TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10
11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25
26
27 28
29 30
31
32
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
CHƯƠNG XXVI
THUYẾT THIÊN NHÂN TƯƠNG DỮ
VÀ THIÊN NHÂN HỢP NHẤT TRONG NHO GIÁO.
Thánh nhân là người “Kế Thiên lập cực”
,
thay Trời chỉ vẽ cho nhân loại đâu là cực điểm tiến hoá, soi đường, dẫn
lối cho mọi người tiến tới Trung Dung,Trung Đạo,, tiến tới Tinh Hoa nhân
loại.
Quan niệm về Thánh Nhân của dân tộc Trung Hoa
đã cho chúng ta thấy rõ rằng muốn tiến tới Trời, tới tinh hoa nhân loại,
phải thông minh, duệ trí, sống cuộc đời nhân đức, thánh thiện, phối hợp
với Trời.
Nhưng muốn sống phối hợp với Trời, phải biết
Trời ra sao, Trời ở đâu. Đó là cả một vấn đề. Nho gia cho rằng Trời
chính là Bản Thể nhân loại.
Cho nên muốn tìm Trời, phải tìm ngay trong đáy lòng mình, vì thế
mà Trung Dung đã có một câu rất là táo bạo:
Biết người, trước phải biết Trời,
Hiểu Trời chẳng nổi, hiểu người làm sao?
Đọc bộ Kinh Thư Đại Toàn, ta thấy người bình
về Tâm Pháp các vị Thánh Vương như sau:
“ Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm,
Ra công, ra sửc giữ nguyên lòng trời “
“Đó là Tâm Pháp Nghiêu truyền cho Thuấn.
“Kiến Trung”, cố đạt tới Trung Dung, tới tinh hoa nhân loại (Thang),
“Kiến cực” cố đạt tới tinh hoa, toàn thiện (Vũ). Đó là Tâm Pháp của các
đời Thương, Thang, Chu, Vũ. Sự toàn thiện đó hoặc gọi là Đức, là Nhân,
là Kính, là Thành, lời tuy khác, nhưng ý là một, nghĩa là không ngoài sự
làm sáng tỏ nguồn mạch kỳ diệu của tâm hồn. Nói đến Trời, thì nghiêm
chỉnh lòng lại là Trời tự hiện; nói đến dân, thì cố cẩn thận tâm tư, dân
sẽ được nhờ. Lễ nhạc, giáo hoá là cốt để phát huy tâm hồn. Điển chương
văn vật là sự biểu dương phát lộ của tâm hồn. Suy lòng mình ra thì có
thể làm cho nhà yên, nước trị, thiên hạ bình. Sức mạnh của tâm hồn thật
là kỳ diệu vậy.”
Cho nên thánh nhân giảng dạy, không phải là
truyền đạo của mình, mà chính là truyền lòng mình; không phải là truyền
lòng mình cho người, mà chính là truyền lòng người cho người, bởi vì
trong lòng mọi người đã có sẵn lòng Trời rồi vậy.
Mạnh Tử viết:
“Tận thiện lòng sẽ hay biết Tính,
Hay biết Tính, nhất định biết Trời.
Tồn tâm dưỡng Tính chẳng rời,
Ấy là giữ Đạo thờ Trời chẳng sai.”
Mạnh tử cũng còn viết:
Cả vạn vật ở trong ta đó,
Quay về ta, ta cố tinh thành.
Kiện toàn hoàn thiện, tinh anh,
Vui nào hơn được cái mình đang vui.
Cho nên, muốn tìm Đạo Trời, phải tìm nơi đáy
lòng. Chu Hi viết trong Phụ Chú chương I Trung Dung như sau:
Những học giả muốn tìm Đạo ấy,
Tìm đáy lòng sẽ thấy chằng sai.
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung.
Trong bộ Cận Tư Lục, Chu Hi lại
chủ trương:Nếu khai phá được hết chướng ngại vật, thấy được Bản Tính
mình, sẽ đạt tới Thiên Đạo, và sẽ trở nên một với Thánh Nhân.
Vương Dương Minh viết:
Thần thánh ngàn xưa đều quá vãng,
Lương Tri mới thực chính thày ta.
Theo vi ý kinh Thi, kinh Thư ta có thể
hiểu truyền thống chính yếu của Nho giáo như sau: Trời sinh ra con
người, đã ghi vào lòng những khuôn phép thánh thiện tuyệt hảo, để làm di
luân, qui tắc hằng cửu cho con người theo.
