CHƯƠNG XVIII.
TỐI THƯỢNG THỪA PHẬT GIÁO.
A. NhỮng nguyên tẮc tu thân căn bẢn.
1. Băng qua Vạn Pháp biến thiên, trở về với Chân
Như Bản Thể.
Khi nhận thấy rằng chỉ có một Bản Thể duy nhất bao
trùm không gian và thời gian, bao trùm cả vạn hữu, khi đã chấp nhận
rằng Bản Thể ví như Đại Dương, hiện tượng và quần sinh ví
như muôn nghìn sóng cả, hay như những bọt nước bồng bềnh trên mặt,
thì điều kết luận dĩ nhiên sẽ là:
a. Bản Thể thì trường tồn, vĩnh cửu.
b. Hiện Tượng, quần sinh thì phù du, hư ảo.
c. Cho nên, phải bỏ phù du, để trở về với vĩnh
cửu; bỏ hiện tượng để tìm về Bản Thể Chân Như.
Phật xưa đã ba lần chuyển Pháp Luân:
Lần thứ Nhất: Giảng kinh Hoa Nghiêm, để chỉ vẽ gốc
rễ, căn bản con người.
Lần thứ hai: thuyết kinh A Hàm, Bát Nhã, Phương
Đẳng, để chỉ vẽ chi mạt, ngọn ngành con người.
Lần thứ ba: thuyết kinh Pháp Hoa, Niết Bàn để dạy
đời thu nhiếp ngọn ngành để trở về cội gốc, bỏ Hiện Tượng để trở về
với Bản Thể, Chân Như. Đó là thành Phật, thành Đạo, đó là vào Niết
Bàn.
2. Tìm ra Chân Tâm, Chân Như Bản Thể dưới lớp
Vọng Tâm, Vọng Ngã.
Sau khi đã dùng 2 chữ Bản Thể và Hiện Tượng để bao
quát hết mọi lớp lang đại vũ trụ từ vô hình đến hữu hình, ta trở lại
tiểu vũ trụ là con người chúng ta.
Như trên đă nói, trong vũ trụ, một Bản Thể Duy
Nhất phát sinh muôn ngàn hiện tượng, nay trở lại con người, ta cũng
thấy vẫn một Bản Thể Duy Nhất, Tuyệt đối ấy phát sinh ra mưôn vàn hiện
trạng, điều động mọi suy tư, hướng dẫn mọi hành động. Bản thể ấy, theo
từ ngữ Phật Giáo, chính là Phật Tính, làm căn cốt cho mọi người, cũng
như làm căn cốt cho vũ trụ và muôn vật, vì thế nói: Chúng sinh đều có
Phật Tính (Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật Tính).
Cũng như vũ trụ có 2 phương diện Biến Thiên và
Hằng Cửu, mỗi một người chúng ta cũng có 2 bộ mặt, 2 con người. Bộ mặt
bên ngoài, con người bên ngoài thì nhem nhuốc, biến thiên chịu định
luật thành, trụ, dị, không của thời gian; một bộ mặt, một con người
bên trong thì uy nghi, rực rỡ, siêu thoát trên mọi hình, thức, sắc,
tướng, và không điêu tàn với quang âm, tuế nguyệt.
Vì thế mà Phật giáo mới phân Chân Tâm, Vọng Tâm,
Chân Ngã, Vọng Ngã.
Vọng Tâm, Vọng ngã gồm tất cả những trạng thái
biến thiên của tâm hồn, gồm thất tình, lục dục, tri giác, cảm giác,
hoài bão, lý luận, tư tưởng, sinh sinh, diệt diệt với các hiện tượng
bên ngoài.
Còn Chân Tâm, Chân Ngã thời tế vi, huyền diệu, bất
biến trường tồn.
Chân Tâm, Chân Ngã còn gọi là Đại Ngã. Vọng tâm,
Vọng Ngã gọi là Tiểu Ngã. Đại Ngã là có. Tiểu Ngã là không.
Con người tưởng chừng hữu hạn, tưởng chừng lao
lung, tưởng chừng tảo vong, yểu tử, mà kỳ thực đã chứa đựng sẵn vô
biên, vô tận, đã sẵn có hạnh phúc, đã sẵn có trường sinh, bất tử.
Có như vậy, mới cắt nghĩa được con người tại sao
luôn mơ ước vô biên, luôn tìm cầu hạnh phúc, luôn mong mỏi trường sinh
bất tử.
Tìm ra được Chân Tâm tiềm ẩn dưới lớp Vọng Tâm,
các hiền triết Phật Giáo mới chủ trương con người thay vì có ngũ quan
và ý thức, lại còn có đến tám thức: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức,
thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, A lại Da thức.
Ý thức là Vọng Tâm, mà A Lại Da
chính là Chân Tâm. Còn Mạt Na ở giữa đóng vai môi giới.
Khi mê thì Mạt na đóng vai vô minh chỉ liên lạc
được 1 chiều từ Chân Tâm ra Vọng Tâm, thành thử Vọng Tâm không bao giờ
nhìn nhận ra được Chân Tâm. Khi Ngộ thì Mạt Na đóng vai Bát Nhã, thành
con thuyền đưa người từ bến bờ Vọng Tâm cho tới bờ bến Chân Tâm, lúc
ấy sự liên lạc sẽ hoàn tất cả hai chiều, không còn Sâm Thương đôi ngả.
Duy thức Tông có
thơ:
Đệ huynh bát cá, nhất nhân si,
Độc hữu nhất cá, tối linh ly,
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại,
Nhất cá gia trung tác chủ y.
(Tu tâm, tr. 21)
Anh em tám kẻ, một người si (mạt na = Ngã si)
Duy có một chàng rất linh ly. (ý thức)
Năm người buôn bán ngoài cửa ngõ (Ngũ quan)
Một vị trong nhà đứng chỉ huy. (A Lại Da)
Các sách thường chủ trương khi giác ngộ, Thức sẽ
biến thành Trí. Và A Lại Da sẽ biến thành Đại Viên Cảnh Trí. Chủ
trương này xét ra cũng chính xác, vì nếu trong A Lại Da thức còn có
chút tì ố nào, thì chưa phải là Chân Tâm.
Có sách lại chủ trương còn có Đệ Cửu Thức gọi là
Bạch Tịnh Thức, mà Đệ Cửu Thức mới là Căn Nguyên Tuyệt Đối.
Khám phá ra được rằng, sau những lớp lang tâm tư
biến ảo, còn có Tuyệt Đối Chân Tâm, sau bộ “mặt nạ” tiểu ngã hoá
trang, còn có “bộ mặt Bản lai diện mục”, “bộ mặt Đại Ngã”; khám phá ra
được rằng: dưới làn sóng vô thường, vô ngã, tràn ngập vũ trụ, tràn
ngập lòng mình, dưới lớp ba đào trùng điệp ấy, còn có Giác Hải Chân
Như tĩnh lãng, ấy là giác ngộ.
Đại Ngã là Phật Tính, là Chân Như, là căn cốt của
tạo vật và của con người; vĩnh cửu, trường tồn, chân thường, bất biến,
bất hoại.
Còn tiểu ngã là vọng tâm của mỗi người, kết cấu
bằng những tầng lớp hình ảnh, tư tưởng, dục tình, biến thiên, vô
thường, vô định.
“Lạc trong muôn tứ, nghìn tình,
Soi gương, nào biết tướng mình thế nao?”
