LECOMTE DU NOÜY
VÀ
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
PHẦN THỨ
NHẤT:
THỜI ĐẠI, THÂN
THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
TƯ TƯỞNG
LECOMTE DU NOÜY
*
Chương
4
Lược khảo văn phẩm
và tư tưởng Lecomte du Noüy
Tiết 1
Lược khảo văn phẩm
Lecomte du Noüy
Như đã nói trên, từ năm 1939 đến 1946,
Lecomte du Noüy đã cho xuất bản 4 cuốn sách:
1.- Con người trước khoa học.
2.- Tương lai tinh thần.
3.- Phẩm giá con người.
4.- Định mệnh con người.
I.- Đại ý quyển «Con
người trước khoa học»
Trong quyển «Con người trước khoa học»,
Ông cân nhắc giá trị khoa học và phê bình khoa học.
Theo ông khoa học không vạn linh, vạn ứng
mà chỉ có giá trị tương đối thực tiễn.
Khoa học tương đối, bất kỳ xét về phương
diện nào:
- Tương đối về phương diện đối tượng
- Tương đối về phương diện khảo cứu.
- Tương đối về nguyên lý, lý thuyết.
Ông dùng toán xác suất chứng minh rằng
sinh cơ, sinh vật không thể ngẫu nhiên phát hiện được.
Ông chủ trương khoa học không sao gạt bỏ
được “phản ngẫu nhiên”, được Thượng Đế.
II.- Đại ý quyển «Tương
lai tinh thần»
Trong quyển «Tương lai tinh thần», Ông mới
thực sự xây dựng học thuyết viễn đích.
Dựa vào cuộc tiến hóa của vũ trụ quần sinh
Ông cho rằng con người cũng là một mắt xích trong chuỗi sinh vật tiến
hóa. Sự tiến hóa hiện nay chưa ngừng nghỉ, nhưng đã đổi chiều để đi vào
hướng tâm thần.
Sự tiến hóa còn sẽ tiếp tục lâu dài và sẽ
đào tạo nên một giống người siêu đẳng thuần túy, chí thiện trong một
tương lai hãy còn xa lắc. Đó là viễn đích của cuộc tiến hóa của vũ trụ
và quần sinh.
Tất cả công cuộc tiến hóa đã được hướng
dẫn đẩy đưa bởi Thượng Đế một cách hết sức nhẹ nhàng tế nhị, tinh vi, ẩn
áo để một ngày kia nhân loại sẽ đạt đích tiến hóa, sẽ thực hiện được
định mệnh cao siêu sang cả của mình, là trở thành những mẫu người hoàn
thiện, những thần nhân.
Sự tiến hóa của con người trên bình diện
tinh thần được cụ thể hóa bằng những tư tưởng trừu tượng, những cử chỉ,
hoạt động không vì sinh nhai, sinh kế: như phong tục, nghệ thuật, đạo
giáo.
Ông cho rằng:
Từ ngữ, văn minh, nghệ thuật, đạo giáo là
những công cụ tiến hóa.
Còn
- Tự do
-
Nỗ lực
-
Nhân phẩm
-
Lý tưởng là những động cơ thúc đẩy
tiến hóa.
Con người có cố gắng, có được tự do, có
tiến hóa theo chiều hướng tinh thần, có rũ bỏ được lốt thú, có tìm ra
được cốt thần, thì mới mong thực hiện được định mệnh cao sang và nhân
phẩm của mình.
III.- Đại ý quyển «Phẩm
giá con người»
Trong quyển «Phẩm giá con người», Ông đề
cao phẩm giá cá nhân, chống lại với mọi sự đè nén áp bức của các tổ chức
xã hội.
Ông cho rằng, trong tương lai, cần phải
bãi bỏ những tổ chức, những đoàn thể, những chính thể phi nhân phi lý,
để con người được tự do phát triển.