Nên con người chỉ cần nhận ra Bản Tâm, Bản Tính cũa mình, sẽ thấy định
mệnh cao sang của mình...chỉ cần sống hoàn toàn theo tiếng gọi lương
tâm, nghĩa là gạt bỏ hết mọi tư dục, tư tà, sống cuộc đời công chính cao
đại, hoàn toàn theo đúng Thiên Lý, Thiên Đạo, tức là lên tới mức độ
thánh thiện tuyệt vời, thế là đạt tới Trung Điểm, Trung Đạo, thế là theo
đúng mệnh Trời...
Mạnh Tử nói rằng ; “Bực Đại Nhân vốn giữ được
cái Tâm vốn lành của con đỏ”
Như vậy Thánh Nhân chỉ là những người giữ
được Bản Tâm Bản Tính của mình, giữ được Xích Tử chi Tâm, còn phàm phu
tục tử chính là những người sống cuộc đời phóng túng, chạy theo vật dục
bên ngoài, để mất Bản Tâm, Bản Tính, có vậy thôi!
Thánh Nhân và người thường giống nhau ở chỗ
cùng có một bản tính, mà khác nhau ở chỗ giữ được và đánh mất nó mà
thôi.
Mạnh Tử viết:” Cho nên phàm những vật đồng
loại, thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại người ta lại
nghĩ rằng Bản Tính chẳng tương tự. Những vị Thánh Nhân và chúng ta đều
là một loại.
“Tâm Tính con người giống nhau ở chỗ nào? Tức
là ai nấy đều công nhận chỗ hợp lý, hợp nghĩa vậy. (Lý là những lẽ đương
nhiên của Bản Tính, nghĩa là sự thi hành những lẽ đương nhiên ấy). Thánh
Nhân chẳng qua là những người trước ta đã tỉnh ngộ và bày tỏ ý nghĩa mà
chúng ta nhìn nhận đó.”
“ Nếu chúng ta trở nên xấu xa, đánh mất bản
tâm, bản tính, thì lỗi tại chúng ta, chứ đâu phải lỗi nơi bản tâm, bản
tính.
Mạnh Tử viết:
“ Cây cối trên núi Ngưu sơn (phía Đông Nam
nước Tề) ngày xưa vẫn tươi tốt. Nhưng vì ở về chỗ giáp mối với một nước
lớn, cho nên thường bị búa rìu bửa đốn. Như vậy, có thể nào giữ vẻ tốt
tươi được chăng?
“ Nhưng nhờ có sức mạnh nhựa lưu thông ngày
đêm, lại được nước sương tẩm nhuận, cho nên mới đâm chồi, nảy mộng. Rồi
thì bò chiên kéo nhau từng đoàn đến ăn phá, vì vậy mà cảnh núi ấy trở
nên trơ trụi. Hiện nay, thấy nó trơ trụi, ai cũng ngỡ rằng núi ấy chưa
từng sản xuất tài mộc. Như thế há nên đổ lỗi cho bản tính của núi sao?
“ Cái Bản Tính tồn tại nơi con người cũng
thế. Người ta há chẳng có những nỗi lòng Nhân Nghĩa sao? Nhưng vì họ (mê
sa theo các sở dục mà) buông mất tấm lòng lương thiện của họ đi, cũng
như cảnh núi trở nên trơ trụi, vì cây cối đều bị búa rìu bửa đốn hết
vậy.
“ Mỗi ngày họ cứ sát phạt tấm lòng lương
thiện của họ mãi vậy, thì lòng dạ họ có lẽ nào mà tốt dẹp như xưa chăng?
“ Cho nên, nếu khéo bồi dưỡng thì vật nào
cũng sinh nảy thêm ra, còn như chẳng chịu bồi dưỡng thì vật nào cũng
phải tiêu mòn.
“ Đức Khổng có nói rằng: “Giữ thì còn, bỏ thì
mất. Nó ra vào không chừng, không ai biết nó ở đâu. Đó là Đức Khổng nói
về nỗi lòng lương thiện của con người vậy.
“ Nhân là lương tâm con người, Nghĩa
là con đường chính đại của ngưới. Những ai bỏ con đường chính đại của
mình mà chẳng theo, những kẻ để thất lạc lương tâm mình mà chẳng biết
tìm nó lại, thật đáng thương hại thay. Mỗi khi con gà, con chó họ chạy
lạc, thì họ biết đi tìm kiếm mà đem về, nhưng tới chừng cái lương tâm họ
bị thất lạc, thì họ chẳng biết cách tìm nó trở lại. Người học vấn đạo lý
chỉ có cái mục đích này mà thôi: tìm lại lương tâm thất lạc của mình.
