TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29
30
31
32
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
CHƯƠNG XXX.
TINH HOA HỒI GIÁO.
Hồi Giáo hay đạo Mahomed (Islam, Mohammeda-nism), là
do Giáo Chủ Mohammed thừa lệnh đức Allah, sáng lập ra.
Hồi Giáo là một tôn giáo lớn trong thiên hạ. Theo
một thống kê vào năm 1990, thì số giáo dân Hồi nay là:
Phi Châu: 263.132.000.
Á Châu: 608.500.000.
Âu Châu: 46.460.000.
Nam Mỹ: 1.200.000.
Bắc Mỹ: 5.200.000.
Úc Châu: 99.500.
Toàn cầu: 924. 611.500.
Ngang ngửa với Công Giáo La Mã: 971. 702.000.
Mohammed (Muhammad, Mahomed) sinh năm 571 công
nguyên, mất năm 632. Lập đạo năm 622 tại Medina và Mecca, trong xứ Saudi
Arabia. Đạo Hồi tiến rất mau. Chỉ một thế kỷ sau, mà Hồi giáo đã từ
Arabie, tiến tới Tây Ban Nha, và biên giới Ấn Độ.
Hồi giáo là Đạo Độc Thần. Sourate 112, kinh
Koran tuyên bố: Hãy nói: Chúa là Chúa một, là Chúa đời đời,
không sinh ra ai, và cũng chẳng ai sinh ra mình, không ai bằng Ngài.
Mohammed cho rằng câu trên đã bằng một phần ba
kinh Koran.
Tôn ChỈ ĐẠo.
Những người theo Hồi Giáo tuyệt đối phục tòng Allah.
*Họ giữ Giáo Điều (Iman).
* Ăn ngay, ở lành (Ihsan.-Right Conduct).
* Giữ giáo luật (�ibadad).
Giáo Điều quan trọng nhất là câu: Không ai
bằng Allah. (la ilaha illa Allah). Allah có 99 tên.
Ăn ngay ở lành:
Phải đối xử huynh đệ với nhau, phải trọng nữ quyền,
không rượu chè, cờ bạc, thương xót người cô quả, không hiếp đáp họ,
thương xót kẻ già yếu, người bần cùng, nghèo khổ v.v...
Giáo Luật.
Giáo Luật Hồi Giáo có 5 điều gọi là 5 cột trụ (“Five
Pillars”= Al-arkan).
1. Nhắc lại đức Tin (Shahada):
La ilaha illa Allah; Muhammad rasul Allah:
Không có Chúa nào ngoài Allah; Mahommed là tiên tri của Allah.
2. Kinh (Salad).
Ngượi khen Chúa muôn loài,
Đấng lân tuất, nhân từ.
Đấng phán xét thiên hạ.
Chúng con chỉ thờ Ngài,
Chỉ xin Ngài giúp đỡ.
Xin dẫn chúng con trên đường ngay,
Đường của những người Ngài chúc phúc,
Không phải đường của những người ngài giận ghét.
Không phải đường của kẻ lầm sai. (Koran
Sura I)
Một ngày 5 lần phải đọc kinh như vậy: Sáng sớm,
trưa, giữa chiều, lúc mặt trời lặn, lúc chập tối.
Đi đâu giáo hữu cũng phải đem theo thảm để trải đọc
kinh. Trước khi đọc kinh, phải rửa chân tay, mặt mũi. Ở sa mạc, thì rửa
bằng cát. Đọc kinh, phải lạy về hướng Mecca.
Nam giáo hữu, mỗi thứ Sáu, vào buổi trưa hay tối,
phải đọc kinh chung tại đền thờ, do một Imam hướng dẫn.
Sau buổi kinh, Imam có thể giảng giáo lý.
3. Bố thí. (Zakat).
Bố thí là làm phúc cho người nghèo khó. Bố
thí là tuỳ hỉ, không còn được coi là một loại thuế.
4. Ăn chay trong tháng Ramadan.
Trừ người dau ốm còn ai cũng phải ăn chay trong
tháng Ramadan (tháng 9, theo lịch Hồi giáo) từ bình minh đến mặt trời
lặn, không được làm tình, không được ăn hay uống bất cứ vật gì.