Ông cũng chủ trương rằng mọi ý niệm đứng
đắn về Thượng Đế chẳng những không làm giảm giá trị con người, mà còn đề
cao phẩm giá con người, vì cho thấy chính Thượng Đế đã muốn cho con
người được tự do, tự chủ, khí phách hiên ngang để thực hiện định mệnh
cao sang của con người.
IV.- Đại ý quyển «Định
mệnh con người»
Quyển «Định mệnh con người» toát lược lại
cả 3 cuốn sách trên và chủ trương.
1/ Giá trị tương đối của khoa học.
2/ Sự cần thiết phải chấp nhận có Thượng
Đế
3/ Cuộc tiến hóa quần sinh có một viễn
đích là thực hiện những thần nhân trong một tương lai còn xa thẳm.
4/ Đó là định mệnh cao siêu của con người.
5/ Muốn đạt mục phiêu ấy con người phải
được tự do, phải được giáo hóa, phải cố gắng không ngừng.
6/ Đạo giáo phải bắt tay với khoa học để
phục vụ con người.
7/ Các tổ chức xã hội và các nền văn minh
phải phục vụ con người.
8/ Tóm lại, con người phải làm bừng cháy
tàn lửa thiên chân tiềm ẩn đáy lòng và nỗ lực không ngừng cải thiện mình
để tiến tới chí thành chí thiện.
Mỗi cuốn sách có một vẻ riêng:
Quyển «Con người trước khoa học» bắt buộc
con người phải nhận có Thượng Đế để giải thích các vấn đề vũ trụ sinh
hóa.
Quyển «Tương lai tinh thần» cho ta một cái
nhìn bao quát về cuộc tiến hóa vũ trụ quần sinh, từ khởi thủy đến chung
cuộc, tiên đoán con người sẽ tiến tới một giòng giống siêu đẳng, toàn
thiện trong một tương lai xa thẳm. Đó là mục đích thâm viễn của cuộc
tiến hóa, theo đúng ý muốn Thượng Đế.
Quyển «Phẩm giá con người» đề cao giá trị
và nhân phẩm con người, nhưng phẩm giá này cần phải tranh đoạt, phải
thực hiện bằng nỗ lực liên tục để lướt thắng thú tính, dục tình, chứ
không phải là một thứ nhân phẩm đã sẵn có từ thuở ban sơ.
Quyển «Định mệnh con người» kêu gọi ta làm
bừng sáng tàn lửa thiên chân tiềm ẩn đáy lòng, góp phần hữu hiệu vào
công cuộc tiến hóa, để thực hiện định mệnh con người, để thực hiện toàn
chân, toàn thiện trong tương lai.
Tất cả các sách của Ông đều nói lên một
niềm tin mãnh liệt về Thượng Đế, về giá trị con người, về tương lai và
định mệnh con người, cũng như muốn phá bỏ mọi bức tường giả tạo ngăn
cách con người, để sau này bốn bể một nhà, mọi người thương yêu, trọng
kính nhau như ruột thịt.
Những sách vở của Ông viết có một giá trị
đặc biệt.
Đặc biệt chẳng những vì tư tưởng cao siêu,
biện luận xác đáng, nội dung hàm súc phong phú, văn khí hùng hào trang
trọng, mà còn vì ông là một nhà vô thần duy vật đã biết trở về với
Thượng Đế và tinh hoa đạo giáo, một nhà bác học mà nhìn nhận ra được
những giới hạn của khoa học, đã gỡ được hết lớp son phấn hóa trang của
khoa học để tìm cho thấy bộ mặt tương đối phàm tục của khoa học, sản
phẩm của lý trí con người, giữa lúc mọi người đang suy tôn khoa học như
một thần minh vạn linh, vạn ứng. Đặc biệt hơn nữa, là vì Ông đã mục kích
những hậu quả đắng cay của chủ nghĩa duy vật vô thần, đã mục kích sự lu
mờ suy sụp của các giá trị tinh thần con người, mục kích mọi cảnh tàn
khốc, kinh hoàng của cuộc chiến tranh nguyên tử, vì vậy mà Ông đã cố sức
cảnh tỉnh con người.