Trương Hoành Cừ chủ trương: “ Người học Đạo
Nho sẽ đi từ chỗ toàn thiện tiến tới chỗ minh triết hoàn toàn. Cho nên
Thiên Nhân Hợp Nhất là chỗ tuyệt đỉnh của sự học vấn, và như vậy, con
người cố chí học hành có thể thành Thánh.”
Tống Nho luận về “Thiên tính tại nhân tâm”
hay “Thánh Nhân kết hợp làm một với Trời” thật là rõ ràng. Dưới đây xin
đan cử thêm một vài chứng cứ:
Diệp lục Đồng chủ trương: “Thiên tính nơi con
người cũng như Tính nước nơi băng. Nước và băng tuy lưu thông hay ngưng
kết có khác nhau, nhưng cũng chỉ là một vật; sự hấp thụ ánh sáng nhiều
ít có khác nhau, chiếu sáng mờ tỏ có khác nhau, nhưng tính chất hấp thụ
và chiếu diệu của ánh sáng chỉ có một,”
Cao Trung Hiến bình ràng: “ Lấy nước ví Trời,
lấy băng ví người, lấy sự lưu thông, ngưng đọng để ví sự sống chết, lấy
sự hấp thụ của ánh sáng để ví sự khác nhau về Bản Chất; lấy sự thu
quang, chiếu quang để ví Tính trước sau chẳng có hai.”
Tôn Chung Nguyên viết: “Trời và Thần chỉ là
một, Thánh với Trời cũng chẳng là hai.”
Trương Tải dạy học trò rằng: “ Đã học tất
phải nên như Thánh Nhân rồi mới được thôi. Đòi biết người mà chẳng biết
Trời, chỉ cần làm hiền nhân mà chẳng cần làm Thánh Nhân, đó là tệ hại
của các học giả từ thời Tần Hán tới nay.”
Trương kỳ Quân, một học giả Trung Hoa lỗi lạc
hiện nay, đã viết như sau trong Tạp Chí Trung Quốc Nhất Chu
và trong bộ Trung Hoa Ngũ Thiên Niên sử của Ông như
sau:
“Trung quốc, từ thời Đường, Ngu (Nghiêu,
Thuấn) tới nay, đều có chủ trương Trời, người có thể kết hợp. .. Kính
Trời cốt là để yêu người, yêu người cốt là để kính Trời. các thánh triết
lịch đại chỉ cốt làm sáng tỏ nhẽ Trời người hợp nhất.”
Trong bài khảo luận của Ông về Chu Dịch, ông
cũng viết: “Sách Dịch thật mênh mông, bao quát, nhưng đại khái là cốt
xiển minh nhẽ Thiên Nhân hợp nhất.
Thực ra, ngay ở thời nhà Thanh, khi mà nền
văn học, đạo học nướcTrung Hoa đã suy vi, những quan niệm trên -nghĩa là
thuyết Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể, và thuyết Thiên Nhân hợp nhất
-cũng vẫn còn phổ thông trong giới học giả. Các học giả Âu Châu cũng đã
nhận xét thấy trào lưu này, khi các Ngài mới du nhập vào Trung Quốc hồi
thế kỷ XVI.
Linh mục Ricci viết: “Trào lưu tư tưởng mà
nhiều người theo hiện nay, theo tôi, có lẽ đã vay mượn ỏ một giáo phái
tà thần từ 500 năm nay (Tống triết). Quan niệm ấy là Thiên địa vạn vật
đồng nhất thể: Hoá công cùng với trời đất, người vật, cỏ cây, tứ tượng
đều hợp thành như một cơ thể duy nhất, mà vạn vật là những phân bộ. Từ
quan niệm nhất thể ấy họ rút ra nhiệm vụ bác ái đối với mọi người, và
chủ trương mọi người đều có thể trở nên giống Thiên Chúa...
“Đó là điều mà chúng ta cố gắng phi bác,
chẳng những bằng lý luận, mà còn bằng uy thế của tiền nhân Trung Hoa, vì
các vị ấy đã giảng dạy một học thuyết khác...”
Đọc xong đoạn này của L.M. Ricci, tôi không
thể ngờ được rằng một học giả lỗi lạc như Ngài mà lại không thấy rằng
Thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể và Thuyết Thiên Nhân hợp
nhất là 2 học thuyết cao diệu nhất trong thiên hạ. Nó tuyên dương
Bản tính và định mệnh cao sang của con người. Hai chân lý sáng ngời như
vậy mà Ông cho là tà đạo, thì thật đáng thương cho Ông. Như vậy, làm sao
giảng đạo cho ai được? Sao Ông dám nói tiền nhân Trung Hoa đã giảng dạy
khác hẳn? Thật là nguy biện.