5. Hành Hương. (Hajj)
Ai cũng nên hành hương Mecca, trong cuộc đời mình,
nhất là vào tháng Dhu-Al-Hijja (Tháng 12, Hồi Giáo), để cùng mọi người
đi quanh đá Ka’ba.
Quang Cảnh Hajj
Hồi giáo chủ trương độc thần. Allah tạo nên vũ trụ.
Dưới Allah còn các thiên thần như Gabriel, Michael, Raphael, và Uriel,
và các tiên tri như Adam, Noah, Abraham, Moise, Jesus và Mohammed.
Mohammed là tiên tri lớn nhất. Hồi giáo tin có ngày phán xét chung, tin
thiên đàng, địa ngục. Koran là Thánh Thư cao siêu nhất.
Ngoài Koran, còn có phần truyền khẩu, gọi là Hadith.
Hồi giáo cấm ăn thịt heo. Hồi giáo cho phép giáo hữu lấy bốn vợ.
Mohammed có 11 bà vợ.
Hồi giáo muốn điều hoà cách giao tiếp giữa Trời,
Người và giữa con người với con người. Luật Hồi Giáo Shari’ah bao
quát gia đình, thương mại, hình án v.v...
Hồi giáo sau trước là bất biến. Trước sau như một.
Các Giáo Phái.
Mohammed xưa tiên đoán sau sẽ có 72 giáo phái. Nhưng
giáo phái chính không nhiều. Ta thấy có:
1. Giáo phái Kharijites.
2. Giáo phái Mu’tazilites (Mo’tazilites.)
3. Murijites.
4. Chiites ( Shiites, sau chia thành Imamis,
Ismaéliens, Zaidis, Twelvers v.v...).
5. Sunnis (Sunnites.)
6. Soufism (Sufism cũng nằm trong
Shiites).
Khi Mohammed mất năm 832, thì Abu Bekhr (d. 633),
Omar (634-644) Othman ( 644-656) và
1. Ali (d. 661) lên thay.
Sau đó là:
2. Al-Hasan (d. 669)
3. Al-Husain (d. 680)
4. Alizain-Al-’Abidin (d. 712): Zaidites Zaid
5. Muhammad Al Baqir (d. 731)
6. Jafar Al Sadiq (d. 765): Ismailites
Ismail (d. 760)
7. Musa Al Kazim (d.797)
8. Ali Al-Rida (d. 818)
9. Muhammad Al -Jawad (d. 835)
10. Ali Al-Hadi (d.868)
11.Al-Hasan Al-’Askari (d. 874)
12. Muhammad Al-Muntazar. (d. 878)
Các giáo phái nói trên thường tranh cãi xem ai là
người chính thức thừa kế Mohammed.
Phái Sunnites công nhận Abu Bekhr, Omar Othman và
Ali. Phái Shiites nhận con cháu Ali là những người thừa kế chính thức.
Còn gíao phái Zaidites chỉ nhận Zaid là giáo chủ thứ 5, chứ không phải
là Muhammad al-Baqir. Còn phái Ismaelites nhận Ismail là giáo chủ thứ 6
thay vì Jafar Al-Sadiq. Trên đây là danh sách 12 giáo chủ mà nhóm
Shi’ites công nhận. Những chi tiết này không liên quan gì đến ta.
Duy giáo phái Sufi là một giáo phái có tư tưởng
phóng khóang nhất, có nhiều danh nhân nhất, cởi mở nhất, nên ta sẽ đặc
biệt nghiên cứu.
Sufism (phái BẠch Y).
Hồi giáo như Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo là Đạo
Độc Thần tin rằng không ai bằng Thượng đế, Thượng đế ở ngoài muôn
vật.
Sufism, ngược lại, tin như các Mật Tông, Mật Giáo
rằng Thượng đế ở sẵn trong lòng muôn vật, là tinh hoa muôn vật và
con người lúc chung cuộc có thể sống phối kết với Thượng đế.