Có lẽ cũng vì những lý do đặc biệt ấy mà
các sách của Ông đã được truyền bá đi khắp năm châu rất mau chóng.
Quyển «Tương lai tinh thần» (Avenir de
l’Esprit) xuất bản ở Pháp năm 1942 giữa thời chinh chiến đã được tái bản
22 lần trong vòng 6 tháng và năm 1942 đã được giải thưởng Vitet của Hàn
Lâm Viện Pháp.
Quyển «Định mệnh con người» xuất bản năm
1947 ở New York vừa được một tuần lễ đã được tuần báo Reader Digest toát
lược và đăng tải phổ biến khắp năm châu, và trong vòng có 20 năm nay đã
được dịch ra 12 thứ tiếng.
Tiết 2
Đại cương học
thuyết và toát lược tư tưởng Lecomte du Noüy
Lập trường, phương pháp và học thuyết viễn
đích của Lecomte du Noüy mới trông thì phiền tạp đa đoan, nhưng thực ra
rất giản dị, lý sự, mạch lạc.
Chúng ta có thể thâu tóm như sau:
Đứng trước nỗi niềm xao xuyến mênh mông
của nhân loại, đã từ lâu chỉ có tăng mà không có giảm, Lecomte du Noüy
muốn tìm cho ra nguyên nhân và phương pháp trị liệu.
Trước tiên, Lecomte du Noüy cho rằng khoa
học không tuyệt đối vạn năng, mà có nhiều sơ hở, khiếm khuyết.
Ông cũng đã vạch trần những yếu điểm, ngụy
biện của chủ nghĩa duy vật đã được hóa trang, tô điểm bằng những lớp
phấn son khoa học.
Nhưng ông cũng nhận thấy thuyết duy lý đã
phá được tín ngưỡng của một số đông quần chúng. Nếu vậy, thì nguyên đả
phá thuyết duy lý chưa đủ giúp con người khôi phục lại tín ngưỡng.
Một trào lưu tư tưởng mãnh liệt như vậy
không thể nhất đán phát sinh.
Sở dĩ chủ nghĩa duy vật phát sinh, chính
là vì những lỗi lầm của hàng giáo sĩ, giáo phẩm các tôn giáo, chứ không
phải con người đã thay tâm, đổi tính.
Thực vậy, con người vốn dĩ có tinh thần
đạo giáo. Từ bao ngàn năm nay, từ thời tiền sử, con người bao giờ cũng
tỏ ra sùng đạo mộ đạo, và những lời văn chương sôi nổi kích động đại
loại như của Bertrand Russell không đủ làm mất niềm đạo hạnh nơi con
người.
Renan cũng đã nhận rằng không gì phổ quát
và vĩnh cửu bằng tinh thần mộ đạo nơi con người. Ông cho rằng con người
từ vạn thế vẫn mộ đạo.
Đạo giáo sở dĩ đã mất uy tín nhiều vì
những lý do sau đây:
1) Trong dĩ vãng hàng giáo sĩ đã phạm
nhiều lỗi lầm, đã quá khắt khe, đè nén, cố chấp.
2) Hàng giáo sĩ đã được đào tạo không phải
để trở thành những người thông minh, duệ trí mà để trở thành những người
bảo vệ truyền thống; vì vậy các ngài không biết được rằng sự biến dịch
là định luật lớn lao chi phối vũ trụ, vì vậy mà các ngài trở nên nghi kỵ
những người thông minh duệ trí, cho là con cái ma quỉ…
Các ngài nghĩ rằng vũ trụ cố định trong
khi vạn vật chuyển biến chung quanh. Các ngài dựa vào phép lạ, đòi hỏi
phép lạ, trong khi phép lạ thường xuyên vĩnh cửu nhất, theo lời Henri
Poincaré, là vũ trụ không hề có phép lạ; nếu không, vũ trụ sẽ bị chi
phối bởi sự hỉ nộ thất thường ngẫu nhiên, ngẫu hứng, thay vì bởi những
định luật tiết tấu, hòa hài tiền hậu như nhất, vô cùng cao đẹp.