Tiền nhân Trung Hoa, như các chứng cứ Kinh
Thi, Kinh Thư, Luận Ngữ, Mạnh tử trích dẫn trên đây cho thấy sau trước
đều có một chủ trương, một tín ngưỡng y thức như nhau, và y thức như các
đại hiền triết đời Tống. Đọc Chu Hi, Trình tử, Thiệu khang Tiết, Trương
Hoành Cừ, Lục cửu Uyên v.v...tôi thấy các Ngài là những vị Thánh Nhân mà
tôi cần noi gương, bắt chước.
Theo Mạnh Tử, thì dẫu vị Thánh Nhân ở Đông
Di, hay là vị Thánh Nhân ở Tây Di, dẫu là xa nhau nghìn dậm, hay là cách
nhau nghìn năm, thì tôn chỉ và lề lối cũng y thức như nhau, y thức như
hai mảnh tre ở một phù tiết, đừng lối Thánh trước Thánh sau chỉ là một.
Mới hay Chân Lý chỉ có một, mà đạo giáo thì
có nhiều. Ta không nên nghe những người ngu si, cuồng tín khí dỗ, mà
phải biết mở mắt ra mà nhìn xem đâu là Chân Lý. Tiêu chuẩn mà Mạnh Tử
nêu trên là một Chân Lý bất diệt.
Để rộng đường khảo sát, so sánh, tôi xin
trưng ra đây quan điểm của 1, vài Thánh Nhân Thiên Chúa Giáo.
Theo Thánh Augustin, thì Lương Tâm là nơi tâm
hồn gặp gỡ Thiên Chúa, là nơi huyền nhiệm, nơi mà tâm hồn nhận chân được
sự hiện diện của Thượng Đế trong lòng mình.
Nới khác Ngài than thở: “Lạy Chúa, trong
Chúa con sẽ có sự chắc chắn, vững vàng và Bản Thể rốt ráo của con.”
Thánh Paolo nhìn nhận rằng ngay những người
ngoại giáo cũng tuân theo những giới luật mà Thiên Chúa đã ghi tạc trong
thâm tâm của họ.
Thánh Paolo cũng là vị thánh Công Giáo đầu
tiên sống với niềm tin say sưa là có Thiên Chúa hiện diện trong tâm khảm
Ngài.
Ngài viết: “Thiên Chúa là đấng đã truyền cho
ánh sáng bừng lên trong tăm tối, chính Ngài cũng đã bừng sáng lên trong
lòng chúng ta.”
Nơi khác Ngài viết:” Anh em hãy ngượi khen
và hãy mang Thiên Chúa trong thể xác anh em.”
Đời sống của Ngài hoàn toàn phối hợp với
Thiên Chúa, vì thế nên Ngài mới dám viết cho người xứù Galates: “ Tôi
sống chẳng phải tôi sống mà là Chúa sống trong tôi.”
Gần đây, quan điểm “Thiên Địa vạn vật đồng
nhất thể” và chủ trương “con người có thể tiến tới cùng cực tinh
hoa”, “có thể phối hợp với Thượng Đế” của Dịch Kinh và của các Thánh
Hiền Trung Hoa lại được L.M. Teilhard de Chardin công khai chủ trương
bên phía trời Âu, và được các giới văn học khắp nơi tán đồng và sùng
thượng. Phải chăng đó là một điềm báo hiệu cho một cuộc Đông Tây gặp gỡ,
kim cổ giao duyên trong một tương lai gần gũi.
Tóm lại, đối với Thánh Hiền Trung Hoa:
Đạo Trời vốn đã ẩn áo trong lòng nhân loại.
Sự toàn thiện, toàn mỹ cũng vốn đã nằm sẵn
trong đáy lòng con người.
Thánh Nhân là những người thông minh, duệ
trí, nhận ra được căn bản hoàn thiện nơi đáy lòng mình, sống hợp với
Thiên Lý, Thiên Đạo, hợp nhất với Trời.
Cực đĩểm ấy tức là cùng đích đã đặt ra cho
nhân loại: Chưa đi tới cùng đích ấy dĩ nhiên là nhân loại còn phải tiến
hoá mãi.