Ba đạo giáo trên (Hồi giáo, Thiên Chúa Giáo, Do Thái
Giáo) tin vào thuyết Tạo dựng, cho rằng Chúa tạo dựng nên Trời
đất bởi không.
Còn Sufism tin rằng Chúa tạo nên Trời Đất bằng
chính bản thể mình. Sufism tin vào Thuyết Thiên địa vạn vật đồng
nhất thể.
Ngày nay, thế giới bắt đầu chuyển hướng và tin rằng
Thượng Đế là Bản Thể con người, không coi Thiên Chúa là một nhân vật
tách rời khỏi vũ trụ nữa.
Những người chủ xướng học thuyết này là Giám Mục ở
Woolwich, John A. T. Robinson, tác giả quyển Honest to God,
và nhà thần học Tillich. Đó là một chuyển hướng đạo giáo vô cùng quan
trọng.
Sufism là gì?
Sufism là mặt trong của Hồi giáo. “Sufism là dòng
nước ngầm, chảy qua mọi tôn giáo. Đó là sự hiểu biết về Nhất thể -muốn
gọi Nhất thể đó là gì cũng được: Đó là Sự Khôn Ngoan, là Ánh Sáng, là
Tình Yêu, hay là Hư Vô.”
Phái Bạch Y chống đối lễ nghi, hình thức bên ngoài,
chống lại sự sa đoạ, thối nát của xã hội bệnh hoạn và vật chất bên
ngoài. Bạch y đối đầu với sự cao ngạo, tàn nhẫn, mị dân, hình hạc, bất
nhân. Môn phái Bạch Y muốn con người sống đời sống tinh thần ngây thơ,
thuần khiết, sung sướng, hoà hài của buổi ban sơ. Phái Bạch Y muốn con
người mở mắt ra và nhận thấy rằng ích kỷ, kiêu căng, tham lam, tranh
chấp là điên cuồng.
Có người cho rằng Bạch Y là đề cao nhân phẩm, là
khoan dung, là hoà hợp, là chống giáo điều, là tính yêu nhân loại, là
huynh đệ tinh thần.
Có người lại cho rằng Bạch Y là những người mơ mộng,
chống đối, mua việc, thích rây vào chuyện Giáo Hội, và chuyện chính trị.
Bạch Y tự hỏi là mục đích giáo hội là hợp nhất, là
làm cho mọi dân tộc và mọi người thương yêu nhau, coi nhau như anh em
hay là chia rẽ, là hành hạ, là đổ máu kẻ vô tội trong những trận chiến
vô ích, và phạm nhiều tội ác nhân danh Allah?
Bạch Y dạy
phải đi vào tâm mà tìm Đạo, tìm Trời.
Phái Bạch Y tin rằng Chúa ở mọi nơi, và lúc nào cũng
sống kết hợp với Đạo, với Trời. Họ hoà hợp Trời, Người và lấp hố sâu
giữa Trời Người. Bao giờ họ cũng tuyên xưng là chính thống Hồi Giáo,
nhưng thực ra họ phá bỏ nền tảng Hồi Giáo. Họ khinh thường luật lệ, lễ
nghi hình thức, và sự giả hình của hàng giáo phẩm. Họ chỉ tin vào sự
giác ngộ.
Hàng Giáo Phẩm Hồi giáo coi họ là những tấm gương
xấu, phá hại dân tộc, luật pháp, xã hội.
Nhưng môn phái này đã đem lại cho Ba tư một nền văn
chương và một chủ thuyết Đại Đồng và Tình Yêu, và đã đóng góp nhiều cho
Ba Tư.
Bạch Y dạy chúng ta phải tìm hiểu mình, vì biết mình
là biết Chúa.
Baba Kuhi ở Shira (chết
1050) có bài thơ mà tôi phỏng dịch như sau:
Ở ngoài chợ, ở trong dòng,
Ở đâu cùng thấy thuần ròng Chúa thôi.
Xuống khe, lên núi, lên đồi,
Ở đâu cũng thấy Chúa tôi tràn đầy.
Giàu sang, nghèo khó tuy thay,
Bao giờ cũng thấy Chúa ngay bên mình.
