hãi hùng do các tòa Hình án Công giáo gây nên.
Ở Mỹ Quốc Thệ phản, cũng đã có những tấn
bi sử ở Salem hồi cuối thế kỷ XVII. Năm 1692 ở đấy, có 17 người bị xử
giảo vì tội phù thủy pháp môn.
Giles Gorey một cụ già khả kính 81 tuổi
đầu, dẫu không nhận tội phù thủy cũng bị chèn, bị nén ngực cho đến khi
tắt thở.
Trong thời kỳ kinh khủng ấy, người ta hành
hình hơn 200 người và hai con chó. Tôi xin hỏi lại: «Chúa Cơ Đốc nghĩ
sao về vấn đề này ?»
Ở Anh cũng có những thảm trạng tương tự
xảy ra cho mãi tới năm 1739. Năm 1784 ở Thụy Sĩ người ta cũng còn thiêu
sinh phù thủy.
Người ta đã nhân danh Thiên Chúa, nhân
danh Thánh Kinh để giết hại nhau. Đã đành những chuyện đó xảy ra cách
đây từ hơn hai thế kỷ, đã đành cách giải thích Thánh Kinh ngày nay đã
đổi khác, nhưng sự cuồng bạo và sự độc đoán hà khắc đâu đã chịu mai một?
Một khi thấy rằng xưa, nguyên vì giải
thích Thánh Kinh khác nhau, người ta có thể đi tới chỗ chém giết hàng
trăm hàng ngàn mạng người vô tội, thì tại sao ngày nay chúng ta không
chịu giải thích Thánh Kinh cho lý sự, cho khoa học, tại sao chúng ta
không có lấy được một đạo giáo vừa trọng Phúc Âm, vừa trọng kiến thức để
mà đáp ứng với những rắc rối hiện tại?
Không nên nói rằng một người đạo đức chân
thành chỉ cần Phúc Âm, ngoài ra không cần sách vở nào khác.
Kinh nghiệm đã cho thấy có nhiều giáo hữu
đau lòng vì những mâu thuẫn tưởng tượng giữa tâm thần và lý trí họ, giữa
tín ngưỡng và khoa học.
2) Khoa học cần tiếp
tay đạo giáo.
Chúng ta cần khai quang giáo hóa họ.
Nhưng chúng ta nên thay đổi lối diễn đạt
tư tưởng, chúng ta nên lấy từ ngữ chính xác của khoa học thay vào từ ngữ
tượng hình của Thánh Kinh nay đã lỗi thời.
Chúng ta không thể không đếm xỉa đến khoa
học vì khoa học đã tiên tri, tiên đoán sự vận chuyển của tinh cầu, đã
chế ngự được nguyên tử, đã làm giảm bớt đau thương, đã cứu sống được vô
số nhân mạng, đã cho ta thấy thiên nhiên vô cùng phong phú, và đại cuộc
tiến hóa vô cùng hùng vĩ; hơn nữa khoa học thường không bị dục tình chi
phối, và thúc bách ta chấp nhận có Thượng Đế.
Toàn thể vũ trụ biến chuyển không ngừng.
Giáo hội đã phải công nhận sự biến thiên chuyển dịch đó, vì đã chấp nhận
học thuyết Copernic và học thuyết tiến hóa. Đến thế kỷ XIX, giáo hội
phải công nhận Thánh kinh không chính xác, nhất quyết mà vẫn có thể giải
thích Thánh kinh cho phù hợp với những sự kiện khoa học.
Vậy thì khuyến cáo con người lưu tâm đến
khoa học, đến tiến bộ, có gì là xung khắc với đạo giáo chính thống đâu?
Hạnh phúc thay, người có đức tin mạnh mẽ,
có lối sống theo đúng tôn chỉ Phúc Âm, và không bao giờ phải thắc mắc
xuyến xao trong tấc dạ.
Nhưng những người như thế nhiều không?
Chắc là không.
Thực vậy, nếu có nhiều người đạo hạnh chân
thành thuần túy lý tưởng như vậy, thì sao cuộc đời vẫn còn đầy thảm
kịch, tội ác, tranh chấp, ô trọc, đến nỗi người ta phải cố ngơ, cố quên
để khỏi thú nhận thất bại.
Trò đời thường đầy dẫy những cảnh não
lòng. Để tìm hiểu duyên do, ta chỉ có hai lập luận:
1) Một là tín ngưỡng, đạo giáo đã lan
tràn. Nếu vậy, thì đạo giáo chưa cải thiện được con người là bao lăm,
bằng chứng: đời còn đầy dở dang chếch mác, tội lệ, ô trọc, vì đạo không
phải ở chỗ năng đi lễ lạy, khấn vái, kinh kệ mà là ở chỗ sống theo lý
tưởng Công giáo.