Trở về Đại Ngã Đại Đồng, Chân Ngã vô tướng, tức là
không còn cái mình nhỏ nhoi, hèn mọn nữa, và sẽ trở thành Pháp Thân uy
nghi, trang trọng, phổ biến, phổ quát. Đạt tới Đại Ngã là đạt tới Niết
Bàn . Vì thế Niết Bàn được định nghĩa là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Bà Blavatsky viết: “Bao giờ Thần con người hoàn
toàn không còn tơ vương chút vật chất nào, không còn chút hình tượng
nào, sẽ trở thành Linh Khí hoàn toàn. Khi ấy, nó mới vào được Niết Bàn
vĩnh cửu, bất biến, trường tồn, đó là Niết Bàn vĩnh cửu thật sự. Linh
Khí ấy là Thần, là Không, vì nó là mọi sự. Nó hoàn toàn vô hình tướng;
nhưng về phương diện thuần Thần, thì nó là chính Bản Thể. Khi hồn con
người đã thành thần thì được gọi là Nhập vào Bản Thể Đại Đồng, hay là
phối hợp với Bản Thể chứ không bao giờ có nghĩa là huỷ diệt, vì huỷ
diệt là vĩnh cửu chia ly.“
Nhiều người theo Phật giáo chỉ chú trọng đến vô
thường, vô ngã mà quên biến mất Chân Thường, Chân Ngã. Như vậy mới là
biết Biến Thiên chưa biết Hằng Cửu, mới biết hiện tượng chưa biết Bản
Thể, mới biết Luân Hồi chưa biết Niết Bàn.
Biết Vô Thường, Vô Ngã mới là biết Biến Thiên, Khổ
Ải, Luân Hồi, mà chưa biết Niết Bàn.
Biết Vạn Pháp là Vô Thường, Vô Ngã mới là biết
hiện tượng phù phiếm, biến thiên; chưa biết Bản Thể bất biến, chưa
biết được Thực Tại trường tồn.
Biết Hiện Tượng, chưa biết Bản Thể gọi là Mê; thấy
Bản Thể mà không thấy hiện tượng cũng chưa gọi được là Ngộ.
Giác Ngộ là phải thông suốt lẽ biến hằng, thông
suốt hai phương diện thể dụng trong trời đất và lòng người.
Người theo đạo Phật mà chỉ nói Vô Ngã, Vô Thường,
mà không biết Chân Ngã, Chân Thường, thì cũng y như người học Dịch mà
chỉ biết hào quải bên ngoài, chưa biết Vô Cực, Thái Cực bên trong...
Nhiều người khảo cứu về Đạo Phật rất bạo dạn khi
nói về thuyết vô ngã Anatta
,
Anatman
,
nhưng không dám đả động đến Chân Ngã. Nhưng may thay, cũng còn có
nhiều người dám bàn về Chân Ngã,
nhưng may thay trên nhiều cổng chùa, còn có viết 4 chữ đại tự lớn;
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm viết: “Thất nhữ Nguyên
Thường, cố thụ luân chuyển.”
(không biết căn nguyên vĩnh cửu, nên bị luân chuyển)
Kinh Đại Niết Bàn viết: “Kiến nhất thiết Không,
bất kiến bất Không, bất danh Trung Đạo, nãi chỉ kiến nhất thiết Vô
Ngã, bất kiến Ngã giả, bất danh Trung Đạo. Trung Đạo giả, danh vi Phật
tánh. 見
一
切
空,
不
見
不
空,
不
名
中
道。
乃
只
見
一
切
無
我,
不
見
我
者,
不
名
中
道。
中
道
者,名
為
佛
性
。”
“Thấy tất cả đều là “Không”, mà chẳng thấy cái
”chẳng Không”, thì chẳng gọi là Trung Đạo; thấy tất cả là ”Vô Ngã”
mà chẳng thấy có “Ngã’ thì cũng chẳng gọi là Trung Đạo. Trung Đạo ấy
gọi là Phật Tánh.”
Không hiểu trong con người có 2 thứ Ngã (Đại Ngã,
Tiểu Ngã), có 2 thứ căn nguyên (Niết Bàn, Sinh Tử), có phân ngôi Chủ
khách (Hằng, Biến), thì không sao hiểu được giáo lý đạo Phật, không
sao thành Phật được, dù tu luyện mấy muôn kiếp.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm viết:
“Phật bảo A Nan: Từ muôn kiếp tới nay, chúng
sinh bị lao lung, điên đảo, các nghiệp chướng sinh ra đầy dẫy như trái
ác xoa. Còn những người tu hành chẳng thành được vô thượng Bồ Đề lại
thành ra bực thanh văn, duyên giác, và các thứ ngoại đạo, các Trời và
ma vương, ma quyến, đều là vì không biết 2 thứ căn bản, tu luyện cuồng
xiên, thác loạn, y như đòi nấu cát thành cơm, thì có đến ngàn muôn
kiếp cũng chẳng được.
Thế nào là 2 thứ căn bản, hỡi A
Nan! Một là căn bản tử sinh từ muôn kiếp, y như nay ngươi và
chúng sinh lấy tâm vọng tưởng (tâm phan duyên) làm tự tính.
Hai là căn bản “ vô thuỷ Bồ Đề Niết Bàn
Nguyên Thanh Tịnh Thể” đó ở nơi ngươi, chính là “Thức Tinh
Nguyên Minh”có thể sinh ra vạn duyên, vạn sự, mà đã bị trần duyên làm
mất bỏ. Cũng vì chúng sinh đã bỏ mất cái căn nguyên sáng láng ấy, cho
nên hằng ngày tuy vẫn luôn luôn dùng mà chẳng tự biết được nó, rồi ra
lăn lộn, đắm đuối vào các thú vui, uổng phí cả cuộc đời.
Bỏ cái “nguyên thường” trường cửu, mà theo cái
vô thường biến dịch, coi vọng tưởng mà lầm là “chân tính” thì có khác
gì nhận giặc làm con, làm sao thoát khỏi Luân Hồi, khổ ải?
Phật bảo A Nan: “Cái đó là vọng tưởng do lục
trần bên ngoài mà sinh, nên gọi là vọng tưởng; nó làm hoặc loạn chân
tính ngươi. Bởi vì từ xưa tới nay, ngươi nhận giặc làm con, bỏ mất
tính chân thường của ngươi, nên ngươi bị luân chuyển, luân hồi.”
Làm sao phân biệt được Chân Tâm, Vọng Tâm nơi
con người?
Phật cho rằng: cái gì từ bé đến già mà chẳng
đổi thay là Chân Tâm. Theo đà thời gian, đầu ta tuy bạc, mặt ta
tuy nhăn, nhưng cái Tính Thấy ấy chẳng hề nhăn, chẳng hề bạc,
mà đã không nhăn, không biến thì làm gì có sinh, có diệt?
Suy ra, trong con người, cái gì bất động, bất biến là
Chân Tâm.
Đã bất biến, thường trụ thời là Chủ Nhân, đã trừng
tịch bất động thời là “Không”.
Trái lại, cái gì thay đổi, biến thiên trong con
người, cái gì giao động thì là Vọng Tâm. Mà đã giao động, biến thiên,
thì chẳng qua là trần ai, hay khách qua đường mà thôi.
Cho nên Vọng Tâm chính là hiện tượng sẽ bị
sinh, diệt; còn Chân Tâm mới là Bản Thể bất sinh, bất diệt.
Bỏ mất bản tâm, mà lại nhận lầm duyên trần, nhận
vật làm mình, nhận giao động biến thiên làm Chân Tâm, Chân Cảnh, thì
làm sao mà chẳng bị quay cuồng trong ngọn lốc Luân Hồi lưu chuyển.
Không ý thức được quan niệm căn bản ấy, đã mất
Chân Tâm, bản tâm rồi, thì dẫu “có đem thân xuất gia, lòng vẫn chẳng
nhập đạo, chẳng khác nào đứa con bỏ cha ra đi, ắt bị lao lung, khổ ải.
Tu trì như thế, làm sao mà chứng quả được, cũng ví như nghe người nói
chuyện uống ăn, thì làm sao mà no được.”
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn bảo Lục Tổ Huệ Năng:”Kẻ
nào chẳng biết Bổn Tâm, thì học đạo vô ích. Nếu ai biết Bổn Tâm, thấy
Bản Tánh tự nhiên, tức thị là Trượng Phu, là thày của Trời, Người, là
Phật.”
3. Bỏ Vọng Tâm để sống theo Chân Tâm, hay diệt
ngã để khế hợp với Chân Như Bản Thể.
Nếu không phân biệt Chân Tâm, Vọng Tâm, thì
không sao hiểu được đạo Phật. Phật giáo chủ trương Vô Ngã, rồi lại
dạy Diệt Ngã. Nếu chỉ có Vọng Tâm, mà không có Chân Tâm, thì chủ
trương như vậy rất vô lý, vì đã Vô Ngã thì còn gì mà diệt; vả lại tu
mà đi đến tận diệt, thì tu để làm gì? Nhưng trái lại, nếu biết sau
Vọng Ngã, còn có Chân Ngã, thì vấn đề sẽ sáng tỏ ngay.