Dù khi tĩnh tọa, cầu kinh,
Ăn chay, giữ giới, thấy mình Chúa thôi.
Bất kỳ hay dở trên đời,
Truy nguyên vẫn thấy Chúa tôi rành rành.
Mở to đôi mắt nhìn quanh,
Trông gì cũng thấy hóa thành Chúa thôi!
Nến tôi thắp cháy lửa Ngài,
Hào quang vừa tỏa, Chúa tôi hiện hình,
Mượn đôi mắt Chúa nhìn quanh,
Bỏ đôi mắt tục, vẫn rành Chúa thôi.
Giã từ hiện tượng hình hài,
Lạ sao vẫn thấy Chúa tôi như thường.
Tưởng mình tan biến, hư vương,
Nào hay mình vẫn miên trường, vô biên.
Rumi,
một thánh nhân Hồi giáo khác, cũng dứt khoát cho rằng chỉ có thể tìm
thấy Chúa trong tâm hồn con người mà thôi. Ông có thơ sau:
Tôi lục lạo khắp cùng Thiên Chúa Giáo,
Thánh giá nhìn lên, tôi thấy nó trống không!
Tăm tích Ngài, sao tôi thấy vẫn mịt mùng!
Tôi lang thang trong chùa chiền, miếu mạo,
Ngài ở đâu, sao chẳng thấy hình dung?
Đá Kaaba, tôi quanh quất, ruổi rong,
Đô hội ấy, mà sao Ngài vắng bóng!
Tâm hồn tôi, tôi nhìn tận bên trong,
Ôi lạ thay, kìa sao Ngài ở đó!
Thần trí tôi bỗng mãnh liệt động rung,
Rũ sạch hết bụi trần gây chia rẽ...
Môn phái Bạch Y (Mật Tông Hồi giáo) ra đời vào
khoảng thế kỷ 2. Dạy con người có thể kết hợp với Trời qua những giai
đoạn như thống hối, hãm mình, bỏ mình, sống nghèo khó, nhẫn nhục, tin
tưởng v. v...
Họ tin rằng con người có thể tiến tới thần minh, tu
luyện thành thần minh và sống kết hợp với Đấng Tối Cao, sống hòa mình
với Đại Thể vũ trụ. Quan niệm này cũng tương đương như quan niệm nhập
Niết Bàn của Phật Giáo, hay hòa mình với Brahman của Ấn Giáo.
Môn phái này cũng chủ trương thuyết : Thuyết
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Có người cho rằng tư tưởng trên có
thể thấy trong vài đoạn thánh kinh Coran của Hồi Giáo, nhưng thực ra đã
vay mượn ở những trào lưu ngoài đạo Hồi như Huyền Học Thiên Chúa Giáo
(Catholic Mysticism), môn phái Tân Bá Lạp đồ (Néo-Platonism), Denys
l'Aréopagite, môn phái Viên Giác (Gnosticism), môn phái Mandeism,
Manicheism v.v...
Trong quyển Histoire du Caodaisme của Gabriel
Gobron có toát lược tư tưởng môn phái này như sau: ông Ben Aliona vị
giáo chủ gần ta nhất (ông chết năm 1934) chủ trương phối hợp đạo Maisen,
Bái Hỏa, Công Giáo, Hồi giáo. Ông dạy như sau:
Thượng đế là duy nhất. Vũ trụ này là những bức
màn che thế giới vô cùng.
Vũ trụ này được phóng phát ra từ Thượng đế. Chỉ
những tâm hồn đặc biệt mới hiểu điều sâu nhiệm (bathen) ẩn áo này
(sirr), chứ không phải là thế giới này được tạo dựng nên, như
người tầm thường (foqara) đã tưởng. Và như vậy, Thượng đế đã ở trong ta
(ai biết mình, sẽ biết Chúa, ai chịu tìm hiểu mình, sẽ tiến gần Chúa.
Phải được giác ngộ (icrhraq) như mọi danh nhân Hồi Giáo đã chủ xướng.
Phái Sufism cho rằng: Dẫu bao nhiêu tiên tri cũng
chỉ là một người. Họ đều là những tàn lửa do một ngọn lửa.
