TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
»
mục lục |
chương trước | chương kế
CHƯƠNG
XXXI
TINH HOA DO THÁI GIÁO:
KABBALA
Do Thái giáo có công truyền và mật truyền.
Công truyền là Đạo Do Thái chính thống hiện nay. Nó ra đời từ thời Moses
(1250 B.C.). Phần Mật truyền hay Mật tông Do Thái được gọi là Kaballah,
hình thành vào khoảng thế kỷ XIII.
Nơi đây chỉ trình bày Mật Tông Kaballah.
Kabbalah là huyền môn Do Thái có từ xa xưa. Theo
Spinoza, nó tóm thâu tư tưởng của các người Do Thái thời xưa.
Huyền môn này có hai bộ sách danh tiếng:
1. Sepher Yetzirah (Livre de la Création :
Sách sáng tạo) (hay Sépher Yessira, hay Sépher Yetsira) do Rabbi Akiba
viết khoảng năm 120 A.D.
2. Zohar ( Sepher Ha Zohar : Livre de
la Splendeur : Sách Quang huy), do Moses de Lyon viết vào khoảng 1305
A.D.
Kabbalah giải thích căn nguyên, sự hình thành, vòng
biến dịch, cùng đích vũ trụ và con người bằng : Ein-Sof và mười
Sephiroths (thập tính, thập duyên, dix attributs).
Ein-Sof là Hư vô, là Bản thể tuyệt đối của vũ
trụ, khi chưa hình hiện hiển dương. Ein-Sof là toàn thể vũ trụ.
Ein-Sof tương đương với Vô cực trong Kinh Dịch.
Sephiroths (Thập duyên) phác họa sơ đồ hình thành
vũ trụ hữu hình.
Thập Duyên là:
1. Kéther (Crown,Couronne) là Nguyên lý sáng
tạo nên vũ trụ hữu hình, tương đương với danh từ Thái cực.
2. Chocmah, Khí Dương (Male, expansive Force)
3. Binah, Khí Âm (Female, astringent Force)
4. Chesed, Nghĩa (Benevolent Force)
5. Geburah, Lễ (Destructive Force)
6. Tiphered, Tín (Harmony, equilibrium, beauty)
7. Netzach, Nhân (Amor)
8. Hod, Trí (Objective Intelligence)
9. Yésod, dục giới (Astral kingdom of desires)
10. Malkuth, sắc giới (Corporeal sphere,
terrestrial kingdom).
Có thể nói được rằng Thập Duyên tương tương đương
với các quan niệm Thái cực (Kéther), Âm Dương (Binah, Chocmah), Ngũ hành
(Chesed, Geburah, Tiphered, Netzach, Hod), Tam tài (Kéther: Thiên);
(Yesod: Nhân); (Malkuth: Địa)
của Kinh Dịch.
Kabbalah cũng còn dùng :
Tâm điểm và nhiều Vòng tròn đồng tâm để giải
thích về căn do, hình thành, biến dịch, và mục phiêu vũ trụ.
Đại khái :
1.-Khi chưa có vũ trụ hữu hình (Tiên Thiên), thì chỉ
có Bản thể (Ein-Sof) ở thế tiềm ẩn. Lúc ấy Ein-Sof là toàn thể vũ trụ.
2.-Khi thế giới đã hình hiện (Hậu Thiên), thì Thượng
Đế là tâm điểm, là cốt lõi vũ trụ.
Từ trung tâm sáng tạo ấy, phóng phát ra vạn hữu.
Chiều sinh hóa từ vô cùng đến hữu hạn ấy được
diễn biến từ một tâm điểm cho đến các Vòng tròn bên ngoài. Càng xa tâm
càng trở nên chất chưởng.
Và các lớp lang hình tướng bên ngoài của vũ trụ y
như là những lớp vỏ, lớp áo phủ ngoài Thượng Đế.
Thời kỳ hoàng kim mai hậu là thời kỳ mà vạn vật qui
căn phản bản
.
Khi ấy Thượng Đế sẽ rũ bỏ những lớp áo, lớp vỏ bên ngoài, và sẽ hiện
ra vinh quang.
-Zohar chủ trương Phiếm thần (Pantheisme) và coi
Thượng Đế là vũ trụ, vũ trụ là Thượng Đế.
-Zohar chủ trương thuyết phóng xuất, sinh hóa ra vũ
trụ, không chấp nhận thuyết tạo dựng.7
-Zohar cho rằng : Cơ cấu con người, cơ cấu vũ trụ
giống nhau. Hiểu vũ trụ sẽ hiểu con người, hiểu con người sẽ hiểu vũ
trụ. Ngắm nhìn suy tư về vũ trụ, con người sẽ nhận ra rằng tất cả những
yếu tố, những chất liệu bên ngoài đều có đủ trong mình, con người
toát lược lại vũ trụ, và đấng Duy Nhất, bất khả tư nghị, đấng đã sinh ra
vũ trụ và sẽ thu hút vũ trụ về, cũng chính là đấng ngự trị ngay trong
lòng con người.