Chủ trương Phật giáo chính là: con người hữu
hạn hàm tàng Chân Như vô hạn. Như vậy, phương châm và mục đích tu
luyện sẽ được vạch rõ:
Từ Vọng Ngã nhỏ hẹp ta sẽ phát huy Đại Ngã rộng
lớn, mênh mông;
trong sắc thân phàm tục, ta sẽ cố phát huy pháp thân
siêu việt; trong phàm thân dễ bị huỷ hoại, sẽ cố phát huy kim
cương thân bất khả tiêu diệt; trong u minh, ta sẽ làm bừng sáng
lên ngọn đuốc Chân Tâm.
Chữ Diệt Ngã, hiểu cho đứng đắn sẽ là phá tan mọi
hình tướng để tìm ra Chân Tính (khiển tướng, chứng tính),
làm lu mờ, tan biến mọi nhỏ nhen, ti tiện cho quang minh chính đại
hiện ra (ẩn liệt, hiển thắng).
Mục đích tối hậu là khế hợp với Tuyệt Đối,
là hoà hợp với Bản Thể tuyệt đối.
Thế là đi từ Hữu Vi, Hữu Lậu trở về Vô Vi, Vô Lậu;
rũ bỏ hết mọi phiền trược, buộc ràng, mà sống thung dung, tự tại; vất
bỏ mọi giả tạo, để tìm ra Chân Thực trường tồn (khiển Hư, tồn Thực);
rũ bỏ mọi tạp thù, để giữ lấy nguyên thuần tuý (xả lạm, lưu thuần);
bỏ ngọn ngành, chi mạt, để trở về gốc gác, căn nguyên (nhiếp mạt, lưu
bản).
Đạo Nho gọi thế là Khử Nhân Dục, tồn Thiên Lý, vì
theo qui luật “phục, khởi” (伏
起)
của Kinh Dịch, thì “Nhân dục thắng, Thiên Lý vong” và ngược
lại “Nhân dục tận, Thiên Lý hiện”, hay Âm tận thì Dương
thuần. Nhân dục và Thiên Lý không thể lưỡng lập.
Đạo Lão gọi thế là “tâm tử, thần hoạt”
心
死
神
滑.
(tâm có chết đi, thần mới sống được.)
Suy ra thì nhẽ Phản Bản, Qui Nguyên trước sau chỉ
là một, từ ngữ tuy thay đổi, cảch diễn tả tuy không đồng nhất, nhưng
tinh thần muôn đời vẫn chẳng có hai.
B. Con đưỜng giẢi Thoát: Tìm Chân Tâm Ở đáy
lòng.
Hướng ngoại mà tìm cầu,
Tất cả đều ngoan si.
Hướng nội mà tuỳ xứ tiện nghi,
Tất cả đều là chân thật.
(Lâm tế lục thị chúng, ĐĐ Thiên Ân, Triết học Zen,
tr.103)
Tất cả các kinh sách Phật Giáo, các môn phái Phật
Giáo đều có mục đích chỉ vẽ Chân Tâm. Như trên đã nói: Chân Tâm là
Phật Tánh, là Chân Như bất biến, hằng cửu lồng ngay trong vạn hữu và
trong tâm hồn ta, chẳng ở đâu xa. Kỳ lạ thay là thân thế con
người: thân thế con người, tuy lao lung, chất chưởng, nhưng chính đã
được gắn liền vào trường sinh, tuyệt đối, như sóng gắn liền với nước.
Như vậy, con đường giải thoát không phải là
đường sông, đường biển, đường Tây Trúc xa xăm, mà chính là con đường
nội tâm của mỗi người.
Phải đi sâu vào đáy lòng mới tìm ra Chân Tâm, mới
tìm ra Niết Bàn, mới tìm ra hạnh phúc, tự do, giải thoát. Lục Tổ Huệ
Năng nói: ”Tự mình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy
Phật ở Tự Tâm mình, độ lấy mình mới được.”
Như vậy châm ngôn để đi tìm chân lý sẽ là:
Con đường hướng nội tiến cho sâu,
Càng sâu, càng thấy lắm nhiệm mầu.
Tâm khảm bao la không bờ bến,
Vũ trụ mênh mông đã thấm đâu.
Tâm con người càng tìm hiểu, càng thấy kỳ diệu.
Phiến diện, thì lao lung, chất chưởng, biến thiên,
đày tràn trần ai, nghiệp chướng, mà trái lại, căn cốt thì
vô biên, tuyệt đối.
Như vậy, mỗi người đã sẵn có bảo châu vô gía dấu
trong vạt áo, sao không cố tìm kiếm cho ra, mà cứ an phận sống một
cuộc đời khổ ải.
Như vậy, mỗi người có thể ví như một hoàng tử lưu
vong, mà bụi phong trần đã phủ kín hết các nét hào hoa, phong nhã, mà
cuộc đời luân lạc đã làm cho lầm than, chìm nổi, cho đến quên khuấy cả
giòng giõi sang cả mình, quên hết căn nguyên huy hoàng, quên hết cả
đến định mệnh siêu việt đang chờ đón mình trong những bước đường tương
lai.
Phật đã nhắc nhở con người về giòng giõi sang cả
cũng như về định mệnh cao quí của con người.
Phật khi đắc đạo đã nhận định rằng: “Đạo quả chân
thật giải thoát không phải do hành hạ xác thân, không thể nương vào kẻ
khác và cũng không phải tìm kiếm đâu xa ngoài chính mình.”
Vậy muốn tìm Chân Tâm, muốn tìm Phật Tính, phải
tìm ngay trong người mình, trong lòng mình.
Phật bảo A Nan: Chân Tính đã ở nơi ngươi mà ngươi
chẳng tin, lại theo nơi miệng ta mà tìm Chân Tính, vậy ngươi đã lầm
chưa?
Tây Du Ký cũng đã vạch rõ đâu là động phủ để tầm
sư học Đạo: Muốn tìm Chân Đạo, muốn gặp Chân Sư, Tề Thiên Đại Thánh
phải tìm về Phương Thốn Sơn, vào Tà Nguyệt Tam Tinh Động,
mà Phương Thốn Sơn là Tấc Vuông, hay Tấc Lòng, còn Tà Nguyệt
Tam Tinh Động, chính là chữ TÂM, viết bằng nửa vành trăng khuyết
và ba sao rực rỡ.
Trong Hồi 85 của Tây Du, tác giả còn nhắc lại: Tìm
Phật phải tìm ở đáy lòng:
“Phật ở Linh Sơn, vốn chẳng xa,
Linh Sơn kỳ thực, tại lòng ta.
Người người đều có Linh Sơn tháp,
Tu tại Linh Sơn, mới khéo là.”
Thiền Tông tha thiết chủ trương: “Trực Chỉ Nhân
Tâm, kiến Tính thành Phật.”
Các tổ sư thiền học giúp các đệ tử đả thông vấn đề
này bằng câu thoại đầu:
“Bính Đinh đồng tử lai cầu hoả”, Thần
lửa Bính Đinh đến xin lửa.
Lục Tổ Huệ Năng thường đề cập tới bí quyết:
“tìm Phật ở đáy lòng.” Ngài nói:
“Phật tự Tính trung tác,
Mạc hướng thân ngoại cầu.”
Phật do trong Tính khởi lên,
Chớ đừng vất vả, kiếm tìm ngoài thân.
Trong Phẩm Sám Hối, Pháp Bảo Đàn Kinh,
Lục Tổ lại nói: “ Qui y Phật, thì Phật ở nơi đâu? Nếu không thấy
Phật, thì không biết nơi nao tìm về. Hoa Nghiêm Kinh
viết:” Quy y với Phật của mình, chớ chẳng quy y với Phật khác”.
Bồ Đề Đạt Ma Sư Tổ, vị sáng lập Thiền Tông tại
Trung Quốc, là người tha thiết nhất với vấn đề đi vào nội tâm để tìm
Phật Tính, tìm Bồ Đề, Niết Bàn.