3) Đạo giáo trở nên guồng máy cai trị và
mất dần vai trò cải hóa nhân tâm.
4) Các phương pháp giảng giáo đã trở nên
lạc hậu, lỗi thời.
5) Các giáo sĩ, giáo dân nhiều khi có
những quan niệm rất sai lạc và chật hẹp về Thượng Đế, về đạo giáo.
6) Đạo giáo muốn cai trị dân, chứ không
muốn cho dân tiến tới.
7) Đạo giáo đã vay mượn nhiều mê tín dị
đoan của các tà đạo thời xưa mà không chịu rũ bỏ.
8) Các đạo giáo đã quá chú trọng đến những
hình thức lễ nghi bên ngoài, mà quên mất đời sống đạo hạnh, linh diệu
bên trong.
Nhưng nhìn sang phía các nhà bác học, hay
triết gia, ta thấy những lỗi lầm cũng that lớn lao, to tát.
Các ngài cho rằng sự mâu thuẫn giữa khoa
học và đạo giáo nan phương giải cứu, vì «giả thuyết Thượng Đế» không cần
thiết, và khoa học có thể đơn phương giải thích được mọi sự.
Rồi họ lập ra những nền luân lý thế tục,
và ngạc nhiên khi thấy không được hưởng ứng.
Nhưng khoa học đã nhận thấy sự bất lực của
mình:
Vì đã không tìm ra được bản thể của vạn
vật
được hình
ảnh chân thực của vũ trụ.
Vì khoa học chỉ dùng toán số, đo lường,
chỉ có những khái niệm gián đoạn, mà thực tế vẫn là phẩm cách, không thể
phân ly.
Hơn nữa, nguyên tắc bất định của
Heisenberg đã cho thấy giới hạn của sự hiểu biết con người: giỏi lắm,
con người biết được nửa thực tế bằng những phương pháp khoa học.
Tóm lại, một bên thì coi nhẹ lý trí, không
muốn chấp nhận sự biến thiên tiến hóa, không lưu ý đến những giá trị của
lịch sử và thời gian.
Một bên thì đề cao lý trí, không chấp nhận
những giá trị siêu việt hằng cửu, chỉ lưu tâm đến những giá trị nhãn
tiền, chối bỏ những ước nguyện, những nguồn mạch cao đẹp nhất của con
người.
Nhưng những lỗi lầm trong quá khứ ấy có
thể sửa chữa được, nếu chúng ta có thiện chí.
Đạo giáo không việc gì phải úy kỵ khoa học
vì khoa học chân chính, theo lời Lord Kelvin, sẽ bắt buộc phải chấp nhận
có Thượng Đế.
Khoa học không là lý do để chối bỏ Thượng
Đế vì ngoài một số nhà khoa học vô thần, còn biết bao nhà khoa học trứ
danh khác vẫn tin có Thượng Đế – Ví dụ:
Lamarck,
Darwin,
Newton,
Faraday, Maxwell, Lord Rayleish, Lord Kelvin, R.A. Millikan, Athur H.
Compton, v.v…
Cho nên ông cảm thấy con người ngày nay
cần phải có một nhãn quan mới, một học thuyết mới, một «cẩm nang giáo lý
mới» thích hợp cho mọi người.
Vì vậy, mà ông cố gắng xây dựng một học
thuyết mới.
Ông cho rằng một học thuyết trong thời đại
văn minh này, phải dựa trên những sự kiện khoa học, đã được khảo chứng
hẳn hoi, luận cứ phải chính đáng, minh xác, đúng theo toán học hay các
phương pháp toán học.
Cho nên học thuyết viễn đích của Ông đã
xây nền, đắp tảng trên học thuyết tiến hóa của Lamarck, Darwin, đã được
khoa học công nhận.
Ông dùng tất cả những khám phá sưu tầm
đứng đắn của khoa thiên văn, địa lý, cổ sinh vật học để xây dựng học
thuyết.
Ông chủ trương vũ trụ luôn biến thiên tiến
hóa, và sự tiến hóa, sinh vật đã có nhiều hướng từ đơn bào cho đến con
người.
