LECOMTE DU NOÜY
VÀ
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 |
Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
PHẦN THỨ
HAI:
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
*
Học thuyết viễn đích của Lecomte du Noüy
sẽ được trình bày dưới 4 đề mục:
1– Phê bình và nhận định về khoa học.
2– Khảo luận về thuyết tiến hóa.
3– Chủ thuyết của Lecomte du Noüy: Viễn
đích luận.
4– Những nhận định của Lecomte du Noüy về
nhân tình thế thái theo nhãn quang viễn đích.
I.– Phần nhận xét về khoa học rất quan hệ
để xây dựng học thuyết của Ông, vì nếu ta chấp nhận học thuyết vạn năng,
và chỉ có khoa học mới đưa ta đến chân lý, thì ta không còn được quyền
chấp nhận một giáo thuyết, hay một triết thuyết nào khác. Thực vậy, chủ
trương khoa học đã quá rõ ràng:
Vạn sự, vạn vật do vật chất sinh, nhờ
những sự cấu kết giữa các vi tử, nguyên tử, phân tử (định luật hóa học),
biến chuyển, biến thiên vì tác dụng, phản ứng với ngoại giới, động tĩnh
bất thường (định luật lý học, cơ học). Mọi sự xảy ra là ngẫu nhiên, ngẫu
hứng (hasard), chứ không có thần quyền, thần lực nào điều động, an bài
hết.
Ngược lại, nếu ta chứng minh được rằng tuy
khoa học đem lại nhiều thành quả tốt đẹp về kỹ thuật về vật chất cho
nhân loại, nhưng khoa học còn thiếu sót rất nhiều, và những kiến văn,
kiến thức của con người còn như muối bỏ bể, trước một vũ trụ quần sinh
đầy bí ẩn, và vô cùng phong phú, thì những học thuyết mới mẻ để giải
thích vũ trụ vẫn hết sức cần thiết.
Bao giờ cũng như bao giờ, phải đả phá cái
lòng tự túc, tự mãn nơi con người, mới có thể mở mắt cho họ thấy những
chân trời mới được.
II.– Phần khảo luận về học thuyết tiến hóa
cũng rất quan trọng, vì Lecomte du Noüy đã dựa vào những dữ kiện khoa
học, cổ sinh vật học, địa chất học và các lý thuyết giải thích tiến hóa,
để xây dựng học thuyết của Ông. Nếu chúng ta không biết đầu đuôi, những
cái hay cái dở của thuyết này, thì không hiểu được học thuyết viễn đích
của Ông.
Thuyết viễn đích của Ông ví như một tòa
lâu đài, mà sự tiến hóa vũ trụ quần sinh là nền móng, con người hiện tại
là những tầng lớp đang được xây lên, mà con người hoàn hảo trong tương
lai xa thẳm là chóp nóc sẽ được thực hiện sau này. Tất cả đều được tạo
dựng xây cất theo hoạ đồ và sự điều khiển của Hóa công. Cho nên nếu ta
không trình bày thuyết tiến hóa, thì cũng như cho xem một vài phòng ốc,
khi lâu đài đã được xây cao, như vậy sẽ mất hết lý thú.
III.– Khi nắm vững được hai phần trên, thì
phần học thuyết của Lecomte du Noüy trở nên tự nhiên, ta có thể tự mình
suy ra được, cùng với các hậu quả đa đoan của nó.
Phần chủ thuyết của Lecomte du Noüy thực
ra rất giản dị, ông chỉ có ý minh chứng rằng cuộc đời biến ảo, không
phải là những bức tranh vân cẩu hợp tan vô ý, vô tình, thân phận con
người không phải là bình bồng hoa trôi bèo dạt, nhưng cuộc tiến hóa có
một mục đích thâm viễn; và con người ngày nay tuy còn lận đận, lao lung
trên những đoạn đường gian khổ, nhưng ngày sau con người sẽ tiến tới
tinh hoa, tiến tới hoàn thiện, nếu con người ý thức được sứ mạng, được
định mạng và được nhân phẩm, nhân cách cao siêu của mình.
Lecomte du Noüy trước sau chỉ muốn cho ta
nhận chân rằng từ hàng bao tỉ năm tới nay, vũ trụ và quần sinh tiến hóa
chỉ có mục đích là dọn đường đưa tới con người, và ngày nay con người
đang tiến hóa, biến thiên, nhưng không còn phải ở trên những bình diện
xác thân vật chất nữa, mà đã đổi hướng xoay chiều đi dần vào hướng lý
trí, tâm tình, để một ngày xa xăm nào đó trong tương lai, sẽ tiến tới
giai đoạn tâm linh, thần nhân, tối hậu.