Gobron nhận định thêm: Khi tiến tới một trình độ tâm
linh cao siêu, các bậc đạo cao đức cả vượt lên trên những người thường,
và coi nhau như là những người bạn của Thiên Chúa. Họ thành khẩn kết bạn
với nhau.
Môn phái này muốn mọi người thương yêu nhau thật sự
như sách Zohar của Do Thái hay sách Ennéades của Plotinus đã dạy.
Và đây là lời lẽ toát lược sự hóa kiếp của con
người, thành bản thể Trời: “
Trò tới nhà thày, gõ cửa.
Không ai trả lời.
Trò gõ lại.
Trong hỏi: Ai đó? Tôi đây.
Không ai trả lời. Cửa không
mở.
Lát sau, trò gọi lại.
Trong hỏi: Ai đó? Ông đây.
Và lần này cửa mở.
Như vậy, khi tính người tan biến, còn nguyên có
tính Trời, thì Thánh Hiền Hồi giáo gọi là fana, khi tâm hồn sống động
bởi Chúa, hay nói cách khác, khi Chúa hoạt động trong tâm hồn, thì họ
gọi là trạng thái Baqa. Như vậy Phối Thiên là rũ bỏ Nhân Tính,
phục hồi Thiên Tính.
Giai đoạn biến hoá cuối cùng
của con người là biến thành Trời như Mansur Hallaj nói:
Ta cùng với đấng ta yêu,
Hai đằng là một, khôn chiều qua phân.
Một thân mà có hai thần,
Thấy ta, thấy Chúa cũng ngần ấy thôi.
Bayazid of Bistam (d. 875) nói: “Dưới lớp áo của
tôi, không có gì ngoài Chúa.”
Tóm lại, Bạch Y không tìm kiếm gì ngoài Thượng Đế. “Tất
cả nói năng, xôn xao, hình thức, lễ nghi, tập tục, ước mơ đều là những
gì ngoài Chúa, hãy vén bức màn nhị nguyên đó lên, bạn sẽ thấy còn thuần
vui vẻ, tĩnh lãng, đẹp đẽ, yên nghỉ. Khi bạn đã kết hợp với đấng mình
yêu, thì không còn gì là cấm kỵ, nên không nữa.
Xuất xứ Bạch Y.
Bạch Y cho rằng mình xuất xứ từ
Kinh Koran. Nhưng thực ra không phải. Trong
Koran có rất ít câu nói Trời chẳng xa người. Hoạ chăng chỉ có
câu này: “Thực ra, ta đã tạo nên con người. Ta biết hồn nó than van
cái gì. Ta gần nó hơn tĩnh mạch cổ của nó.”
Thực ra Thánh Hiền phái Bạch Y, có thể đã vay mượn
những tư tưởng trên trong các sách viết về Đạo Huyền Đồng (Mysticism) du
nhập vào Ba Tư, như sách Enneads của Plotinus, như sách
Niomachus của Pythagoras, như sách Poimandres
của Hermes v.v...
Cũng có
thể là chính các Ngài đã sáng tạo nên những tư tưởng đó
Ít nhiều thánh hiền phái Bạch Y.
Bạch Y có nhiều thánh hiền. Ta kể ít nhiều
vị:
-Shabastari.
-Dhul Nun.
-Bayazid of Bistam (d. 875) thường xưng mình là
Thượng đế.
-Baba Kuhi of Shiraz (d. A.D. 1050).
-Hussein Ibn Mansur Hallaj (d. 922), bị xử tử
trên thập giá, vì dám xưng mình là Thượng Đế.
-Jalal-ud-din Rumi (d. 1273)
-Ibn-i-Yamin.
-Ibni Arabi (born in Spain in A.D. 1165)
-Al-Ghazzali (1059-1111), nhà thần học nổi
tiếng của Hồi giáo.
Tổng luận về Bạch Y.
Bạch Y là một giáo phái hết sức đẹp đẽ. Nó không
phân màu da, sắc áo, chủng tộc, biên cương, bờ cõi. Nó không câu nệ lễ
nghi, hình thức bên ngoài.