Quyển Đạt Ma Huyết Mạch Luận
đã ký thác hoài bão Ngài. Ngài chủ trương:
Bất lập văn tự |
不
立
文
字 |
Trực chỉ nhân tâm |
直
指
人
心 |
Kiến Tính thành Phật |
見
性
成
佛。 |
Lĩnh hội vi ý sách Đạt Ma huyết mạch luận,
ta có thể thâu tóm tư tưởng của Ngài Bồ Đề Đạt bằng mấy
vần thơ sau:
Chân tâm bao quát đất Trời,
Xưa nay, chư Phật chẳng ngoài Chân Tâm.
Chẳng cần lập tự, lập văn,
Xưa nay chư Phật, tâm tâm tương truyền.
Tâm ta gồm mọi nhân duyên,
Mọi đời sau trước, mọi miền gần xa.
Tâm ta là chính Phật Đà,
Phật Đà ở tại tâm ta chẳng rời.
Niết Bàn, Viên Giác, Như Lai,
Ngoài tâm tìm kiểm, công toi, ích gì?
Ngoài tâm, tìm kiếm được chi?
Niết Bàn đâu có lối về ngoài tâm.
Tự Tâm chí chính, chí chân,
Tự Tâm là Phật, Tự Tâm, Niết Bàn.
Ngoài tâm, tìm kiếm đa đoan,
Tay không bắt gió, mơ màng hư vô.
Tâm ta tạo Phật cho ta,
Bỏ tâm tìm Phật, hỏi là tìm đâu,
Phật tâm, tâm Phật trước sau,
Ngoài tâm, tìm Phật, hỏi sao chẳng lầm.
Cho nên phải biết hồi tâm,
Nội quan, quán chiếu mà tầm siêu linh.
Bản Lai Diện Mục của mình,
Muốn tìm thì phải ly hình, nhập tâm.
Khi đã biết rõ căn bản cao siêu của mình, khi đã
nhận thức được Pháp Thân trường tồn trong mình; khi đã biết rõ bộ mặt
thật của vọng tâm, biết rõ thân phận mây trôi, bèo nổi của vọng tâm,
các bậc Chân Tu mới ra công “diệt ngã”. “Diệt Ngã” là “diệt Tiểu
Ngã”, cho Chân Như Đại Ngã hiện ra.
“Diệt Ngã” đây cốt là để:
-Hoà hợp với Bản Thể tuyệt đối.
-Nhất trí với thực tại.
-Đồng thể với Di Đà.
-Khế hợp với Chân Như tuyệt đối.
Diệt Ngã là cốt diệt trừ hết những vọng tưởng,
vọng niệm, diệt trừ hết mọi dây rợ luyến ái bên ngoài, thoát ly hết
mọi giây triền phược, trói buộc mình vào hoàn cảnh và vật chất. Đây là
một thái độ tinh thần trừu tượng, chứ không phải là một sự trốn tránh,
thoát ly vật chất cụ thể. Cho nên, ta có thể diệt ngã ngay giữa lòng
đời, ngay trong chốn phồn hoa, đô hội. Đó tức là sự thanh tịnh, tự do,
tự tại về tinh thần, đó tức là”đắc thiên hạ nhi bất dự yên”
Diệt ngã là vén mây mù tăm tối cho vừng dương muôn
thủa hiện ra, bỏ Sắc Thân mà hiển “Pháp Thân”
bỏ phàm thể mà mặc Thánh Thể.
Như trên đã nói: Chân Như là Bản Thể, là Như Lai
siêu xuất trên hình thức, sắc tướng, siêu xuất trên mọi vọng tưởng,
vọng niệm, cho nên muốn thấy Bản Thể phải lìa bỏ hình tướng, đi ngược
lại dòng tư tưởng, niệm lự; đi sâu vào chỗ dục tình chưa phát xuất;
chỗ tư tưởng chưa manh nha; hư không, trạm tịch mới chứng quả được.
Mượn ý kinh Kim Cương và Đạt Ma Huyết Mạch Luận,
ta phác hoạ phương pháp Tu thân Kiến Tính, Thành Phật như sau:
Hãy rũ bỏ phù vân sắc tướng,
Hãy cố tìm vô thượng Bồ Đề,
Niết Bàn muốn rõ nẻo về,
Đừng nên chấp trước, đam mê luỵ trần.
Con đường giải thoát nội tâm,
Cố suy, cố nghĩ, cố tầm cho ra.
Vọng Tâm cố vén mây mù,
Băng qua hình tướng, vào toà Như Lai.
Nơi Vô Trụ là nơi an lạc,
Pháp Vô Vi là Pháp Thánh Hiền.
Chớ đừng dính líu sụ duyên,
Đừng đem thanh sắc mà phiền Như Lai.
Hãy nhớ kỹ hình hài, sắc tướng,
Đều là tuồng mộng tưởng, mau qua.
Đều là bào ảnh, quang hoa,
Sương vương ngọn cỏ, chớp loà chân mây.
Như Lai chẳng ở đây, ở đó,
Chẳng đi đâu, chẳng có đến đâu.
Như Lai ở sẵn lòng sâu,
Vào sâu tâm khảm mà cầu Như Lai.
Tóm lại, trước sau, chư vị Phật, chư vị Đạt Trí,
Đại Giác đều công nhận rằng: Không thể nào tìm ra được Bản Thể Tuyệt
Đối ngoài vũ trụ và ngoài tâm mình. Bản Thể ấy, Chân Tâm ấy đã lồng
ngay trong lòng vũ trụ, và trong lòng con người. Sự giác ngộ cũng bắt
đầu từ đó, và sự chứng quả cũng tận cùng ở đó.
Cho nên ta có thể mượn lời Đạt Ma tổ sư mà kết
thúc như sau:
Tâm, tâm, tâm,
Tâm kia sao khó, khó sao tầm,
Khi rộng, rộng trùm muôn pháp giới,
Khi thu, thu nhỏ, khó lọt châm.
Ta chỉ tìm tâm, không tìm Phật,
Rũ không tam giới, mới hết lầm.
Phật kia, muốn chứng, muốn tầm,
Muốn tầm ra Phật, ngoài tâm chớ hòng.
Tâm ấy Phật, chớ không đâu nữa,
Phật tính nào, đời thủa ngoài tâm
Tâm sinh, sinh cả cát lầm,
Tâm sinh, tội cũng âm thầm sinh theo.
PHỤ LỤC.
ÍT NHIỀU THI, HỌA TRUYỀN TÂM ẤN.
I
Bồ Đề Bản Tính bản như như |
菩 提 本 性 本 如 如 |
Vạn Pháp thông hề thấu Thái Hư |
萬 法 通 兮 透 太 虛 |
Tự hữu linh minh khai Bát Nhã |
自 有 靈 明 開 般 若 |
Cơ giam lộ xứ hiện Chân Như |
機 緘 露 處 現 真 如 |
Tính Mệnh
Khuê Chỉ, q. Hanh, tr. 1.
Bồ Đề Bản Tính vốn như
như
Vạn pháp suốt qua thấu
Thái Hư.
Sẵn có linh minh khai
Bát Nhã,
Phanh phui then chốt, lộ
Chân Như.
II
Không Chiếu Thiền
Sư vận:
空
照 禪 師 云﹕
Giá cá phân minh giá cá đồng |
這
箇
分
明
這
箇
同 |
Năng bao Thiên Địa vận hư không |
能
包
天
地
運
虛
空 |
Ngã kim trực chỉ chân tâm địa |
我
今
直
指
真
心
地 |
Không tịch linh tri thị bản tông. |
空
寂
靈
知
是
本
宗 |
Tính
Mệnh khuê chỉ, q. Hanh, tr. 9
Chân Như tính ấy, thế nhân đồng,
Bao trùm trời đất, chuyển hư không.
Ta nay chỉ thẳng Chân Tâm địa,
Vắng lặng linh tri, ấy bản tông.