IV. – Mỗi học thuyết đều đưa cho ta một vũ
trụ quan, một nhân sinh quan, và ít nhiều tiêu chuẩn để đoán định giá
trị.
Cho nên chúng ta cũng nên ghi lại một vài
cảm nghĩ của Lecomte du Noüy về đạo giáo, về thế thái nhân tình dưới
nhãn quan viễn đích, những cảm nghĩ này sẽ được toát lược nơi chương 4.
oOo
Chương 1
Phê bình và nhận
định về khoa học
Tiết 1
Giá trị
tương đối của khoa học
Theo Lecomte du Noüy, khoa học chỉ có giá
trị tương đối.
Khoa học dùng lý trí giác quan và dụng cụ
để tìm hiểu vũ trụ, để tiên tri tiên đoán.
Những hình ảnh, những ý niệm mà khoa học
có về vũ trụ, tuy được mọi người kiểm chứng và công nhận, nhưng chúng
vẫn không phải là những hình ảnh hoàn toàn chân xác của thực tại.
Vì sao ? Vì các sự kiện tuy được mệnh danh
là khoa học, không hoàn toàn khách quan và vẫn chứa đầy yếu tố nhân
loại. Nói cách khác nếu không có con người thâu thập nhận xét thì chẳng
làm gì có hiện tượng khoa học.
Hơn nữa những hình ảnh, mà nhờ giác quan,
ta có về thực tại, xưa kia tưởng là hay đúng, nay trở thành vu vơ lạc
lỏng, vì những dụng cụ, máy móc tối tân đã cho ta những hình ảnh khác
lạ, mới mẻ.
Một lưỡi dao bào, ta tưởng phẳng phiu,
nhưng soi vào kính hiển vi, ta thấy nó lởm chởm lồi lõm y như bờ bể xứ
Bretagne trên bản đồ.
Mặt bàn phẳng phiu nhẵn thín trước mắt
nhân loại, trở nên lổn nhổn như đàn ruồi dưới mắt kính hiển vi.
Tóm lại, mỗi khi ta đổi tầm nhìn lối xét,
thì thực tại bên ngoài lại một phen thay đổi bóng hình.
Trước ta tưởng vũ trụ liên tục, vật chất
liên tục, ánh sáng liên tục, năng lực liên tục, tới nay nhờ công trình
Max Planck, Louis de Broglie và Schrödinger, mới hay cái gì cũng gián
đoạn, cũng trở thành vi tử, vi trần, xa xôi cách trở chẳng liền nhau.
Ta tin tưởng rằng các hiện tượng liên tục,
và có mạch lạc nhịp nhàng, thứ tự hẳn hoi, nhưng nhìn sâu vào đáy lòng
vật chất, ta mới hay vi tử vi trần triển chuyển phản phúc, vô cùng tự do
thác loạn.
Ta tưởng đã biết hết vũ trụ, nhưng thực ra
chưa hiểu, chưa biết được là bao, bởi vì muốn hiểu vũ trụ, trước phải
tái tạo được vũ trụ. Như vậy, theo như lời Vico, chỉ có Ông Trời mới
hiểu thực biết, còn chúng ta nói đúng ra mới là chớm hiểu, chớm hay.
Cho nên khi đề cập đến những chân lý khoa
học, ta phải hiểu đó chỉ là những chân lý tương đối.
Không làm gì có chân lý khoa học tuyệt
đối. Nói rằng nhờ khoa học ta tới được chân lý tuyệt đối là một điều phi
lý.
Mục đích của khoa học là tìm hiểu.
Muốn tìm hiểu một hiện tượng phúc tạp, ta
theo phương châm của Descartes:
tháo gỡ
cắt chặt dần dần cho tới những hiện tượng đơn thuần, quen thuộc.
Nhưng những hiện tượng đơn thuần quen
thuộc mà chúng ta đã tháo gỡ, đã tìm ra được như «sức hấp dẫn», như «hấp
lực của tĩnh điện» thực ra đối với chúng ta cũng vẫn còn đầy nghi vấn,
đầy kỳ bí. Chúng ta biết chúng là biết vậy gọi là, y như những khách qua
đường đối với thanh thế người hành khất mù thường gặp bên cầu, có vậy
thôi.
Khoa học phân tách để đi tìm căn do, nhưng
câu chuyện đi tìm căn do thường nhiêu khê, khúc mắc.
Ta có thể phiêu lưu từ phạm vi này sang
phạm vi khác, càng đi càng bỡ ngỡ, càng phân tách càng làm vương, làm
đứt nhiều mạch lạc; cuối cùng ta quên đến cả lối về, không còn biết chủ
đích lúc ban sơ của mình là gì nữa.