Khảo về Hồi Giáo, tôi thấy không có gì hấp dẫn,
nhưng suy tư về Bạch Y, tôi thấy vô cùng sâu sắc. Bạch Y cũng như
phần Vô Vi, Hồi Giáo cũng như phần Phổ Độ trong Cao Đài. Sách về Bạch Y
nay bán đầy dẫy bên Hoa Kỳ. Mong quí vị nên tìm đọc.
CHÚ THÍCH
Britannica Book of the Year, 1990.
Dictionnaire des Religions, Royston Pike, Presses
Universitaires de France, 108, Boulevard Saint Germain, Paris, 1954,
p. 165.
Man’s Religions, John B. Noss, The MacMillan Company,
London, 1963, p. 531.
Vol. II, p.344; II, 244; II, 326; II, 388;
II, 329; II, 308; I, 319; I, 302; I, 112; I, 117; I,103;II, 245; I,
153; I, 159; I, 161; II, 237; I, 158; I, 194; I, 302; II, 129; II,
155; II, 152; I, 209; II, 209; II, 254 f; I, 270; I, 50 f; I, 304 f;
I, 303; I, 100 f; II, 50; I, 60; I, 51 f; I, 127; I, 142; I, 29; II,
31.
There is no modern or ancient Islam, no Oriental or Western Islam
-That Islam today is the same Islam as when it was born 14 centuries
ago.
John B. Noss, Man ‘s Religions, p. 551.
It is interesting then, that the Eastern and Western concepts of God
and especially of means of attaining valid information from and
about him correspond to the milieu of the arena of greatest freedom.
In the West, God is outside man in principle, and
communicates by words as do free adult men. In the East he is an
interior state which one has once had, and which is one’s true
being, but which one has lost and can recover only by going into the
depths of the self. Robert S. Ellwood, Jr, Religious and
Spiritual Groups in Modern America, p. 87.
The Idea of continuous emanations in constrast to the unique
divine act of creation was considered by both Muslim and
Christian Mystics, to be incompatible with the Biblico-Koranic idea
of a creatio ex nihilo.
Come you lost atoms, to your Center draw
And be the Eternal Mirror that you saw:
Rays that have wander’d into Darkness wide,
Return and back into your sun subside.
Sufi chủ trương Vạn Vật Nhất Thể. Và Vạn thù qui
nhất thể. Chủ trương Vạn Hữu là do một bản thể, phóng phát, tán phân
ra.
The goal of Sufism is to gather all multiplicity
into Unity, with the totality of one ‘s being. Như trên.
10.
God, Tillich was saying, is not a projection out there’ , an
Other beyond the Skies, of whose existence we have to convince
ourselves, but the Ground of our very being.
Such is a case with Sufism, the generally accepted name for Islamic
mysticism... Mysticism has been called “the great spiritual current
which goes through all religions.” In the widest sense it may be
defined as the consciousness of the One Reality -Be it called
Wisdom, Light, Love or Nothing.
Their movement, originating as a protest against the formalism of
orthodoxy in Islam, gradually developed into a rebellion against the
decadence, corruption and tyranny of a sick, material society.
Sufism was the antithesis of arrogance, intolerance, demagogism,
hypocrisy and inhumanity. The Sufi’s purpose was to create a
renaissance of man’s spirit through which he might live a simple,
innocent. and harmonious life. They hope to open men’s eyes, that
they might see that egoism and greed, pride, and strife are folly,
that the universe is spiritual, and that men are the sons of God.
To some, it connotes humanitarism, tolerance, harmony, defiance to
the chuch and its rituals, love of mankind, and the attempt to
achieve spiritual fellowship. To a few, Sufis are dreamers, rebels,
and meddlers who interfere with the serious rituals of the church
and the business of the state.
The questions they repeatedly asked were: ....”Isn’t the purpose of
religion to unite, to comfort, to improve, and to bring all races
and peoples of the world together in love and brotherhood, or is it
to divide, to tyrannize, to shed blood of the innocent in futile
wars, to mesmerize, to commit all kinds of crime in the name of
Allah and to exploit our fellowmen?