Học thuyết Ông khác học thuyết Lamarck,
Darwin, mà sau này Hœckel đã biến cải thành thuyết tiến hóa duy vật vô
thần, ở mấy điểm chính sau đây:
1) Không thể nào gạt bỏ ý niệm Thượng Đế
ra khỏi vũ trụ, ra khỏi quá trình tiến hóa sinh linh. Ngược lại, chúng
ta phải chấp nhận ý niệm Thượng Đế mới có thể giải thích được sự xuất
tinh của sinh chất, sinh vật và cuộc tiến hóa sinh linh, một cuộc tiến
hóa có chiều hướng, ngày một thêm phong phú, linh động từ đơn bào, cho
tới con người.
Cuộc tiến hóa không thể vô ý, vô tình, vô
nghĩa như các nhà duy vật chủ trương, cũng không thể ngừng nghỉ, trái
lại cuộc tiến hóa hiện nay vẫn còn đang tiếp tục nơi con người, nhưng đã
chuyển vào hướng óc não, nội tâm, và còn tiếp tục mãi mãi để thực hiện
trong tương lai xa thẳm một giống người siêu đẳng, thần nhân.
3) Như vậy, con người sinh ra đời không
phải để sống tạm bợ, đoạn tháng, qua ngày, hưởng thụ vô lý, hay hy sinh
vô nghĩa, mà chính là để thi hành một nhiệm vụ, thực hiện một lý tưởng,
đó tức là: khai trí, khai tâm, khai thần, cố gắng tu luyện để rũ bỏ thú
tính, dục tình, tiến tới thanh cao, tinh hoa toàn mỹ.
Nhân loại trong tương lai sẽ phải tiến tới
trình độ cao siêu như vậy.
Khi đã biết rõ mục phiêu của con người, ta
mới thấy Ông Trời đã hướng công cuộc tiến hóa của sinh linh, của con
người một cách vô cùng tế nhị, về một mục đích tuy còn xa xăm, nhưng
nhất định sẽ được thực hiện. Đó là viễn đích của nhân loại cũng như của
đại cuộc tiến hóa sinh linh.
Viễn đích luận của Lecomte du Noüy chủ
trương có bấy nhiêu.
Sau khi đã tìm ra được những nguyên lý cốt
cán, chính yếu của học thuyết, thì suy diễn ra các hiệu quả là một
chuyện dễ dàng.
Lecomte du Noüy chủ trương Thượng Đế không
có ép buộc con người mà chỉ mời mọc con người tự ý góp phần vào công
cuộc hóa sinh.
Vì vậy con người phải được tự do, tự chủ,
con người mới lựa chọn được và mới cải tiến được thật sự.
Con người phải luôn gắng gỏi công trình để
tiến tới cùng đích cao siêu ấy, và phải có một lý tưởng siêu việt cao
đại để làm ngôi sao dẫn lối cho mình.
Con người cần nỗ lực, chống lại với thú
tính dục tình, có vậy mới trở nên xứng đáng, mới có nhân phẩm nhân cách.
Con người muốn tiến tới mục đích cao siêu,
thực hiện được công trình khó khăn ấy, cần phải tận dụng mọi khám phá,
mọi phát minh, mọi kinh nghiệm của tiền nhân, của xã hội.
Vì lẽ đó, con người cần phải trọng kính
những truyền thống đạo giáo.
Nhưng ngược lại, tất cả các tổ chức đạo
giáo cần phải thay đổi thái độ, phương pháp, phải gạn đục khơi trong
giáo lý học thuyết, phải canh tân, cải thiện cho thích hợp với con
người.
Mục tiêu chung của nhân loại là bắt tay
nhau để xây dựng nhân phẩm, nhân cách, làm cho con người ngày càng thêm
tự do, thanh lịch, cao thượng.
Khoa học không có một lý do gì mà không
chấp nhận các hiện tượng tâm thần, mà không khảo sát các hiện hượng nội
giới để bắt tay với đạo giáo, với trực giác.