III
Trí Giác Thiền Sư vận:
智 覺 禪 師 云﹕
Bồ tát tòng lai bất ly chân |
菩
薩
從
來
不
離
真 |
Tự gia muội liễu bất tương thân |
自
家昧
了
不
相
親 |
Nhược năng tĩnh tọa hồi quang chiếu |
若
能
靜
坐
回
光
照 |
Tiện kiến sinh tiền cựu chủ nhân |
便
見
生
前
舊
主
人 |
Tính
Mệnh Khuê Chỉ, q. II, tr. 10.
Bồ tát từ xưa chẳng lìa chân,
Tại mình mê muội chẳng thân gần.
Nếu hay tĩnh tọa, hồi quang chiếu,
Liền thấy sinh tiền cựu chủ nhân.
IV
Vô Cấu Tử kệ vân:
無 垢 子 偈 云﹕
Ngũ uẩn sơn đầu nhất đoạn không |
五
蘊
山
頭
一
段
空 |
Đồng môn xuất nhập bất tương phùng |
同
門
出
入
不
相
逢 |
Vô lượng kiếp lai. nhẫm ốc trú |
無
量
劫
來
賃
屋
住 |
Đáo đầu bất thức chủ nhân ông. |
到
頭
不
識
住
人
翁 |
Tính
Mệnh Khuê Chỉ q.2, tr. 11.
Đầu non ngũ uẩn một vừng không,
Vào ra cùng cửa chẳng tương phùng.
Từ bao nhiêu kiết thuê nhà ở,
Tới nay nào biết Chủ Nhân Ông.
V
Chí Công hoà thượng vân:
志 公 和 尚 云﹕
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng |
頓
悟
心
原
開
寶
藏 |
Ẩn hiển linh tung hiện chân tướng |
隱
顯
靈
蹤
現
真
相 |
Độc hành độc tọa thường nguy nguy |
獨
行
獨
坐
常
巍
巍 |
Bá ức hoá thân vô số lượng. |
百
億
化
身
無
數
量 |
Tính
Mệng Khuê Chỉ, q. II, tr. 11
Đốn ngộ nguồn tâm mở bảo tàng,
Bóng hình Chân Tướng hiện diểu mang,
Một mình đi đứng thường nghiêm chỉnh,
Vạn ức hoá thân chẳng thể lường.
VI
Khải Đường thiền sư vân:
凱 堂 禪 師 云 ﹕
Ưng vô sở trụ sinh kỳ tâm |
應
無
所
住
生
其
心 |
Khuếch triệt viên minh, xứ xứ chân. |
廓
徹
圓
明
處
處
真 |
Trực hạ đỉnh môn, khai chính nhãn |
直
下
頂
門
開
正
眼 |
Đại Thiên sa giới, hiện toàn thân. |
大
天
沙
界
現
全
身。 |
Tính
Mệnh Khuê chỉ, q. II, tr. 11.
Nên từ Vô Trụ khởi sinh tâm,
Sáng láng bao la xứ xứ chân.
Ngay dưới đỉnh đầu, khai chính nhãn,
Trăm nghìn thế giới hiện trong thân.
VII
Duy Khoan Thiền Sư vân:
惟 寬 禪 師 云﹕
Khuyến quân học Đạo, mạc tham cầu |
勸
君
學
道
莫
貪
求 |
Vạn sự vô tâm, đạo hợp đầu. |
萬
事
無
心
道
合
頭 |
Vô Tâm, thuỷ thể vô tâm Đạo |
無
心
始
體
無
心
道 |
Thể Đạo Vô Tâm, Đạo dã hưu |
體
道
無
心
道
也
休 |
Tính
Mệnh Khuê Chỉ, q. II, tr. 11
Khuyên ai học Đạo chớ tham cầu,
Đem tâm vô sự hợp Đạo mầu.
Vô Tâm hợp với Vô Tâm Đạo,
Hợp Đạo Vô Tâm, Đạo mới sâu.
VIII
Phật quốc Thiền Sư vân:
佛 國 禪 師 云﹕
Tâm, Tâm tức Phật, Phật tâm, tâm |
心
心
即
佛
佛
心
心 |
Phật, Phật, Tâm, Tâm tức Phật tâm |
佛
佛
心
心
即
佛
心 |
Tâm Phật, ngộ lai vô nhất vật |
心
佛
悟
來
無
一
物 |
Tướng quân chỉ khát vọng mai lâm.
|
將
君
止
渴
望
梅
林 |
Tính Mệnh
Khuê Chỉ, q. II, tr. 10
Tâm Tâm là Phật, Phật là Tâm,
Phật, Phật, Tâm, Tâm, tức Phật Tâm.
Tâm Phật hiểu rồi, còn chi nữa,
Tướng quân đỡ khát, ngó mai lâm.
IX
Viên Ngộ Thiền Sư vân:
圓 悟 禪 師 云﹕
Phật Phật Đạo
đồng, đồng chí Đạo |
佛
佛
道
同
同
至
道 |
Chân Tâm chân khe,á khế Chân Tâm. |
真
心
真
契
契
真
心 |
Khuếch nhiên thấu xuất uy âm ngoại |
廓
然
透
出
威
音
外 |
Địa cửu, thiên trường, hải cánh thâm |
地
久
天
長
海
更
深 |
Tính
Mệnh Khuê Chỉ, q. II, tr. 12
Phật Đạo vô vi, chí Đạo đồng,
Tâm Tâm khế hợp với Chân Không.
Mang nhiên siêu xuất uy âm ngoại,
Trời đất lâu lai, biển thẳm lòng.
X
Trung Phong Thiền Sư vân:
中 峰 禪 師 云﹕
Tùng lai, chí Đạo dữ tâm thân |
從
來
至
道
與
心
親 |
Học đáo vô tâm, đạo tức chân |
學
到
無心
道
即
真 |
Tâm Đạo hữu vô câu mẫn tuyệt |
心
道
有
無
俱
泯 絕 |
Đại thiên thế giới nhất nhàn thân |
大
天
世
界
一
閒
身 |
Tính
Mệnh Khuê Chỉ, q. II, tr. 14.
Xưa nay Chí Đạo với tâm gần,
Học tới Vô Tâm, đạo mới Chân.
Tâm Đạo hữu vô đều rũ sạch,
Muôn ngàn thế giới, một nhàn thân.
XI
Cao tăng Diệu Hư vân:
高 僧 姚 虛 云﹕
Hoàng hoàng nhất cá Chủ Nhân Ông |
惶
惶
一
箇
主
人
翁 |
Tịch nhiên bất động tại Linh Cung. |
寂
然
不
動
在
靈
宮 |
Đãn đắc thử trung vô quải ngại |
但
得
此
中
無
掛
礙 |
Thiên nhiên bản thể tự hư không |
天
然
本
體
自
虛
空 |
Phảng phất mơ màng ấy chủ nhân,
Im lìm, lặng lẽ tại linh cung,
Miễn sao thông tỏ trung tâm ấy,
Thiên nhiên Bản Thể hợp hư không.
HỌA BẢN I
Tứ Đại chuyển vần, vạn vật xoay,
Hình hài, tâm tưởng phút giây thay.
Cố tìm trường tịch trong hư ảo,
Cố tìm bất biến, giữa chuyển lay.
HỌA BẢN II.
Hình Pháp Luân
Giữa muôn hình tướng có Chân Như
Hình tướng hư hoài, Thể chẳng hư.
Tìm thấy Chân Như trong ảo ảnh,
Ấy là Giác Ngộ, thoát phù du.
HỌA BẢN III.
Hình Hoa
Sen
Cánh hoa tuy đẹp, tuy xinh,
Nhưng mà nhân quả, trường sinh ở đài.
Trường sinh chẳng ở hình hài,
Chẳng trong tâm vọng, chẳng ngoài tâm chân.
HỌA BẢN IV.
Liên Tâm ở sẵn trong đầu,
Niết Bàn chớ có tìm đâu ngoài lòng.
HỌA BẢN V.
Sư đệ tứ mục |
師
弟
四
目 |
Tuệ nhãn tương giao |
慧
眼
相
交 |
Ấn chứng Như Lai |
印
証
如
來 |
Truyền y tự tổ |
傳
衣
飼
祖 |
Bốn mắt nhìn nhau chẳng nói năng,
Truyền nhau tuệ nhãn, gửi nhau lòng.