Ví dụ một học giả muốn nghiên cứu về các
định luật chi phối xã hội loài người. Muốn cho cẩn thận, muốn hiểu quần
chúng cho thấu đáo, ông đi tìm hiểu tâm lý cá nhân, và như vậy đã mặc
nhiên bước vào một lãnh vực mới. Nhưng ông thấy muốn hiểu tâm lý, cần
phải học về cơ thể con người, học về sinh lý, ông quay ra nghiên cứu cơ
thể con người. Bước sang phạm vi mới này, ông lại gặp nhiều thắc mắc và
cảm thấy cần phải học hỏi về hóa học sinh vật, hóa học hữu cơ, và cứ thế
dần dà khảo sát đến những vi tử, vi trần đến những, yếu tố cơ bản của
vật chất là dương điện tử, âm điện tử, trung hòa tử v.v...
Nhưng đã đến bước này rồi thì y như gương
vỡ bình tan, không còn biết chắp nối hàn gắn làm sao cho nên trạng thái
cũ.
Nhìn vào
các phân tử điện tử không còn thấy chút bóng dáng nào của những vấn đề
chính trị xã hội, hay tâm lý quần chúng mà ông định tìm hiểu lúc ban
đầu.
Và chúng ta cũng không trực tiếp quan sát
được điện tử, chúng ta chỉ phỏng đoán sự hiện diện của chúng trong những
phòng thí nghiệm tối tân của Wilson, của Crookes, của Millikan, trong
khi chúng va chạm gặp gỡ các phân tử dầu, nước hay huỳnh quang, hoặc qua
trung gian những luồng năng lực chúng phát tiết ra.
Thành thử, điện tử không phải là một khám
phá trực tiếp của kinh nghiệm mà chính là thành quả do lý trí cấu tạo
nên, dựa vào những ảnh hưởng, những tác dụng được kiểm nhận.
Thế là, ở bình diện điện tử, vi tử, sự
hiểu biết của con người đối với vũ trụ hoàn toàn chủ quan.
Cho nên có thể nói được rằng, vũ trụ hữu
hình này sở dĩ có, là do con người, do giác quan, trí óc, tâm hồn con
người tạo ra. Thực vậy, bất kỳ hiện tượng nào trong vũ trụ, cũng phải có
sự đóng góp của giác quan, của tâm trí ta, mới thành hình.
Cái thế giới đầy kỳ bí, đầy nghi vấn mà lý
trí, tâm thần ta tạo dựng nên, từ những yếu tố do tấm gương méo mó không
chính xác của ngũ quan ta cung cấp, cái thế giới nhân tạo ấy chẳng rõ nó
có đáp ứng phù hợp thế nào với thế giới vô thanh, vô xú, với thế giới
chân thực, khách quan.
Chỉ biết rằng, khi tâm thần ta tiếp xúc
gặp gỡ thế giới ấy, tức thời phát sinh ra cả một vũ trụ huy hoàng.
Ta có thể
mượn lời thơ của Rostand mà nói lên rằng:
«Tâm ta hỡi, tâm thần
ta hỡi,
Nhờ có ngươi, mà
cảnh vật mới như nay.»
Chúng ta sống toàn với ảo giác, ảo tưởng.
Nếu ảo giác, ảo tưởng ấy tồn tại và được mọi người công nhận, chúng sẽ
trở thành thực tế. Khoa học vì có công thống nhất các ảo tưởng ấy cũng
trở thành khoa học thực tế luôn.
Suy cho cùng, thì cái biết của khoa học
rất tương đối, nông cạn.
Chúng ta thực sự chẳng hiểu rõ vũ trụ đã
sinh ra như thế nào, vạn vật đã tiến hóa ra sao, ta cũng chẳng hiểu vật
chất là gì, cũng chẳng rõ cách thức nảy mầm, nảy mộng của một hạt giống
đã diễn biến ra sao.
...Khoa học ngày nay đang sa lầy trước
muôn vàn nghi vấn. Muốn hiểu biết chính xác về vũ trụ, hiện nay chúng ta
cần phải có những nhà bác học vừa biết quan sát, biết thí nghiệm, vừa
biết quán xuyến các bộ môn khoa học, toán học, sinh lý học, triết học;
chúng ta cần có những con người vừa học thức uyên thâm, vừa thông minh,
thành khẩn, vừa giàu tưởng tượng, để tháo gỡ những mâu thuẫn khoa học
hiện đang mắc phải.
Học rộng biết nhiều, mà lòng vẫn tự do
khinh khoát, như vậy mới tạo lập được giả thuyết.
Mà lập giả thuyết, tức là cố gắng tìm ra
mạch lạc, nghĩa lý của đất trời.
Tiết 2
Những thất bại
của khoa học
A)- Ngẫu nhiên không
giải thích được sự xuất hiện của sự sống. - Chứng minh toán học.