One of the most persistent doctrine of Sufism is inwardness.
They despite outward piety and shallow religious rituals.”Direct
thyself to the inward and thou shalt see thy God.”
Như trên. p. 31.
The Sufis wore coarse woolen robes and lived as hermits in isolated
places away from people and believed in salvation through poverty
(Fagr), meditation (Fihr), fortitude (Sabr), renunciation (Zuhd),
good works, and service to the community. Recognizing that God’s
presence was felt everywhere in creation, they became increasingly
mystical, pantheistic and ascetic.
For Rabia, one of the founders of Sufism, who
died at Jerusalem in A.D. 757, love and its the unquenchable flames
were the torch which kindled the world of Sufism. It was she who
laid the foundation of its mystical ideas. She as succeded by Adu
Hasham (d. A.D. 770), who established the first convent (Khaneqah)
for the Sufis at Ramaled in Palestine. Soon the movement spread to
Persia. “Hand in hand with the Persian revival under the Abbaside
Caliphs, the Soufis developed a new current of ideas. Speculations
take a bolder flight, and essay to reconcile the creature with his
creator, to bridge the chasm between the finite and infinite.
Then followed thev doctrine of ectasies,
mystical stages, unification and pantheism. Though the Sufid always
confessed outward connection with orthodox Islam, nonetheless they
would efficially undermined its foundation. They attacked the
religious institutions by claiming that religion exists only to keep
mankind in order and to make all men merit the grace and love of God
by their service and virtues. Every religious institutions which
does not tend toward these goals is not divine but profane and
dangerous. Scorning the barren desert of legalistic tradition,
meaningless rituals, and the hypocrisy of the clergy, admitting no
guidance but the pole star of illumination, they press the Islamic
establishment to the very brink of madness. The Muslim leaders
considered Sufism as a grave scandal, demoralizing the national
character, undermining law and order, and subverting tradidional
society. Yet the Sufis produced a literature and a doctrine of
universalism and love which is considered the noblest heritage and
the great contribution of Persia to world civilization.
Sufism is knowledge of oneself to Marafat (gnosis) or
knowledge of God. Man’s whole life is dominated by two realities:”
Thou”and “I”, the lover and the beloved, God and man...
Know thyself, for knowing true thine own heart
Thou knowest that good and ill in thee are part.
Discern the worth of thine own being, and then
Walk with pride amist the commun run of men.
Know thyself, and the whole world thus discover,
Then from all ill, they shat thyself deliver,
Thow knowest not thyself for thau art lowly,
Thou shouldst behold God if thou thyself couldst
see.
Prof. L.F. Rasbrook Williams Ed; Sufi
Studies, East & West; ÉP. Dutton Co, Inc.,New York, 1973, p.
57..
Les doctrines de Ben Aliona? Unité de Dieu (le monde temporel n'est
qu'un ensemble de voiles,” barrakh “, nous cachant le monde
réel: L'Infini. Univers emané de Dieu ( l'inverse du Coran
créationiste pour la masse des foqara, croyants ordinaires, le
sirr (caché) est réservé à certains disciples capables de saisir
le bathen (sens occulte); Émanationisme s'accordant avec
l'immanentisme (qui pourrait connaitre son proprium,
connaitrait Dieu; qui le scrute avec attention, s'approche de Dieu);
doctrine de l'immanence n'excluant pas la transcendance; ichraq ou
illunimation dont se réclament tous les grands hommes musulmans:
Avicenne, Ghazali, ou Ibn Tofail... (Gabriel Gobron, Histoire du
Caodaisme, p. 92)...