Như Lai siêu xuất trên từ ngữ,
Tâm Ấn tương truyền, “không bất không”.
CHÚ THÍCH
La formule “se tirer de l’impermanence, obtenir la permanence” avait
été le point d’orgue final de tous les discours du Bouddha
Sakyamuni.
Tam chuyển Pháp Luân: 1 Căn Bản Pháp Luân: thuyết Hoa Nghiêm. 2 Chi
mạt pháp luân: Thuyết A Hàm chí Phương Đẳng; 3 Nhiếp mạt qui bản:
Thuyết Pháp Hoa.
Phân biệt Nhất Tâm Chân Như, Nhất Tâm Sinh Diệt là chủ đích của kinh
Lăng Già.
大 我
(đại Ngã) the greater
self, or the true personality
真 我
(chân ngã). Hinayana (tiểu thừa)
is accused of only knowing and denying the common idea of a
self, or soul, whereas there is a greater self, which is a
nirvana self. It specially refers to the Great Ego, the Buddha, but
also to any Buddha...
阿 賴 耶 識
A Lại Da Thức Alaya Vijnana “The receptacle intellect or
consciousness; “the originating of receptacle intelligence”; basic
consciousness (keith)... It is called
第 一 識
Đệ Nhất Thức the prime or supreme mind or
consciousness...無 垢 識
Vô Cấu Thức unsullied consciousness when considered in
the absolute i. e. the Tathagata and đệ bát thức
第 八 識
as the last vijnana. There has been much discussion as to
the meaning and implication of the Alaya-Vijnana. It may be also
termed the unconscious, or unconscious absolute, out of whose
ignorance or unconsciousness arises all consciousness.
弟
兄
八
箇
一
人
痴
只
有
一
箇
最
伶
俐
五箇
門
前
做
買
賣
一
箇
家
中
作
主
依。
Xem Bát thức qui nguyên đồ, tính Mệnh Khuê
Chỉ, q. I, tr, 41.
Phật tính thị thường, thiện ác chư pháp nãi chí Bồ Đề Tâm, giai thị
vô thường. (Niết Bàn kinh, Pháp Bảo Đàn Kinh, Đoàn trung Còn
phiên dịch), Đốn tiệm phẩm, tr. 118.
Lorsque l’Entité Spirituelle s’affranchit pour toujours de toute
particule de matière, de substance ou de forme et redevient un
souffle spirituelle. C’est alors seulement qu’elle entre dans le
Nirvana éternel qui ne change jamais et qui dure, aussi longtemps
que le cycle de vie a duré: une éternité vraiment. Et ce souffle qui
existe en Esprit, n’est rien, parce qu’il est tout; comme forme ou
comme apparence quelconque, il est complètement anéanti; mais comme
Esprit Absolu, il Est, car il est devenu l’Être même. Lorsqu’il
s’agit de l’”âme”, prise dans le sens d’Esprit, l’expression :
“absorbée dans l’Essence Universelle”, signifie “union avec”...il ne
peut jamais être question d’annihilation, car cela voudrait dire
séparation éternelle.
Soit dit en passant que pour avoir ignoré l’importance de la
connexion de ces deux ordres (le phénoménal et le transcendant, le
samsara et le Nirvana) qu’on a si mal compris le Bouddhisme. Car il
faut noter que si le Bouddha a jeté l’anathème sur l’existence
terrestre dans son ensemble (tout est douleur, tout est impermanent,
tout est sans-soi Sarvam Duhkha, sarvam anita, sarvam anatman), il
s’est tout entier tendu vers ce qu’il appelait l’Autre Rive, le
Nirvana.
Toutes les choses conditionnées sont impermanentes...toutes les
choses conditionnées sont dukka
苦
(khổ)... tous les dhammas sont sans soi...
Nguyễn Duy Cần, Phật Học Tinh Hoa, tr. 177-178.
Chấp trước vũ trụ chi hiện tướng nhi bất kiến Bản Thể giả vị chi Mê.
Kiến Bản Thể nhi bất kiến hiện tướng giả, diệc bất đắc vị chi Ngộ.
Hải tín cư sĩ, Quán thế Âm Bồ tát tín luận,
tr. 36.
Walpola Rahula, l’Enseignement du Bouddha,
Chapitre 6: La doctrine du Non-Soi.
Nguyễn Văn Trung, La Conception bouddhique du devenir,
article 3, L’Anatman, ou l’explication bouddhique du
devenir.
... Thuyết Vô Ngã đã được bàn cãi sâu rộng
trong “Na tiên tì kheo kinh” (khoảng thế kỷ V sau công nguyên). đó
là đề tài đối thoại giữa vua Di Lan ( Milanda) và tì khưu Na Tiên
(Nagasena).
“Cái ta” có nhiều nghĩa là “giả ta”, “cái ta” không có tới 2 nghĩa
là “Thật ta”...Nhờ đứng trên cái thuyết vô ngã này, mà người tu giải
thoát được những tướng khổ của “Giả ta”. Bởi cớ sao? Nhận được cái
“ta chân thật bất diệt” là không còn bám víu chạy theo những cái “Ta
giả và sinh diệt” nữa.
Phật Học Tinh Hoa, Nguyễn Duy
Cần, tr. 119-120.
Thủ Lăng Nghiêm kinh quyển I. (Việt Nam Phật Tử hội
xuất bản, tr. 22-23); Thủ Lăng Nghiêm, Linh Sơn phật
học nghiên cứu hội, tr. 55-56.
Phật cáo A Nan: ”Thử thị tiền trần hư vọng tướng, tưởng hoặc nhữ
Chân tính; do nhữ vô thuỷ chí ư kim sinh, nhận tặc vi tử, thất nhữ
nguyên thường, cố thụ luân chuyển.”
Phật ngôn: “Đại Vương, nhữ diện tuy trứu, nhi thử kiến tính vị tằng
trứu; trứu giả vi biến, bất trứu phi biến, biến giả thụ diệt, bỉ bất
biến giả nguyên vô sinh diệt.
Trụ danh chủ nhân. 住
名
主
人Thủ Lăng Nghiêm kinh,
V. N. P. T. H. tr. 33, hoặc Linh Sơn, tr. 75.
Trần chất giao động , hư không tịch nhiên. Như thị tư duy: trường
tịch danh Không, giao động danh trần.
Nguyện văn Như Lai hiển xuất thân tâm, chân vọng, hư thực, hiện tiền
sinh diệt dữ bất sinh diệt nhị phát minh tính.
Thủ Lăng Nghiêm kinh q. 2,
V.N. P. H. tr. 1. -Linh Sôn, tr. 80
Dĩ động vi thân, dĩ động vi cảnh...tính tâm thất chân, nhận vật vi
kỷ, luân hồi thị trung, tự thủ luân chuyển.
Thủ Lăng Nghiêm, q. I, V.N.
P. H 36; & Linh Sôn, 80.
Thất ngã Bổn Tâm, tuy thân xuất gia, tâm bất nhập đạo, thí như cùng
tử, xả phụ đào thệ, kim nhật nãi từ. Tuy hữu đa văn, nhược bất tu
hành, dữ bất văn đẳng, như nhân thuyết thực, chung bất năng bão.
Tổ chi ngộ Bản tính vị Huệ Năng viết: “ Bất thức Bản Tâm, học pháp
vô ích, Nhược thức tự Bản Tâm, kiến tự Bản Tánh, tức danh Trượng
Phu, Thiên , Nhân sư, Phật.”
Thích Đạo Quang, Đại cương Triết học Phật
Giáo, tr. 55.
Như trên, tr. 56 -tr. 94.
現
相
之
我
與
本
體
之
佛,
猶
如
水
與
波。
此
本
體
謂
之
真
如,
亦
謂
之
佛¡
Hiện tượng chi Ngã dữ Bản Thể chi Phật do như
thuỷ dữ ba. Thử Bản Thể vị chi Chân Như, diệc vị chi Phật.
Ngã hiện tượng với Phật Bản Thế là như sóng và
nước. Phật Bản Thể ấy gọi là Chân Như, là Phật.