Sách Đại Học vì thế, mới đặt lằn mức cho mọi
người dừng chân. Lằn mức ấy là sự Chí Thành, Chí Thiện (Chỉ ư chí
Thiện.-Đại Học, I)
Cực điểm ấy cũng chính là Trung Điểm, là
Trung Dung, Trung Đạo.
Đạo Thánh Nhân cao siêu, toàn mỹ, vì thế mới
được Trung Dung khen tặng chẳng tiếc lời. Trung Dung viết:
“Đạo Thánh Nhân to sao, to lớn quá,
Nó mênh mang, biến hoá chúng nhân.
Nó cao, cao vút tới Trời thẳm muôn tầm,
Nó rộng, rộng bát ngát, khôn kể xiết.
Gồm thâu hết mọi điều lễ nghi, chi tiết,
Bao uy nghi, quán triệt hết chẳng trừ,
Đợi Thánh Nhân, Trời mới phú thác cho,
Không đứùc cả, Trời không ngưng đạo cả.
Nên quân tử dốc một lòng, một dạ,
Trọng Tính Trời, quyết gắn bó học hành,
Tiến sao tới mức rộng rãi tinh anh,
Mức cao sáng của Trung Dung đạo cả.
Ôn điều cũ, học thêm điều mới lạ,
Chuộng lễ nghĩa, sống đời sống nết na.
Ở ngôi cao, không có thói kiêu sa,
Ở cấp dưới, không làm điều trái nghịch,
Nước có Đạo, chỉ một lời làm tiến ích,
Nước đảo điên, lặng lẽ đủ dung thân.
Thơ rằng: “Khôn lại còn ngoan,
Khôn ngoan nên mới bảo toàn tấm thân.”
CHÚ THÍCH
James Legge, the Shoo King, p. 428, notes.
Thiên nhân bản vô nhị, bất tất ngôn hợp. Nhược bất nhất bản, tắc an
đắc tiên Thiên vi Thiên phất vi, hậu Thiên nhi phụng Thiên thời?
天
人
本
無
二,
不
必
言
合。
若
不
一
本,
則
安
得
先
天
而
天
弗
違,
後
天
而
奉
天
時?
Âm Phù Kinh của Đạo
Lão cũng chủ trương: Thiên tính nhân dã, Nhân tâm cơ dã, lập
Thiên chi đạo, dĩ định nhân dã. Thiên tính là người, nhân tâm là
máy, lập ra Thiên đạo, để định con người.
Tư tri Nhân, bất khả dĩ bất tri Thiên.
思
知
人
不
可
以
不
知
天。
Tinh nhất chấp trung, Nghiêu Thuấn tương thụ chi tâm pháp dã. “Kiến
Trung “ (Thang), “Kiến Cực” (Vũ), Thương, Thang, Chu, Vũ tương
truyền chi Tâm Pháp dã. viết Đức, viết Nhân, viết Kính, viết Thành,
ngôn tuy thù, nhi lý tắc nhất, vô phi sở dĩ minh thử tâm chi diệu
dã. Chí ư ngôn Thiên,tắc nghiêm kỳ tâm, chi sở tự xuất; ngôn dân,
tắc cẩn kỳ tâm, chi sở do thi. Lễ nhạc, giáo hoá, tâm chi sở phát
dã; điển chương văn vật tâm chi trứ dã; gia tề, quốc trị, thiên hạ
bình, tâm chi suy dã, tâm chi đức kỳ thịnh hỹ hồ.
精
一
執
中,
堯
舜
相
授
之心
法
也。
建
中
(湯
)
建
極
(
禹)
商
湯
周
禹
相
傳
之
心
法
也。
曰
德,
曰
仁,
曰
敬,
曰
誠
言
雖
殊
而理
則
一,
無
非所
以
明
此
心
之
妙
也¡至
於言
天
,
則
嚴
其
心
之
所
自
出。
言
民
,
則
謹
其
心
之
所
自
施。
禮 樂
教
化
心
之
發
也。
典
章
文
物
心
之
著
也。
家
齊,
國
治
心
之推
也。
心
之
德
其
盛
矣
乎!
Thư kinh đại toàn,
q. II.
Cáo Thần Tông viết: tiên Thánh, hậu Thánh nhược hộp phù tiết, phi
truyền thánh nhân chi Đạo, truyền Thánh Nhân chi tâm dã, phi truyền
thánh nhân chi tâm dã, truyền kỷ chi tâm dã. Kỷ chi tâm vô dị Thánh
Nhân chi tâm, Quảng đại vô hạn, vạn thiện giai bị. Dục truyền thánh
nhân chi đạo, khoáng sung thử tâm yên nhĩ.