Les Prophetes, fussent-ils dix mille, dit
l'aphorisme soufi courant, ne sont qu'un seul, rayons multiples du
même feu. Ib. p. 91
Les doctrines de Ben Aliona? Unité de Dieu (le monde temporel n'est
qu'un ensemble de voiles,” barrakh “, nous cachant le monde
réel: L'Infini. Univers emané de Dieu ( l'inverse du Coran
créationiste pour la masse des foqara, croyants ordinaires, le
sirr (caché) est réservé à certains disciples capables de saisir
le bathen (sens occulte); Émanationisme s'accordant avec
l'immanentisme (qui pourrait connaitre son proprium,
connaitrait Dieu; qui le scrute avec attention, s'approche de Dieu);
doctrine de l'immanence n'excluant pas la transcendance; ichraq ou
illunimation dont se réclament tous les grands hommes musulmans:
Avicenne, Ghazali, ou Ibn Tofail... (Gabriel Gobron, Histoire du
Caodaisme, p. 92)...
Les Prophetes, fussent-ils dix mille, dit
l'aphorisme soufi courant, ne sont qu'un seul, rayons multiples du
même feu. Ib. p. 91
Constatation universelle: Arrivés une certaine hauteur spirituelle,
les religieux exceptionnels sont au-dessus des religions du
vulgaire, et reconnaissent comme “Amis de Dieu” tous les hommes
sincères et de bonne volonté et fraternisent avec eux.
Ib. p. 94.
Et il nous suffit de rappeler ici un des enseignements du mysticisme
musulman pour constater que pas un Caodaiste ne refuserait de
reconnaitre là, en cette anecdote du soufisme, l'histoire même de sa
propre naissance au divin, de sa metanoia ou renversement des
valeurs de l'aâme religieuse:
Le disciple se présente à la porte du maitre et
frappe.
Silence.
Il frappe de nouveau. Une voix de l'intérieur:
-Qui est là?
-C'est moi.
Silence. La porte ne s'ouvre pas...
Plus tard, le disciple se présente de nouveau à
la porte du maitre et frappe. -
Qui est là?
-C'est Toi.
Et la porte s'ouvre cette fois.
I am He whom I love,
He whom I love is I:
We are two souls in one body.
If thou seest me, thou seest Him,
And if thou seest Him, thou seest me.”
“Beneath this cloak of mine, there is nothing but God”
“All this talk, turmoil, rites, ritual, conventions, customs,noise
and desire,” according ta Sufis,” is outside the unity of God;
remove the veil of dualism then you will find joy, silence, beauty,
calm and rest. When you unite with your Beloved then there is
neither command nor prohibition.”
Laleh Bakhtiar, Sufi, Expressions of the Mystic Quest, 1976, p. 7
Sufism, Message of Brotherhood, Harmony, and Hope,
Nasrollah S. Fatemi, Faramarz S. Fatemi, Fariborz S. Patemi, 1911,
p. 40-73.
Because the Sufis abandoned external form and rituals and sang the
praise of universal truth which is within the reach of everybody
regardless of creed, color, or nationality, Sufism became a religion
which was both international and universal. Its Literature and ideas
have had a wide audience in North Africa, India, Malaya, China and
Indonesia.
In summary, the reader will perceive that
Sufism is a word uniting many divergent meanings, and does not
represent any particular reliigion or dogmas exclusively. Sufism is
not a creed; it has no dogmatic systems; the “ways” by which one
seeks God “are as numerous as the number of the people of the
world.”
“The keynote of Sufism,” according to
Reynold Nicholson,”is disinterested, selfless devotion, in a word,
love. The whole of Sufism is a protest against the unnatural divorce
between God and man.”
Man seeks his psychic and spiritual needs
outwardly precisely because he does not know who he is . Sufism
reminds man to seek all that he needs inwardly within himself, to
tear his roots from the outer world and plunge them in the Divine
Nature, which resides at the Center of his heart. Sufism removes man
from his lowly state of asfal safilin in order to reinstate
him in his premordial perfection of ahsan taqwin wherein he
finds within himself all that he had sought outwardly, for being
united with God he is separated from nothing.
The Sufis sought to lose what they currently
perceived as labels, knowledge, concepts and to become empty
(nothing) and attain the state of “void”; to attain a zero point so
that they could become related to any state of being and achieve
“everythingness”. Just as the discovery of zero in mathematics made
the system possible, so too in the art of rebirth, the discovery of
a state of “nothingness”(the void or emptiness) makes final
integration a possibility.
CHÚ THÍCH
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29
30
31
32
|