Léon Wieger,
Histoire des Croyances Religieuses et des opinions philosophiques en
Chine, p. 546.
Pháp Bảo Đàn Kinh (Đoàn trung Còn dịch), Sám Hối Phẩm,
tr. 61.
Tam điểm như tinh tượng |
三
點
如
星
象 |
Hoành câu tự nguyệt tà |
橫
鉤
似
月
斜 |
Phi mao tòng thử đắc |
披
毛
從
此
得 |
Tác Phật cánh vô tha. |
作
佛
更
無
他。 |
Long lanh ba chấm tựa sao,
Mình cong vầng nguyệt, tiêu hao xế tà.
Muông chim nguồn ấy phát ra,
Duyên do Thần Phật cũng là đấy thôi.
Diệu Pháp liên hoa quyển thứ 4. Phẩm ngũ bá đệ tử thụ
ký, kệ của A Nhã Kiều Trần Như. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,
Liên Hải Phật Học Trường, tr. 243.
Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm Tín Giải. Kệ của Ma Ha Ca
Diếp. Người cùng tử của Ông Trưởng giả). Diệu Pháp Liên Hoa,
Liên Hải
ĐĐ Thiên Ân, Triết Học Zen I, tr. 162.
云
何
自
疑
汝
之
真
性,
性
汝
不
真,
取
我
求
實。
Vân hà tự nghi nhữ chi Chân Tính, Tính nhữ
bất chân, thủ Ngã cầu thực.
...O Ananda, soyez des lampes pour vous-même,
soyez un refuge pour vous-même; ne cherchez pas d’autre refuge.
Prenez la vérité comme lampe, prenez la vérité comme refuge. Ne
cherchez pas d’autre refuge qu’en vous-même. (Mahaparinibhana
sutta-Niết Bàn kinh -Présence du Bouddhisme, p. 539.)
十
箇
大
字
乃
是 ﹕靈
檯
方
寸
山,
斜
月
三
星
洞。
Giá cá Thập Đại Tự nãi thị: Linh Đài Phương
Thốn Sơn, Tà Nguyêt Tam Tinh Động. (Tây Du, hồi 1)
Phật tại Linh Sơn, mạc viễn cầu |
佛
在
靈
山
莫
遠
求 |
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. |
靈
山
之
在
汝
心
頭 |
Nhân Nhân hữu cá Linh Sơn tháp |
人
人
有
箇
靈
山
塔 |
Hảo hướng Linh Sơn tháp tự tu. |
好
向
靈
山
塔
自
修. |
Không nên hướng ngoại mà tìm cầu, trái lại, cần phải hướng về nội
Tâm để tìm Phật Tính. (Truyền Tâm Pháp của Hoàng Bích Thiền
Sư. ĐĐ. Thích Thiên Ân, Triết học Zen II, tr.
25)
...Tự Tâm của ngươi là Phật, Phật là tự tâm của
ngươi. Tâm và Phật không sai biệt, vì thế cổ nhân nói: Tự Tâm tức
Phật. (Truyền Tâm Pháp Yếu. Cf. ĐĐ Thích Thiên Ân,
Triết học Zen, II, tr. 54.)
...Trong Tâm Tính của mọi loài chúng sinh vốn
đầy đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai. Nhưng nếu không thật tu, thì
không bao giờ hiển hiện, không thật chứng, không thể nào hoạch đắc.
Chánh Pháp Nhãn Tàng, Biện Đạo thoại.
ĐĐ. Thiên Ân, Triết học Zen, II, tr. 87.
...Giáo Lý đã nói: Chân ở trong Vọng. Vậy tìm
Chân Tâm ở ngoài thân và tư tưởng của mình, là không thể được.
丙 丁童 子 來 求 火。
ĐĐ Thích Thiên Ân, Triết Học Zen, II,
tr. 55 và tiếp theo.
佛 自 性 中 作, 莫 向 身 外 求。
本
性
是
佛,
離
性
無
別
佛。
Nhược nhiên qui y Phật, Phật tại hà xứ? Nhược bất kiến Phật, bằng hà
sở qui... Kinh văn phân minh ngôn tự qui y Phật, bất ngôn qui y tha
Phật.
若
然
歸
依
佛,
佛
在
何
處。
若
不
見
佛,
憑
何
所
歸。
經
文
分
明
言﹕
自
歸
依
佛,
不
言
歸
依
他
佛。
Le Nibbana “doit être réalisé par les Sages au-dedans d’eux-mêmes.
(paccattam veditabbo vinnuhi).-Présence du Bouddhisme,
p. 268.
Xin xem Léon Wieger, Histoire des Croyances
Religieuses et des Opinions Philosophiques en Chine, p. 524
et ss.
Léon Wieger , Histoire des Croyances Religieuses... p.
524 et ss.
三
界
本
起
同
歸 ㄧ
心。
先
佛
後
佛
以
心
傳
心
不
立
文
字。。。
從
無
始
曠
中j
劫
來,
乃
至
施
為
運
動 ㄧ
切
時
中, ㄧ
切
處
所
皆
是
汝
本
心,
皆
是
汝
本
佛。
Tam giới bổn khởi đồng qui nhất tâm. Tiên Phật,
hậu Phật dĩ tâm truyền tâm, bất lập văn tự...Tòng vô thuỷ khoáng đại
kiếp lai, nãi chí thi vi, vận dộng, nhất thiết thời trung, nhất
thiết xứ sở, giai thị nhữ bổn tâm, giai thị nhữ bổn Phật.
...Le monde tout entier est pensé dans le
coeur. Tous les Bouddhas, passés et futurs ont été et seront formés
dans le coeur. La connaissance se transmet de coeur à coeur, par la
parole. A quoi bon, tous les écrits? Le coeur de chaque homme
communie à ce qui fut tous les temps, à ce qui est tous les lieux..
即
心
是
佛,亦
復
如
是。
除
此
心
外,
覓
菩
提,涅
槃
無
有
是
處。
自
性
真
凳瞗A非
因
非
果
法,
即
是
心
義。
Tức tâm thị Phật, diệc phục như thị. Trừ thử
tâm ngoại, mích Bồ Đề, Niết Bàn vô hữu thị xứ. Tự Tính chân thật,
phi nhân, phi quả pháp, tức thị tâm nghĩa.
...Le coeur est le bouddha. Il n’y a pas de
Bouddha en dehors du coeur. Considérer l’illumination et le nirvana
comme des choses extérieures au coeur, c’est une erreur. Il n’y a
pas d’illumination en dehors du coeur vivant. Il n’y a pas de lieux
où se trouvent des êtres nirvanés. Hors la réalité du coeur, tout
est imaginaire...Il n’y a pas de causes, il n’y a pas d’effets. Il
n’y a d’activité que la pensée du coeur, et son repos, c’est le
Nirvana. Chercher quelque chose en dehors de son coeur, serait
vouloir saisir le vide. Le Bouddha , chacun le crée dans son coeur
par sa pensée. Le coeur est Bouddha, Bouddha c’est le coeur.
若
言
心
外
有
佛,
求
菩
提
可
得
無
有
是
處。
佛
及
菩
提
皆
在
何
處?
譬
如
有
人
以
手
提
虛
空,
得
否?
除
此
,
心
外
見
佛,
終
不
得
也。。。
心
即
是
丞佛,佛
即
是
心。
心
外
既
無
佛,
何
起
佛
見?
際
相
誑
惑。。。
若 欲 見 佛 見 性 即 是 佛。
Nhược ngôn tâm ngoại hữu Phật, cầu Bồ Đề khả
đắc, vô hữu thị xứ. Phật cập Bồ Đề giai tại hà xứ? Thí như hữu nhân,
dĩ thủ đề hư không, đắc phủ. .. Trừ thử , tâm ngoại kiến Phật, chung
bất đắc dã...Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm, tâm ngoại ký vô
Phật, hà khởi Phật kiến? Tế tương cuống hoặc... Nhược dục kiến Phật,
kiến tính tức thị Phật.
...Imaginer un Bouddha en dehors du coeur, se
figurer qu’on le voit en un lieu extérieur, c’est du délire. Donc il
faut tourner son regard , non vers le dehors, mais vers le dedans,
il faut le concentrer en soi-même, et contempler en soi sa
bouddhaité.