告
神
宗
曰﹕先
聖
後
聖
若
合
符
節,
非
傳
聖
人
之
道,
傳
聖
人
之
心
也。非
傳
聖
人
之
心,
傳
己
之
心
也。己
之
心
無
異
聖
人
之心。
廣
大
無
限,
萬
善
皆
備。
欲
傳
聖
人
之
道,
擴
充
此
心
焉
耳。
Trùng
biên, Tống Nguyên học án, p. 1, tr. 144.
Nhất nhân chi tâm, tức Thiên địa chi tâm, nhất vật chi lý, tức vạn
vật chi lý, nhất nhật chi vận, tức nhất thế chi vận.
一
人
之
心即
天
地
之
心,
一
物
之
理,
即萬
物
之
理,
一
日
之
運
即
一
世
之
運。
Tống Nguyên Học Án,
Q. 15, tr. 2 (Y Xuyên án thượng).
Tận kỳ Tâm giả, tri kỳ Tímh dã, tri kỳ Tính tắc tri Thiên hĩ.
盡
其
心
者,
知
其
性
也,
知
其
性
則
知
天
矣。
Mạnh tử, Tân tâm
chương cú thượng, 1.
...Lý Phác, một triết gia thời
Tống, đã muốn đề mộ chí mình như sau: ”dĩ Thiên vi tâm, dĩ đạo vi
thể, dĩ thời vi dụng” (lấy Trời làm lòng, lấy Đạo (= Trời,
Tuyệt đối thể) làm Bản Thể, lấy thời gian làm ứng dụng)
以
天
違
心,
以
道
違
體,
以
時
違
用。
Tống Nguyên Học Án,
Lý Chương Công tiên sinh Phác, q. 1, tr. 18.
Cái dục học giả ư thử, phản cầu chư thân nhi tự đắc chi.
蓋
欲
學
者
於此,
反
求
諸
身
而
自
得
之。
Trung Dung, I Phụ
chú của Chu Hi.
Phàm vật mạc bất hữu tánh, do thông, tế, khai, tắc, sở dĩ hữu nhân
vật chi biệt, Do Tế hữu Hậu Bạc, cố hữu trí ngu chi biệt. Tắc giả
lao bất khả Khai. Hậu giả khả dĩ Khai, nhi Khai chi dã nan; Bạc giả
Khai chi dã dị. Khai tắc đạt ư Thiên đạo, dữ Thánh Nhân nhất.
凡
物
莫
不
有
性,
猶
通
蔽
開
塞,
所
以
有
人
物
之
別。
由
蔽
有
厚
薄,
故
有
智
愚
之別。
塞
者
勞
不
可
開;
厚
者
可
以
開,
而
開
之
也
難,
薄
者
開
之
也
易。
開
則
達
於天
道,
與
聖
人
一。
Cận tư lục, Chu Hi,
q. I, tr. 10.
Thiên thánh giai quá ảnh, lương tri nãi ngô sư..
千
聖
皆
過
影,
良
知
乃
吾
師。
Vương
dương Minh.
Duy Hoàng Thượng đế gíang Trung vu hạ dân, nhược hữu hằng tính, khắc
tuy quyết do duy Hậu.
惟
皇
上
帝
降
衷
于
下
民,
若
有
恆
性,
克
綏
厥
猷
惟
后。
Kinh Thư, Thang Cáo,
2.
Mạnh Tử viết: đại nhân giả bất thấ t kỳ Xích Tử chi Tâm giả dã..
孟
子
曰;
大
人
者
不
失
其
赤
子
之
心
者
也
Mạnh Tử, Cáo Tử, chương cú thượng, 7.
Mạnh Tử, Cáo Tử, chương cú thượng, 7 và 8.
Mạnh Tử, Cáo Tử, chương cú thượng, tiết 1.
Nhu gia tắc nhân minh trí thành, nhân thành trí minh. Cớ Thiên Nhân
Hợp Nhất, trí học nhi dĩ thành Thánh.
儒
家
則
因
明
致
誠,
因
誠
致
明。
故
天
人
合
一,
致
學
以
成
聖。
Tống Nguyên Học Án,
Hoành Cữ học án. q. XVII, tr. 55
Thiên tính tại nhân chính do thuỷ tính chi tại băng. Ngưng thích tuy
dị, vi vật nhất dã. Thụ quang hữu tiểu đại, hôn minh, kỳ chiếu nạp
bất nhị dã.