Sau khi chứng minh khoa học chỉ có giá trị
tương đối, Lecomte du Noüy đề cập tới một vấn đề hết sức quan trọng là
sự xuất hiện của sự sống.
Ông dùng toán xác suất chứng minh ngẫu
nhiên không thể nào sinh ra được sinh cơ, sinh vật. Ta nên nhớ các nhà
khoa học duy vật chối bỏ Thượng Đế, và cho rằng:
a)- Trong vũ trụ chỉ nguyên có vật chất;
b)- Định luật vật chất chi phối vũ trụ;
c)- Còn sinh cơ, sinh vật thì ngẫu nhiên
mà sinh hóa, không có thánh thần nào tạo dựng cả; vũ trụ y như là một
sòng bạc lớn lao, và trong suốt thời gian vô tận, cái may gì cũng có thể
xẩy ra.
Lecomte du Noüy dựa vào toán xác xuất mà
trả lời:
Đã đành với thời gian cái gì cũng có thể
xảy ra, nhưng chúng ta không nên hàm hồ. Thời gian vũ trụ không phải vô
cùng tận, mà chúng ta đã đoán được giới hạn, cũng như khối lượng của vũ
trụ không phải vô cùng, mà nay ta đã ước lượng được khoảng bao nhiêu.
[28]
Chúng ta biết: vũ trụ mới có khoảng 1011
(trăm tỉ) năm.
Mặt trời mới có khoảng 5.109
năm nay hoặc 1010 năm nay (năm hoặc mười tỉ năm)
Lịch sử trái đất mới có khoảng chừng 2.109
năm (hai tỉ năm).
Nhưng theo toán xác suất, thì với khối
lượng vật chất của trái đất như nay, cái may để sinh ra một phân tử
protéin giản dị hết sức (ví dụ có phân tử lượng là 20.000, có một số
nguyên tử là 2.000) chỉ có thể xảy ra một lần trong mỗi 10243
tỉ năm.
[29] Cái may sinh ra được một tế bào sống chỉ có thể xảy
ra một lần trong 10 2.000.000.000.000 lần.
[30]
Đó là những con số vượt quá sức tưởng
tượng của loài người vạn vạn triệu triệu lần, nếu ta nhớ rằng tất cả vi
trần trong vũ trụ mới đạt được con số:
2
x 1079 theo Eddington.
[31]
và lịch sử thề giới này mới có là
2
x 109 năm
hoặc 2 x 1017 giây đồng hồ.
[32]
Muốn hình dung những con số khủng khiếp
ấy, tưởng ta nên nhớ câu chuyện thượng thư Sissa Ben Dahir bày ra phép
chơi cờ tướng dâng vua Ấn Độ. Nhà vua muốn thưởng công. Ông thượng Dahir
chỉ xin ô đầu một hạt thóc, ô hai 2 hạt, ô ba 4 hạt, cứ thế gấp đôi lên
cho đủ 64 ô cờ vua. Vua thấy dễ quá nhưng đến lúc tính ra thì thấy tất
cả là 18.446.744.073.709.551.615 hạt thóc và nếu một hộc lúa có
5.000.000 hạt lúa, thì vua phải thưởng cho ông 4.000 tỉ hộc lúa, tức là
một số lúa mì mà cả thế giới sản xuất 2.000 năm, với một mức sản xuất
hàng năm là 2 triệu hộc lúa
[33] mà con số lúa này viết theo lối lũy thừa chỉ có là
264–1, nhỏ nhoi không nghĩa lý gì đối với những con số khổng lồ trên.
Vậy thì chủ trương rằng vũ trụ ngẫu nhiên
sinh ra được một tế bào sống đại loại nó cũng hữu lý và đáng tin như câu
chuyện giả tưởng «khỉ đánh máy» sau đây của nhà bác học Borel.
«Ví dụ có một triệu con khỉ đánh bừa bịt
trên một triệu máy chữ mười giờ mỗi ngày, ròng rã một năm trường.
Những người coi khỉ, hoàn toàn mù chữ, chỉ
có việc thu những trang đánh máy ấy lại rồi đóng thành tập. Một năm sau,
dở ra coi, thì thấy những tập «khỉ đánh» ấy lại là những bản sao chính
xác của các loại sách, thuộc mọi thứ tiếng, hiện được tàng trữ trong
những thư viện lớn nhất hoàn cầu.
Nếu ta tin được câu chuyện khỉ đánh máy
«hú hoạ» mà thành đủ loại văn chương thi phú như trên, thì ta mới có thể
tin được câu chuyện tế bào sinh vật tự nhiên mà có.
B- Các định luật lý-hóa
vật chất không đủ để giải thích các hiện tượng sinh lý.