Ở nơi mỗi người, nếu cái Vọng Tâm sinh, thì cái Chân Tâm phải ẩn,
nhưng nó lại ẩn trong cái Vọng Tâm. Còn khi cái Chân Tâm hiện ra,
thì cái Vọng Tâm phải mất, nhưng nó lại mất trong Chân Tâm.
Hải Tín Cư Sĩ, Quán Thế Âm Bồ Tát Tín
Luận, tr. 46.
...Trong cái bản ngã nhỏ hẹp, chúng ta phát huy
cái Đại Ngã rộng lớn.
Thích Đạo Quang, Đại Cương Triết Học Phật
Giáo, tr. 56.
Di Đà đồng thể. Như trên, tr. 54.
Luận Ngữ, Thái Bá đệ Bát, tiết 18.
Pháp Thân = Corps mystique.
... Sư viết: Ký nhược bất biệt, tức thử thân
thị nhữ bổn Pháp Thân; tức thử nhữ bổn Pháp Thân thị nhữ bổn tâm.
Thử tâm tòng vô thỉ khoáng đại kiếp lai, dữ như
kim bất biệt; vị thường hữu sinh tử; bất sinh, bất diệt; bất cấu,
bất tịnh; bất hảo, bất ác; bất lai, bất khứ; diệc vô thị phi; diệc
vô nam, nữ tướng; diệc vô tăng tục, lão thiếu; vô thánh, vô phàm;
diệc vô Phật; diệc vô chúng sinh; diệc vô tu chứng; diệc vô nhân
quả; diệc vô cân lực, diệc vô tướng mạo; do như hư không; thủ bất
đắc; xả bất đắc; sơn hà thạch bích, bất năng vi ngại; xuất một, vãng
lai, tự tại, thần thông...
Thánh Thể = Le Saint Corps.
...Nhược trí huệ minh liễu, thử tâm hiệu danh
Pháp Tính, diệc danh Giải Thoát Sinh Tử, Bất Câu Nhất Thiết Pháp,
Câu Đà Bất Đắc; thị danh Đại Tự Tại Vương Như Lai, diệc danh Bất Tư
Nghị; diệc danh Thánh Thể; diệc danh Trường Sinh Bất Tử; diệc danh
Đại Tiên. Danh tuy bất đồng, Thể tức thị nhất.
Thánh nhân chủng chủng phân biệt, giai bất ly
Tự Tâm.
Phật cáo Tu Bồ Đề: Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến
chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai. .. (Phật bảo Tu Bồ Đề: Phàm
cái gì có tướng đều là hư dối. Nếu thấy các tướng chảng phải tướng,
tức là thấy Như Lai.)
...Ly nhất thiết tướng, tức danh chư Phật.
(Thoát ly mọi hình thức, sắc tướng tức gọi chư Phật.)
...Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến.
Phật cáo Tu Bồ Đề: Phàm sở hữu
tướng, giai thị hư vọng.
Tự tâm thị Niết Bàn. Nhược ngôn tâm ngoại hữu Phật, cầu Bồ Đề khả
đắc, vô hữu thị xứ.
Minh tâm kiến Tánh, nhược bất kiến Tánh, đắc thành Phật Đạo, vô hữu
thị xứ.
Ly nhất thiết chư tướng, tức danh chư Phật.
68 Ưng vô sở trụ nhi
sinh kỳ tâm.
Nhất thiết hiền thánh giai dĩ vô vi pháp, nhi hữu sai biệt.
Nhược dĩ sắc kiến Ngã, dĩ âm thanh cầu Ngã, thị nhân hành tà đạo bất
năng kiến Như Lai.
Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào ảnh, như lộ, diệc như
điện, ưng tác như thị quán. (Tất cả các pháp hữu vi như mộng huyễn,
bọt bóng, như sương và như chớp, nên quan sát như thế.)
Như Lai giả vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai. (Như
Lai không từ đâu đến, cũng không đi đâu, nên gọi là Như Lai. = Pháp
Thân là Bản Lai Thường Trụ, không chỗ xuất hiện, không chỗ nhập
diệt)
心,
心,
心
難
可
尋,
寬
時
遍
法
界,
隙
也不
容
針
我
本求
心,
不
求
佛
了
知
三
界
空
無
物。
若
欲
求
佛,
但
求
心,
只
這
心
這
心
是
佛。
我
本
求
心,
心
自
知,
求
心
不
得,
待
心
知。
佛
性
不
從
心
外
得,
心
生
便
是
罪
生
時。
Tâm, tâm, tâm,
Tâm nan khả tầm,
Khoan thời biến pháp giới,
Khích dã bất dung châm.
Ngã bổn cầu tâm, bất cầu Phật,
Liễu tri tam giới, không vô vật.
Nhược dục cầu Phật, đãn cầu tâm,
Chỉ giá tâm; giá tâm thị Phật.
Ngã bổn cầu Tâm, tâm tự tri,
Cầu Tâm bất đắc, đãi Tâm tri,
Phật tính bất tòng tâm ngoại đắc,
Tâm sinh tiện thị tội sinh thì.
Hình hoa sen phóng tác nhân bài thơ
Linh Sơn niêm hoa |
靈
山
黏
花 |
Tung Sơn đắc tủy |
嵩
山
得
髓 |
Hoàng Mai truyền y, |
黃
梅
傳
衣 |
Đông Sơn diên thọ |
東
山
延
壽。 |
Dịch: “Niêm hoa ở núi Linh Sơn, Ngộ Đạo ở núi
Tung Sơn, truyền y bát ở đất Hoàng Mai, trực tiếp diên thọ ở núi
Đông Sơn.”
Trong kinh Đại Phạm Thiên, vấn Phật quyết nghi,
có chép: “ khi mà Phật ở trên Pháp Hội Linh Sơn (Grdhrakuta), có vị
Đại Phạm Thiên (Mahabrahman: cõi trời thứ ba trong sơ thiền) có dâng
hoa sen sắc vàng, cầu thỉnh Phật thuyết Pháp. Nhưng Phật chỉ nắm hoa
không nói một câu nào. Đại chúng trong Pháp Hội đó không ai hiểu ý
Phật, nên tất cả đều im lặng, và chỉ có Ông Ma Ha Ca Diếp mỉn cười.
Phật dạy: Ta có Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn Diệu Tâm phó thác cho
Ông Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa).” “Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn
Diệu Tâm” là Diệu Tâm (Chân Trí), nhận rõ Diệu Lý (Chân Lý) của vũ
trụ.
Hình trích trong quyển Foundation of the Tibetan Mysticism của
Anagarita Govinda -Charles Andrieu đã dịch ra Pháp Vân, dưới nhan đề
Les Fondements de la Mystique Tibétaine.
Hình vẽ ngụ ý: Ngọc châu viên giác hay Tuyệt
Đối Thể ở sẵn ngay trong Liên Hoa, tức là trong Trung Tâm Não Bộ con
người.
Chữ Nho 2 bên:
Bên trái, dòng 1: Tam thế Phật tổ truyền Tâm
Ấn, tứ mục tương cố thái phân minh.
Dòng 2: Viên Đồng Thái Hư.
Bên Phải, dòng 3: Bồ Đề Tâm Ấn.
Bên Phải, dòng 4: Thái Hư nhất bản, vạn trường
linh, tâm ấn nhân nhân nguyên tự thành.
Tài liệu và hính vẽ rút trong quyển: Trần
Triều Dật Tôn Phật Điển lục. Thượng sĩ Ngữ lục (Trúc Lâm Thượng sĩ
ngữ lục) tr. 6. Việt Nam Phật Điển tùng khan. Thư Viện
Khảo cổ, số VD 2/6b.
Đó cũng là Tâm Ấn của Thiền Tông trong Thập
Ngưu Đồ, nhan đề là Song Dẫn, (Phật Học Tinh Hoa, Nguyễn Duy Cần tr.
303). Đó tức là đã tiến tới “Tất cảnh Không”, hoà đồng, hợp nhất với
Chân Nguyên (Chân Tâm) không còn chút chi phân biệt.