2) Hai là tín ngưỡng, đạo giáo chưa được
bành trướng. Nếu vậy mặc dầu với một số giáo sĩ đông đảo, với một uy thế
hùng hậu của các giáo hội, các phương pháp giảng giáo đã không có hiệu
lực, các lời huấn dụ đã không mang lại kết quả, và như vậy tất nhiên
phải tìm những phương thức mới để thâm nhập vào tâm tình, lý trí con
người.
Không biết lập luận nào trên đây là đúng.
Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, không
thể nào tìm được lý do chống đối lại chủ trương dùng lý trí và thành quả
khoa học để phục vụ, để kiện toàn cho những ý niệm thiên phú, trực giác
cao siêu.
Chúng ta cần phải tạo nên một bầu không
khí thân thiện, chân thành cộng tác và phá bỏ mọi chướng ngại vật hư
huyễn giả tạo chia rẽ biết bao con người có thiện chí, làm tê liệt hết
cố gắng của họ, giữa lúc cần phải tiếp tay để xây dựng tương lai...
3) Muốn tiến hóa con
người cần phải cố gắng.
Ai cũng mong cho nhân loại cải thiện về
phương diện tinh thần, nhưng ít ai chịu khuyên con người cố gắng.
Người sùng đạo thì phó mình cho Chúa an
bài, người vô thần thì để mặc ngẫu nhiên đưa đẩy.
Người sùng đạo nhất định cấm chỉ mọi sự
xét suy, không cho cân nhắc, suy tư, đả động đến những vấn đề siêu nhiên
thiết yếu.
Người vô thần thì hoàn toàn tin tưởng vào
các giải pháp phiến diện xã hội bên ngoài, mà trước sau cũng sẽ đưa đến
độc tài, độc đoán; đến những tổ chức khuôn theo xã hội kiến ong.
Những người lừng chừng vô tín ngưỡng gồm
những trí thức cầu an, toạ hưởng kỳ thành, vì đã có học vấn, tài năng,
địa vị nên chẳng còn cần phải suy tư cho bận tâm trí. Họ ngạc nhiên khi
thấy người khác không bắt chước họ.
Họ cho rằng đạo giáo là mê tín lú lấp,
thường phát sinh trong lúc nguy cơ hoạn nạn hay thập tử, nhất sinh.
Nhưng họ có biết đâu rằng xưa nay đã có
nhiều nhà bác học trứ danh sống bình yên sung sướng mà vẫn tin đạo, mộ
đạo. Đó là một điều đáng cho ta suy nghĩ.
Đó là những Faraday, Maxwell, Ampère hoặc
Pasteur mà chắc là những nhà khoa học tầm thường không thể bén gót.
Có kẻ cho rằng các vị bác học ấy đã lỗi
thời. Khoa học ngày nay đã tiến bộ hơn nhiều. Tôi đã chứng minh trong
vòng hai mươi năm nay, khoa học chẳng những không tiếp tay nổi được chủ
nghĩa duy vật, mà còn làm cho chủ nghĩa này trở nên vô lý, mất nền tảng
khoa học.
Cho nên cuồng tín, hay vô thần đôi bên đều
mắc phải lỗi lầm chung là kiêu căng, đều phán đoán sai lầm khi không
muốn đếm xỉa hoặc chối bỏ một nửa con người, hoặc tâm thần hoặc lý
trí...
Có lẽ nào sự cố gắng, sức vươn lên đã bảo
vệ, đã tạo dựng nên công cuộc tiến hóa, lại ngừng nghỉ nơi con người.
Tại sao sự suy tư, một đặc điểm, đặc tính
của con người, lại phát sinh để rồi không được phát triển hoạt động.
Sự tranh chấp giữa các nguyện vọng siêu
nhiên với những thú tính hạ đẳng nơi con người đòi hỏi sự cộng tác của
tất cả các khả năng của óc chất tâm tư, đem lại cho sự cố gắng lý trí
tâm thần một giá trị đặc biệt mà không có bày đặt biên cương, hay hướng
chiều hoạt động.
Nếu tôi là linh mục, vì quá thán phục và
trọng kính công trình của Thượng Đế, tôi sẽ không dám phân biệt kỳ thị
những lối đường, hình thức mà tạo vật đã mượn, đã dùng để suy tư, quan
niệm; phải chăng đó cũng là chính ý của thánh Thomas?
Ai cũng phải công nhận rằng có sự ước muốn
cố gắng, ước muốn đấu tranh để tiến tới một địa vị cao hơn.
Như vậy ai cho ta quyền để đoán định rằng
chỉ có một con đường đưa tới chân lý và tất cả mọi cố gắng của lý trí là
vô ích mất công?
Ngăn chặn
hủy hoại cố gắng là một nguy hại lớn lao, vì cố gắng là căn bản cho mọi
công trình cao cả, cho mọi vẻ đẹp tươi, và giá trị con người...
CHÚ THÍCH
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 |
Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
|