I.- Nguyên lý: dương
tiêu âm trưởng của Carnot không giải thích được các hiện tượng sinh lý.
Các nhà khoa học duy vật cho rằng toàn thể
vũ trụ được chi phối bởi nguyên lý Carnot.
Theo
nguyên lý này thì hoạt lực càng ngày càng tiêu hao, cho nên vạn vật chỉ
có thể tiến theo một chiều duy nhất là từ thịnh đến suy, từ động đến
tĩnh, từ nóng đến lạnh.
Nguyên lý Carnot rất quan hệ trong khoa
học, tưởng nên quảng diễn thêm.
Chúng ta tự hỏi vật chất tiến hóa có tuân
theo một định tắc nào không? Chúng biến thiên có theo chiều hướng nào
không? Có tìm ra được mạch lạc giữa các hiện tượng biến hóa liên tiếp
không? Nói cách khác, có chìa khóa nào giúp ta dựa vào sự khảo sát dĩ
vãng mà mở được cửa tương lai không?
Thưa có:
Đó là nguyên lý thứ II về nhiệt lực học
của Carnot Clausius.
Nguyên lý
này đại khái như sau:
Năng lực chỉ có thể tác dụng khi biến động
tức là khi gặp một sự chênh lệch (gây nên bởi địa thế, nồng độ, mật độ,
nhiệt độ v.v...)
Nói cách khác, muốn biến thiên chuyển
dịch, cần mất thế thăng bằng, cần sự chênh lệch.
Càng mất thăng bằng càng chênh lệch, càng
biến thiên, càng tác động mạnh. Một động lực khi đã biến thiên tác dụng,
không thể tự nhiên mà phục hồi được phong thái nguyên thủy.
Nó chỉ có thể tiêu hao, suy giảm dần trong
khi đối tượng nó là hư lực ngày một tăng.
Ta có thể so sánh nguyên lý
Carnot–Clausius
với
nguyên lý Dịch kinh: «Dương tiêu, âm trưởng.»
Nguyên lý này cũng làm cho ta liên tưởng
đến hình ảnh sông Hoàng Hà qua những lời thơ của Lý Thái Bạch:
Quân bất kiến Hoàng Hà chi
thủy thiên thượng lai,
Bôn lưu đảo hải bất phục
hồi...
Anh chẳng thấy Hoàng Hà
nước nọ,
Tự trên trời chảy đổ ra
khơi.
Ra khơi thôi thế là
thôi,
Về nguồn trở lại có đời
nào đâu.
(Trần Trọng Kim, Đường
thi, trang 97)
Nguyên lý Carnot chi phối cuộc tiến hóa
vật chất và cho thấy rằng hoạt lực trong vũ trụ ngày một suy giảm tiêu
hao, và cuộc biến thiên là một sự kiện dĩ nhiên của trời đất.
Nhờ nguyên lý này, mà sự tiến hóa trước
kia là một khái niệm trực giác, nay không còn tính cách triết học và suy
cứu nữa, mà trở thành một định lý cơ bản phổ quát xây nền đắp tảng cho
tất cả khoa học về vật chất của chúng ta.
Theo nguyên lý này, thì vạn vật hữu hình
biến thiên, dần dà sẽ đi đến suy vong, đốn mạt vì động lực, hoạt lực
ngày một tiêu, tĩnh lực, hư lực ngày một tăng.
Vũ trụ có ngày sẽ tận số, khi sức cùng lực
kiệt và sẽ tận số trong tĩnh mịch, lạnh lẽo tuyệt đối.
Boltzmann dựa vào toán xác suất suy thêm
rằng: Như vậy thì sự tiến hóa càng ngày càng đi đến những trạng thái
lưng chừng dễ biết dễ đoán.
Mới đầu, khi sung túc thì hung hăng muôn
vẻ.
Sau dần dà khi đã suy vi, thì phờ phạc, ù
lì, đồng phân, đồng lực, và ngừng nghỉ trong lạnh lẽo.
Nhờ nguyên lý II về nhiệt lực ta có bằng
chứng là thế giới vô cơ, thế giới vật chất đã có khởi điểm, và sẽ tiếp
tục tiến hóa một cách có mạch lạc và có chiều hướng nhất định, từ động
đến tĩnh, từ phiền tạp đến đơn giản, từ cao tới thấp, từ nóng tới lạnh.
Tuy nhiên, ta không thể nói như các nhà
duy vật được rằng, trong trời đất chỉ có một cách tiến hóa này, bằng
chứng là:
1)- Trong thế giới vi tử, vi trần, các
chuyển vận đều phản phúc, bất định.
2)- Thế giới sinh linh có thịnh có suy như
ta sẽ chứng minh, chứ không phải luôn suy vi như định lý Carnot đã tiên
đoán.