Ngược lại, đạo giáo không có lý do gì mà
không bắt tay với khoa học, không dùng những khám phá khoa học, những
phương pháp khoa học để cải thiện đường lối phương pháp giảng giáo.
Ngày nay, vì cuộc tiến hóa đã chuyển về
hướng lý trí tâm thần, nên dĩ nhiên là tất cả các hành động, các công
trình chỉ nhằm cải thiện đời sống bên ngoài, tất cả những sự sùng bái lễ
nghi bên ngoài trở nên tùy thuộc.
Sự quan hệ nhất là giáo hóa con người,
giúp con người tìm ra tinh hoa đạo đức, tìm ra nguồn mạch đạo đức vốn
tiềm ẩn trong tâm khảm mình.
Một sự chuyển hướng như vậy sẽ đòi hỏi rất
nhiều thì giờ, nhưng nó sẽ đem lại những kết quả vô cùng đẹp đẽ.
Nó sẽ biến cải con người, làm cho họ thêm
cởi mở, thật sự trọng nhau, thương nhau, đạo này hết chống đối với đạo
khác, khoa học, triết học hết chống đối với tôn giáo.
Các đạo giáo hết chống đối nhau vì nhận
chân là đã phát khởi từ một nguồn mạch chung, là từ tinh hoa, cốt cách
con người, từ tâm thần các bậc hiền thánh trong quá vãng, và cũng có mục
đích chung là cải thiện con người, giúp họ tiến tới hoàn thiện, tinh
hoa.
Muốn đạt được những mục đích ấy, các
trường học khắp nơi phải trở nên những trung tâm giáo hóa, phát huy tín
nghĩa, liêm sỉ và những cơ quan đào tạo nhân cách con người.
Nhân loại có thật sự được cải thiện thì
hòa bình chân chính mới mong thực hiện được.
Con người có thực sự biết trọng tín nghĩa,
thì các hiệp ước mới có giá trị.
Trong tương lai, các nhà lãnh đạo tinh
thần quốc tế cần xóa bỏ tất cả những trở ngại hiện nay còn chia rẽ con
người như biên cương, chủ nghĩa.
Bốn bể đều là anh em một nhà, đều đáng
hưởng những quyền lợi như nhau, được một nền giáo dục như nhau, và sự
thương yêu nhau, trọng kính nhau phải được lan tràn khắp chốn.
Tất cả những chủ nghĩa trọng đoàn thể, xã
hội hơn con người, tất cả những đoàn thể, tổ chức có mục đích xuyên tạc,
lợi dụng, thăng phúc, áp đảo con người cần phải được xóa bỏ, tất cả
những kỹ thuật tuyên truyền gây căm thù, kích động, dung dưỡng những thú
tính hạ tiện, những dục tình hạ đẳng nơi con người phải được bãi bỏ.
Tất cả sẽ vì con người, vì tương lai con
người, vì định mệnh con người, vì nhân phẩm con người.
Tất cả để chuẩn bị cho một giống người phi
phàm, siêu đẳng, cho những thần nhân xuất hiện.
Đó là thiên ý.
Đó là viễn đích của cuộc tiến hóa quần
sinh.
Và đó
cũng là định mệnh cao sang của con người.
CHÚ THÍCH
«Je
réfléchis que seule la science, c’est-à-dire l’ensemble le plus
solide de notions acquises et coordonnées par l’intelligence humaine
pouvait fournir les bases de ce que le sage de Tréguier (Renan)
nommait «un catéchisme désormais acceptable…»
Or le savoir de l’homme de science ne
se borne plus désormais à la collection de faits nouveaux, ni même à
la découverte d’un principe. Le savant doit tout au moins, je le
crois, dans la mesure du possible contribuer à l’édification de ce
«catéchisme» renanien qui non seulement ne peut en aucune façon
contredire la religion, mais doit constituer son inébranlable
foundation. (De l’agnosticisme à la Foi p. 191.)
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 | Phần 3: chương
1
2
3
4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
|