Khảo Kabbalah, ta thấy người Do Thái xưa, ngoài cách
dùng từ ngữ thông thường, để diễn tả tư tưởng, còn có những cố gắng dùng
nhiều phương pháp khác để diễn tả tư tưởng. Trong những phương pháp đó
ta thấy họ dùng :
-số
-chữ
-hình ảnh
Khảo Kinh Dịch, ta cũng thấy những cố gắng tương
đương như vậy.
1.-Dùng số để diễn tả tư tưởng.
Để diễn tả tư tưởng: Nhất thể biến vạn thù, vạn
thù qui Nhất thể, người Do Thái cũng đã dùng số, nhất là dùng 10 con
số đầu.
Số 1 tượng trưng cho Bản thể duy nhất, cho Thượng
đế, căn nguyên sinh xuất vạn hữu.
Số 2 mới chính là con số bắt đầu, vì 2 là cơ chế
biến hóa, gồm 2 động lực tương đối, sinh khắc.
Số 1 như vậy là Căn nguyên, là Bản thể, 9 số sau
là cung cách biến hóa.
Nói theo từ ngữ hiện tại, thì số 1 là Bản thể, các số khác
là phụ tượng, (accidents), hay Hiện Tượng (phénomènes)
Số 10 đặc biệt có nghĩa là Hòa hợp, là Thái hòa.
Như vậy, nó gợi lên ý niệm rằng, đến lúc chung cuộc, vạn vật sẽ trở
nên thành toàn, viên mãn, trong một toàn thể Thái Hòa.
Số 10 tương ứng với mẫu tự số 10 Yod của tiếng Do
Thái, mà Yod là Thượng đế. Như vậy:
1 là Thượng đế, Căn nguyên, Bản thể vũ trụ.
10, là Yod, là Thượng đế viên mãn lúc chung cuộc.
Thế là thủy chung như nhất.
Ý nghĩa 10 con số càng trở nên rõ rệt, nếu ta đem so
sánh nó với quan niệm dân gian về vũ trụ. Dân gian tin rằng Thượng đế
ngự trên chín tầng trời.
2. Dùng chữ để diễn tả quan điểm Nhất thể vạn thù.
Do Thái gọi Thượng đế là Yod He Vav He.
Khi chưa sinh thành ra vũ trụ, thì họ viết Yod, He
Vav, He nguyên thành một chữ. Khi đã sinh thành ra vũ trụ thì họ chia
chữ Yod He Vau He thành ra 4 phần, mỗi phần riêng chiếm 1 phương trời. Ý
nói Thượng đế là vũ trụ, vũ trụ là phân thân của Thượng đế.
Ngoài ra Yod
י, còn có
nghĩa là Bản thể.
He
ה gồm hai
phần : tượng trưng cho hai động lực âm dương, tương sinh tương khắc
nguyên thủy, nguồn sinh hóa ra vạn hữu.
Vav
ו là chữ
thứ sáu. 6 có thể cắt nghĩa là Lục hợp (sáu phương trời)
3. Dùng hình ảnh để diễn tả tư tưởng Nhất thể vạn
thù.
Hình ảnh mà Kabbale dùng để diễn tả tư tưởng Nhất
thể tán vạn thù, như ta cũng đã thấy, là hình tròn, hay Tâm điểm và
nhiều Vòng tròn đồng tâm.
Ibn Erza coi Vòng Tròn là tượng trưng cho vũ trụ
biến dịch tuần hòan, thủy chung như nhất.
Xin xem Gabriel Trarieux d’Egmont, Le Thyrse et la Croix,
Adyar, Paris, 1947, trang 159.
Kéther được coi là tương đương với
Le Logos (Plato), the Word of St John. Còn gọi là Mặt Trời thiêng
liêng nơi trung điểm (Spirituel Central Sun) (Ib. 159, note 3.)
L’ère messianique, espérance juive, devient ainsi une espérance
métaphysique : par elle toute chose rentrera dans sa racine, comme
elle en est sortie.
(Ib. 227)
Un jour, le Saint dépouillera ses écorces et ne réapparaitra que
sous l’aspect d’un noyau substantiel.
(Ib. 273)
Xin tham khảo thêm:
a/-Ad. Franck, La Kabbale ou
Philosophie religieuse des Hébreux Paris, Librairie de L.
Hachette, 1843.
b/-Gabriel Trarieux d’Egmont,
Le Thyrse et la Croix, Adyar, Paris, 1974.