Cứ theo nguyên lý Carnot, thì không thể
nào ngờ được rằng trong vũ trụ vật chất lại có thể có sinh linh phát
hiện.
Không thể nói được rằng vũ trụ vật chất là
chính yếu, vĩnh cửu, còn vũ trụ sinh linh là biến động, bất kỳ, nhất
thời, nhất đán, bởi vì nếu là biến động bất kỳ sao lại cứ xảy ra liên
tục mạch lạc cho tới ngày nay.
Ngược lại, ta có thể chủ trương vũ trụ vật
chất chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho vũ trụ sinh linh.
Sự tiến hóa vật chất chỉ là giai đoạn mở
màn, mà cuộc tiến hóa sinh linh mới là chính yếu.
Dẫu sao sinh linh cũng đã phát hiện, đã
tiến hóa, mà lại tiến hóa theo một chiều hướng ngược hẳn với vật chất vì
ngày một thêm tân kỳ, khó lường khó đoán, ngày một thêm phong phú linh
động; chứ không đi đến chỗ ù lì, suy đốn như nguyên lý Carnot đã đoán
định.
Khảo sát các tế bào sống ta thấy chúng
không trần trần một chiều, một hướng, mà sinh hoạt có chu kỳ, lúc suy
lúc thịnh, vừa lệ thuộc thời gian vì có sống có chết, vừa thoát vòng
cương tỏa thời gian vì có con cháu nối dòng.
Rồi đến
sinh linh thì thời gian đã cho thấy biết bao là biến ảo thần kỳ...
II- Toán xác suất của
Gibbs-Boltzmann không áp dụng được vào phạm vi sinh lý
Trước hết, nên nhắc lại toán xác suất
(calcul de probabilité) đã được áp dụng rất sâu rộng trong khoa học để
tìm ra các định luật vật chất chi phối đa số.
Toán xác suất cốt là để tiên tri, tiên
đoán những hiện tượng bất ý, bất kỳ có thể xảy ra trong quần sinh, quần
vật.
Toán xác suất:
-
Chỉ cần biết đại đa số không cần
biết cá nhân.
-
Coi mọi sự mọi vật như những con
số; không hơn không kém.
Toán xác suất chủ trương:
-
Mọi sự đều loạn động, vô ý, vô
tình.
-
Bất kỳ cái gì cũng có thể xảy ra,
chỉ là chuyện dễ với khó, hoạ hiếm hay thông thường có vậy thôi.
Theo Boltzmann, thì kết quả của toán xác
suất cũng tương đương như kết quả của định luật Carnot. Cả hai đều cho
thấy vũ trụ biến thiên theo một chiều hướng:
-
Từ nan tri, nan trắc đến dị tri, dị
đoán, từ kỳ dị đến thông thường.
-
Từ những cơ cấu chênh lệch bất đối
xứng, đến những cơ cấu đồng đều, đối xứng.
- Từ linh động đến ù lì v.v...
Nhưng, khảo về sinh cơ, sinh vật, ta thấy
toán xác suất không áp dụng vào phạm vi sinh lý được.
Lý do:
1)- Sinh cơ càng ngày càng trở nên phong
phú, linh động bất đối xứng, ngược lại với chủ trương của toán xác suất.
2)- Muốn áp dụng toán xác suất hay phương
pháp thống kê, cần phải có những yếu tố tương đương, đồng nhất. Đàng
này, tế bào nào cũng gồm nhiều yếu tố khác nhau, nào nhân, nào nhiễm
sắc, nào tế bào chất v.v...
3)- Toán xác suất chỉ áp dụng cho đại đa
số, những con số khổng lồ; nhưng ở nơi sinh cơ, thiểu số lại trở nên
quan hệ:
Mỗi di tử (gènes) chỉ nhỏ bằng lối 0,01
micron cube và chỉ mang trong mình dăm ba đại phân tử protéin, cũng đủ
gây ảnh hưởng lớn lao đến giống nòi. Chính vì thế mà toán xác suất mất
hết linh nghiệm.
4)- Toán xác suất không ứng dụng cho sinh
cơ, vì tế bào sinh cơ tuy phức tạp nhưng có mạch lạc tổ chức, chứ không
loạn động như một hỗn hợp không khí.
5)- Một lý do khác làm cho khoa thống kê
Gibbs-Boltzmann không hoàn toàn áp dụng được vào sinh cơ, sinh vật, là
vì xác suất không được đếm xỉa đến giá trị cá nhân, cá thể và coi tất cả
đều là những con số như nhau, cá mè một lứa như nhau, nhưng khi ta quan
sát cuộc tiến hóa sinh linh, ta đã thấy cá vật, cá nhân đóng vai trò rất
quan hệ là hướng dẫn cuộc tiến hóa.