Cao Trung Hiến viết: Dĩ Thuỷ dụ
Thiên, dĩ Băng dụ nhân; dỉ ngưng thích dụ sinh tử, dĩ thụ quang dụ
khí bẩm chi bất đồng; dĩ chiếu nạp dụ Tính chi bất nhị.
天
性
在
人,
正
猶
水
性
之
在
冰,
凝
釋
雖
易,
為
物
一
也。
受
光
有
小
大,
昏
明,
其
照
納
不
二
也。
拈中
憲
曰﹕
以
水
喻
天,
以
冰
喻
人;
以
凝
釋
喻
生
死;
以
受
光
喻
氣
稟
之
不
同;
以
照
納
喻
性
之
不
二。
Tôn Chung Nguyên viết: “Thiên dữ Thần phi nhị kiến, Thánh Nhân tức
Thiên.
孫
鍾
元
曰﹕
天
與
神
非
二
見;
聖
人
即
天。
Cáo chư sinh dĩ học tất như Thánh nhi hậu dĩ. Dĩ vi tri nhân nhi bất
tri Thiên; cầu vi hiền nhân nhi bất cầu vi Thánh Nhân, thử Tần, Hán
dĩ lai học giả chi đại tệ dã.
兌
諸
生
以
學
必
如
聖
而
後
已。
以
為
知
人
而
不
知
天,
求
為
賢
人
而
不
為
聖
人,
此
秦
漢
以
來
學
者
之
大
敝
也。
Cùng
Tính Mệnh chi nguyên tất dĩ thể Thiên vi học vấn chi bản.
窮
性
命
之
源
必
以
體
天
為
學
問
之
本。
...Thiệu Khang Tiết ; ”Học mà
không đạt tới trình độ hợp Trời với người, thì không đủ gọi là học”
Học bất tế Thiên nhân, bất túc dĩ
vi chi học.
學
不
際
天
人,
不
足
以
為
之
學。
Trung
Quốc tự Đường, Ngu dĩ lai tức hữu Thiên Nhân hợp nhất chi tư tưởng.
Kính Thiên tức sở dĩ ái nhân, ái nhân tức sở dĩ tôn Thiên. Lịch đại
Thánh Triết mạc bất kế tục hoành dương thử “Thiên Nhân hợp nhất”
chi đạo. Lão tử tức kỳ nhất hỹ.
中
國
自
唐
虞
以
來,
即
有
天
人
合
一
之思
想。
敬
天
即
所
以
愛
人,
愛
人
即
所
以
尊
天。
歷
代
聖
晢
莫
不
繼
續
宏
揚
此
天
人
合
一
之
道。
老
子
即
其
一
矣。
Dịch chi vi thư quảng đại tất bị, nhi ngữ kỳ yếu qui, tắc vi minh
Thiên Nhân Hợp nhất chi đạo
易
之
為
書
廣
大
悉
備,
而
語
其
要
歸,
則
為明
天
人
合
一
之道。 (Trương kỳ Quân, Chu
Dịch) Trung Quốc nhất chu, số 588.-Trung Hoa ngũ
thiên niên sử, chương Chu Dịch, tr. 12.
Mais l'opinion la plus suivie actuellement, et qui me parait (pare)
empruntée à la secte des idoles depuis 500 ans (philosophie des
Song), c’est que tout ce monde est fait d’une seule substance, et
que le Créateur du monde avec le ciel et la terre, les hommes et les
animaux, les arbres et les végétaux, et les quatre éléments, fotment
un corps continu dont les divers êtres sont les membres. C’est de
cette unicité de substance que l’on déduit le devoir de la charité
envers les hommes et la possibilité pour tous de devenir semblables
à Dieu...
Voilà ce que nous nous efforcons
de réfuter (procuriamo di confutare), non seulement par le
raisonnement, mais avec l’autorité de leurs anciens auteurs qui très
clairement ont enseigné une doctrine différente. (g. Ricci)
Mạnh Tử viết: Thuấn sinh ư Chư Phùng, thiên ư Phụ Hạ, tốt ư Minh
Điều, Đông Di chi nhân dã. Văn vương sinh ư Kỳ Châu, tốt ư Tất Đỉnh,
Tây di chi nhân dã. Địa chi tương khứ dã, thiên hữûu dư lý, thế chi
tương hậu dã, thiên hữu dư tuế. Đắc chí hành hồ Trung Quốc nhược hợp
phù tiết. Tiên thánh, hậu Thánh kỳ quĩ nhất dã..