6 En d’autres termes, si
l’on déclare que l’univers est Dieu, ou que Dieu est l’univers, on
dit la même chose. Cette totalité qui se manifeste dans l’unité
suprême de Dieu, est hors de doute dans les expressions nuancées et
symboliques du Zohar, dont nous venons de citer quelques exemples
frappants. Le Ein-Sof n’est autre chose que cette totalité, cette
unité suprême, qui embrasse les dix Sephiroths. Le Ein-Sof, dit en
effet le Zohar, est revêtu et enveloppé des Séphiroths comme le
charbon de la flamme. Ailleurs après avoir rapporté le rayonnement
de la lumière primordiale en dix lumières, il ajoute: Nonobstant,
tout est un. (Henri Sérouya, La Kabbale, p. 226)
En d’autres termes, si l’on déclare que l’univers est Dieu, ou que
Dieu est l’univers, on dit la même chose. Cette totalité qui se
manifeste dans l’unité suprême de Dieu, est hors de doute dans les
expressions nuancées et symboliques du Zohar, dont nous venons de
citer quelques exemples frappants. Le Ein-Sof n’est autre chose que
cette totalité, cette unité suprême, qui embrasse les dix
Sephiroths. Le Ein-Sof, dit en effet le Zohar, est revêtu et
enveloppé des Séphiroths comme le charbon de la flamme. Ailleurs
après avoir rapporté le rayonnement de la lumière primordiale en dix
lumières, il ajoute: Nonobstant, tout est un. (Henri Sérouya,
La Kabbale, p. 226)
La création de l’univers est un fait de pure émanation.
L’univers dans la multiplicité de ses élements est
inhérent à l’õessence de l’Ein-Sof, précisément comme la
potentialité de la flamme procède du charbon.
...Dieu, dans son Commentaire (c’est à
dire de Saadya) du Sépher Yessira, est dans l’univers ce que la vie
est dans l’être vivant. Il est à la fois dans chaque partie et dans
chaque tout. Autrement dit, il est partout. Ib. 139
Ce qui est en haut est en bas.
Chaque homme est l’expression mimuscule de son
Prototype céleste, du vaste Adam Kadmon, l’Univers...
...Car c’est en regardant en lui-même
que l’homme finit par commprendre le grandiose et indéchiffrable
spectacle quõil contemple en ouvrant les yeux: la terre, les
montagnes, la mer, ou les feux de la nuit étoilée. Il finit par se
rendre compte que tous ces éléments sont en lui, qu’il est, en
abrégé, l’õunivers, et l’être impensable et unique, seule Réalité
éternelle, de qui cet Univers émana, dans laquelle il sera résorbé,
habite en son sein, Lui aussi, est l’Hôte de sa chair périssable.
Le Thyrse et la Croix, p. 161.
Để chứng minh rằng Tuyệt đối ở ngay
trong con người, đoạn trên có chú thích như sau : Ce que le Bouddha
s’exprima en ces termes : En vous est le non-né, non-causé,
non-crée, non-forméï C’est la base de toute sa doctrine. (La Parole
du Bouddha par Nyanatiloka, traduction La Fuente). C’est aussi de
l’idéalisme absolu de Fichte, de Schelling, et Hégel.
Le nombre 1 que est le principe de tous les nombres, nõest pas
lui-même un nombre.
C’est le nombre 2, qui est véritablement le premier nombre.
...Sérouya chú thêm như
sau :
Pour le pythagoricisme aussi le nombre
positif ne commence qu’à partir de 2... Le nombre 1 qui contient les
deux éléments des nombres, l’impair et le pair, est à la base de
tous les nombres, il en est la racine, mais lui-même n’est pas un
nombre, car tout nombre implique une pluralité d’unités. (Cf.
Aristote, Métaphysique, I, cha.V...) Anaximène dit que
Dieu est l’Un, non en tant que commencement des nombres, qui est
susceptible de devenir multiple. De même que Plotin admet que le
premier, appelé Un, est sans multiple sans rien d’identique au
dehors et sans différenciation en soi. La même idée se trouve chez
Bahya dans sa considération théologique de l’unité véritable; puis
chez Ibn Zadik et comme nous avons déjà vu précedemment chez Ibn
Gabriel dans sa Couronne Royale: Tu est Un, mais non l’un tombant
dans la loi des nombres. L’idée passera ainsi dans la
Kabbale...(Sérouya, La Kabbale, p. 152 và chú thích
3.)
Đọc đầu chú thích 1 ở trên.
Mais 10 est aussi le nombre des catégories, dont neuf accidents et
une substance. (Ib.
153)
La décade renferme en elle toutes les unités simples.
Pour illustrer le Yod (10 è lettre), Ibn Era
tire sa racine de todath qui signifie selon lui choeur, union,
harmonie. Car dix (la tetras pythagoricienne) est la somme des
quatre premiers nombres.
Xem Henri Séroya, La Kabbale, p.
130.
Le Yod, première lettre du tétragramme représente la
substance avant toute différenciation..
Le Hé, composé de deux parties
distinctes, indique les deux contraires, essence et forme, substance
et accident..
Le Vau qui a la valeur
mathématique 2 x 6 : 12 est la 6è lettre de l’alphabet hébraique. En
ce sens, le tétragramme Yod, Hé, Vau, (Hé) est composé de trois
lettres différentes, qui marquent les trois dimensions des corps: la
longeur, la largeur, la hauteur ou la profondeur. Le Vau avec sa
valeur numérique six, marque les six forces des corps que nous
recontrons dans le Sefer Yessira. (Ib. 152)
En ce qui concerne le symbolisme, Ibn Erza considère le cercle comme
l’emblème de la nature, qui revient sans cesse sur elle-même. Elle rattache ses commencements à ses fins et enveloppe en
son sein par une suite infinie de figures finies. (Ib. 152)
»
mục lục |
chương trước | chương kế
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
|