Tóm lại, toán thống kê của
Gibbs-Boltzmann, ứng dụng rất hay cho trường hợp những hột, những hạt,
những tử
vật,
có thể
tiên đoán được số nhà cháy trong năm,
ước lượng
được số lãi lời của những người có cổ phần hùn vốn vào các công ty bảo
hiểm,
nhưng
không áp dụng được vào các hiện tượng sinh lý.
Cũng như nó đã không áp dụng được vào thế
giới của «hoạt lực phân tử», hay thế giới của điện tử, giang sơn hoạt
động của các loại thống kê mới như:
Thống kê Bose-Einstein
Thống kê Pauli-Fermi
III. - Các định luật lý
hóa không đủ để giải thích các hiện tượng sinh lý.
Khảo sát tế bào ta thấy có thịnh, suy,
sinh, tử,
có trả có
vay với hoàn cảnh; thiên biến vạn hóa
càng ngày
càng thêm phong phú, bất đối xứng,
và nhất
là có thể phân thân, có thể sinh hóa ra được những con cháu đại loại như
mình.
Những
hiện tượng ấy thường đi ngược lại với những dự đoán khoa học.
Định luật nhiệt lực dẫu cắt nghĩa được sự
xuất tinh của tế bào, nhưng không giải thích được sự xuất hiện của nhân
tế bào, và những đặc tính sinh hóa của tế bào.
-
Cuộc sống thăng trầm suy thịnh của
tế bào không phải chỉ lệ thuộc vào định luật Van’t Hoff, nói cách khác,
không phải chỉ tùy thuộc ở thời tiết bên ngoài.
-
Tế bào sống biết vay trả đối với
hoàn cảnh, biết ăn uống biến hóa.
-
Chúng hấp thụ ngoại chất, phân hóa
ngoại chất bằng nhiều loại đi-át (phân hóa tố), hay men.
-
Biến hóa được ngoại chất thành sinh
chất, sinh cơ thành những phân tử protéin để tải bồi cho cơ thể.
-
Nó chế hóa được nhiều chất rất phức
tạp như diệp lục tố.
-
Có lắm tế bào vi trùng lại sản xuất
được những chất độc tố ghê hồn.
-
Có tế bào, lúc sống có một điện trở
rất cao, nhưng chết đi là hết.
-
Có tế bào thì sống dai hết sức. Dẫu
làm cho khô queo rồi chết cóng ở 2700 dưới 00
chúng vẫn có thể sống lại, nếu được sưởi ấm và cho vào nước.
-
Có lắm tế bào vi trùng lại rất linh
động như loại spirochète.
-
Tất cả những sự kiện trên cho thấy
tế bào sống khác hẳn với:
-
Những tinh thể vật chất.
-
Những tế bào nhân tạo của Leduc.
Vì nơi tế bào nhân tạo, cũng như tinh thể
vật chất chỉ thấy những hiện tượng tập hợp hay ly tan chứ không hề thấy
những hiện tượng biến hóa.
Tóm lại, bao lâu tế bào còn sống, thì
những định luật vật chất, định luật lý hóa áp dụng, nhưng chỉ áp dụng
được một phần nào. Một khi tế bào trở về cõi chết, nó mới hoàn toàn bị
chi phối bởi các định luật vật chất, lý hóa.
Đằng khác, đứng về phương diện hóa học, sự
tổ hợp vật chất không thể cắt nghĩa được sự sống.
Không thể nói như ông Langevin rằng tới
một trình độ tổ chức phiền tạp nào đó, sự sống sẽ phát sinh.
Thực ra không phải tổ hợp, tổ chức phức
tạp, nhưng mà chính là những tổ chức vừa phức tạp, vừa có hệ thống mạch
lạc, tiết tấu, điều hòa mới phát sinh được các đặc tính của tế bào.
Lời giải thích của Ông Langevin cũng đại
loại như những lời giải thích suông của người xưa: «Nha phiến làm cho
ngủ vì nha phiến có hiệu lực làm cho ngủ.»
Lời giải thích của Langevin cũng tương tự
như lời giải thích của lý thuyết «đột khởi», «đột hiện». Lý thuyết này
chủ trương rằng sự sống hay tư tưởng là những đặc tính đột khởi, đột
hiện từ những tổ hợp vật chất.
Nếu người ta chấp nhận sự đột khởi, đột
hiện, thì người ta không thể bình bác. Sáng chế ký hay các lời giải
thích của đạo giáo bằng những lý cứ được nữa, mà toàn vì lý do tình cảm
mà thôi.
Thế tức là các nguyên lý, các định luật lý
hóa không giải thích được sự xuất hiện cũng như hoạt động của sinh cơ
sinh vật.