孟
子
曰﹕
舜
生
於
諸
馮,
遷
於
負 夏,
卒
於鳴
倏,
東
匈
之
人
也。
文
王
生
於
岐
周,卒
於
畢
鄙,
西
匈
之
人
也。
地
之
相
去
也,
千
有
餘
里,
世
之
相
後
也,天
有
餘
歲。
得
志
行
乎
中
國
若
合
符
節。
先
聖
後
聖
其
揆
一
也。
La conscience, a pour Augustin, une valeur exclusivement religieuse.
C’est le lieu de rencontre entre l’âme et Dieu présent en elle...
En toi, mon Dieu, j’aurai ma solidité, ma fixité, mon être
définitif. (Augustin)
Ceux-là (les Gentils) montrent gravées dans leurs coeurs les
prescriptions de la Loi...
Trong Deuteronome, đoạn XXX, câu
11-15: “Vì Luật mà ta truyền hôm nay, không có quá sức quá tầm
ngươi,. Nó không có ở trên Trời, để Ngươi phải nói: Ai sẽ lên Trời
tìm nó cho ta để chúng ta được nghe biết Luật và tuân cứ “. Nó cũng
chẳng cách mấy trùng dương, để ngươi phải nói:” Ai sẽ vượt bể mà đi
tìm nó cho ta, để chúng ta được nghe biết luật và tuân cứ.”. Vì Đạo
(Lời) nào có xa ngươi, nó đã ở trong miệng ngươi, và trong lòng
ngươi, để ngươi tuân cứ.
Jérémie viết: Ta sẽ đặt lề luật ta
trong đáy lòng họ, và viết lề luật ta vào tâm khảm họ.
Le Dieu qui a dit à la lumière de resplendir du fond des ténèbres
est Celui qui a resplendi en nos coeurs.
Glorificate et portate Deum in corpore vestro. I Cor. 4, 6.
Biblia sacra juxta Vulgatoe exemplaria et correctoria romana.
Paris Letouzey et Ane, 87 Bld Rspail, p. 1265.
Nhưng các bản dịch Kinh Thánh bằng
tiếng Pháp không dám thêm chữ “Và hãy mang Thiên Chúa” trong
thể xác anh em.
Crampon chỉ dịch: Glorifiez donc
Dieu dans votre corps (Xem La Sainte Bible de Crampon, p. 191)
La Bible de Jérusalem dịch:
“Glorifiez donc Dieu dans votre corps”, còn chữ ”et portez” cho
xuống dưới chú thích K nhỏ ở dưới gầm trang. (Bible de Jérusalem,
p. 1515)
Mấy chữ quan trọng như vậy mà
bỏ đi, vì Công Giáo không tin rằng con người vẫn mang Trời trong dạ,
thật là quá uổng, Như vậy là làm mất luôn Tinh Hoa Thiên Chúa Giáo.
Ce n’est plus moi qui vit, c’est le Christ qui vit en moi. (Aux
Galates, 11, 20) Crampon, p. 215.
Puto autem, quod et ego Spiritum
Dei habeam (Et je pense bien, moi aussi, avoir l’Esprit de Dieu.
Và tôi cũng nghĩ rằng tôi cũng có thần Chúa trong tôi) (Biblia
Sacra (Vulgate) et Bible de Jérusalem. I. Cor. 40)
...et ita cadens in faciem,
adorabit Deum, pronuntians quod vere
Deus in vobis sit. I Cor. XIV, 25
(Và bây giờ hắn xấp mình xuống đất, thờ phượng Thiên Chúa, và nói
thực có Thiên Chúa trong anh em.) Các bản dịch thánh kinh Công giáo
vì không tin có Chúa trong con người, nên đều dịch 2 chữ In Vobis
trên là “giữa anh em” (parmi vous), chứ không dịch là “trong anh em”
(en vous). Bible de Jérusalem và La Sainte Bible de Crampon đều dịch
như vậy. Mới hay “sai một ly, thì đi một dặm” , cái gì mình có hay
nhất, quí nhất thì lại vất đi, cái gì lặt vặt thì lại đề cao!
Pierre Teilhard voit le cosmos tout entier construit à partir d’une
seule et même Énergie. Cette Énergie s’actualise sous des aspects
très différents. La science, particulièrement la Physique, confirme
de plus en plus le bien-fondé de cette conception.
...Teilhard de Chardin résume
admirablement sa conception cosmique dans ces quatre propositions:
“Je crois que l’univers est en
évolution
“Je crois que l’évolution va vers
l’Esprit.
Je crois que l’Esprit s’achève en
Dieu personnel.
“Je crois que le Personnel Suprême
est le Christ Universel.”
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10
11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25
26
27 28
29 30
31
32
|