Khoa thống kê áp dụng cho vật chất, cho tử
vật không hoàn toàn áp dụng được với sinh linh.
Các định luật vật chất không hoàn toàn chi
phối được sinh linh, sinh lý. Thế nghĩa là gì? Chẳng lẽ vũ trụ không
nhất nguyên duy vật mà lại nhị nguyên sao?
Có thể nhị nguyên nhị lý là một biểu hiện
sự hèn kém của trí não ta, mà cũng có thể nhất nguyên là một huyền
thoại. Cho đến nay, chúng ta chưa có những chứng cứ hẳn hoi để quyết
đoán một cách khoa học.
Tiết 3
Chấp nhận
Thượng Đế là một thái độ khoa học
Sau khi cân nhắc kỹ càng và thấy khoa học
đã thất bại không chứng minh được là vật chất đã sinh tinh thần, ngẫu
nhiên đã sinh ra được sự sống, Lecomte du Noüy cho rằng chấp nhận «phản
ngẫu nhiên», hay Thượng Đế là một thái độ hết sức khoa học, để giải
thích sự phát minh và tiến hóa của sinh linh.
Lecomte du Noüy ngao ngán khi thấy đứng
trước hai giả thuyết cùng không thể chứng minh: một giả thuyết có thể
cắt nghĩa được hết nhưng lại không theo đường lối khoa học, một giả
thuyết không thể cắt nghĩa được gì, mà có ít nhiều nhà bác học vẫn chọn
giả thuyết thứ hai.
oOo
TỔNG KẾT
Tóm lại khoa học cho chúng ta những kiến
thức hữu hạn về quan hệ, mạch lạc giữa ít nhiều cơ cấu bên ngoài.
Ta biết được, là nhờ những phản ứng giác
quan khi đối cảnh.
Nhưng ta không biết bản thể, bản tính của
những cơ cấu ấy. Ta chỉ hình dung mường tượng chúng qua trung gian những
phản ứng sinh lý chủ quan.
Ta chưa minh định được sự cách biệt giữa
sống chết, giải thích được khởi nguyên của sự sống, thấu đáo được then
chốt biến hóa.
Cách đây năm mươi năm, ta tưởng chỉ cần
một khoảng thời gian ngắn nữa là có thể giải thích được mọi nghi vấn,
ngày nay ta tiến bộ hơn vì đã biết thú nhận sự dốt nát: ta biết ta còn
chưa biết, chưa thông.
Khoa học chưa gạt bỏ nổi giả thuyết Thượng
Đế.
Thành khẩn mà nói, chẳng những chúng ta
vẫn phải cuộc có Trời như Pascal, ma chúng ta còn có nhiều biện chứng,
nhiểu lý cứ hơn để mà cuộc có Trời.
Khoa học tiến bộ nhiều. Nhưng khoa học
ngày nay đã được xây dựng trên thi hài vô số lý thuyết lỗi thời, vô số
ảo ảnh, nên mỗi khi muốn nhân khoa học mà suy đoán ra những quan điểm
triết học nhân sinh, ta phải hết sức thận trọng.
Nếu ta chấp nhận khoa vật lý tân tiến hiện
tại, ta không thể nào còn coi đời như một máy móc; và ngay chữ duy vật
cũng đã đổi nghĩa vì điện tử, nền tảng vật chất, lại không có khối lượng
vật chất khi ở thế tĩnh lãng bất động.
Về phương diện nhân sinh, khoa học thực sự
đã đem lại rất nhiều tiện nghi mới mẻ cho đời sống.
Nhưng khoa học không cải thiện được đời
sống tâm thần con người.
Trái lại văn minh vật chất kỹ thuật đã
sinh ra những nếp sống giả tạo, phù phiếm, hoàn toàn lệ thuộc ngoại
cảnh.
Hơn thế nữa, các tiến bộ khoa học còn bị
các chính thể độc tài khai thác lợi dụng, để chế phục và nô lệ hóa con
người.
Trước những lầm lỗi của quá vãng, và viễn
tượng không mấy tốt đẹp về tương lai, ngày nay chúng ta không nên mảng
lo tăng thêm mãi tiện nghi cho đời sống, mà hãy lo chống đỡ cho ngôi nhà
hương hỏa đang định sập đổ.
Chúng ta
cần hướng về tương lai để đào tạo nên một lớp thanh niên mới, giầu ý
tưởng, không bị những chủ nghĩa giả dối lường gạt, một lớp thanh niên
hùng mạnh vì đã hấp thụ được một nền khoa học tinh thuần, biết tôn trọng
thiên chức và bảo tồn được ngọn đuốc thiêng đang bị đe doạ, để trao lại
cho những thế hệ sau ngọn đuốc thiêng ấy.
CHÚ THÍCH
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 |
Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
|