TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
»
mục lục |
chương trước
CHƯƠNG XXXII.
TINH HOA PHẬT GIÁO HÒA HẢO
Người
sáng lập Đạo Phật-Giáo Hòa-Hảo là:
Đức Huỳnh Giáo Chủ, tục danh là Huỳnh-Phú-Sổ. Sanh
ngày 25 tháng 11 năm Kỷ-Mùi (tức là 15 tháng giêng năm 1920) tại làng
Hòa-Hảo, nằm trên Bắc Ngạn sông Vàm Nao, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc,
một tỉnh xa xôi giáp biên-thùy Việt Miên, Nam Việt (Vương Kim, Đức Huỳnh
Giáo Chủ, VP Phật Giáo Hòa Hảo / HN, 1997, tr. 21)
Chân Dung Đức
Huỳnh Phú Sổ
Ngài là trưởng nam của Ông Hương Cả Huỳnh Công Bộ và Bà Lê Thị Nhậm. Ngài
là con của một kỳ lão cao cấp nhứt làng Hòa Hảo, nhiều phúc hậu và nhiều
uy-tín với nhân-dân địa-phương. (PGHH Trong Dòng Lịch Sử Dân tộc của
Nguyễn Long Thành Nam)
Thuở nhỏ, vừa học đến hết bậc tiểu-học thì đau ốm liên-miên, nên Ngài phải
rời trường về nhà dưỡng bịnh. Từ 15 đến 18 tuổi, Ngài không lúc nào dứt
được cơn đau và không một lương y nào trị được.
Năm 1939, sau khi hướng-dẫn thân phụ đi viếng các am động miền Thất Sơn và
Tà Lơn, những núi non được nổi tiếng linh thiêng hùng vĩ. Ngài tỏ ra đại
ngộ. Ngày 18-5 Kỷ Mão, (1939) Ngài chính thức mở Đạo. Bắt đầu là công
việc chữa bịnh. Ngài chữa lành được các chứng hiểm-nghèo với phương-pháp
thật giản-đơn là chỉ dùng lá cây, nước lã, giấy vàng, khiến cho các Bác
sĩ Tây y, các dược sư, Đông y lẫn các danh gia phù thủy đều phải kinh
dị.
Song song với việc chữa bịnh, Ngài thuyết-pháp thao thao bất tuyệt. Nhiều
thi sĩ, văn gia hoặc luật gia nghe tiếng, đến chất vấn, đều phải nhận
Ngài là một bậc siêu-phàm.
Cũng từ năm 1939, Ngài sáng-tác thật nhiều kệ giảng, nội dung tiên tri
chiến cuộc sẽ tràn lan, nhân loại sẽ điêu linh và kêu gọi mọi người nên
bỏ dữ về lành, thực hành Tứ Ân, trau dồi Thiền tịnh để trở thành thiện
nhân trong xã hội và tiến đến sự nhập diệu cõi đạo.
Nhìn qua công-đức giảng dân cứu chúng, người ta thấy Ngài chữa được hàng
vạn chứng hiểm nghèo, thuyết pháp hằng ngàn lần trước đại đa thính chúng
và sáng tác sáu quyển Kệ Giảng cùng với hàng trăm bài thi ca, văn có
giá-trị siêu-việt đầy tình cảm rung động lòng người. Ngài đã đi vào quần
chúng, sinh hoạt với quần chúng, nói ngôn ngữ của người nông dân mộc mạc
đầy tình nghĩa dân tộc trong tinh thần tam giáo.
Tư tưởng của ngài xoay quanh thơ, văn, giảng, kệ và hành động là đi vào
nội tâm, (nội giáo) như câu chuyện Huệ Năng và Thần Tú của Thiền tông
Trung Hoa làm ta hiểu rõ thế nào là Nội Giáo, Ngoại Giáo đã được Ngài
đặt để trong câu:
Khùng nói cho
già trẻ làm tin,
Theo Lục-Tổ
chớ theo Thần Tú.
(Sấm Giảng Thi Văn của Huỳnh Phú Sổ Tr. 61)
Như vậy Ngài
khẳng định không theo (ngoại giáo) mà đi thẳng vào Tâm tìm Trời tìm
Phật.
Kệ giảng ngài gồm có sáu quyển :
1.
Sấm giảng
khuyên người đời tu niệm. (1939) (Văn vần)
2.
Kệ dân của
người Khùng. (1939) (Văn vần)
3.
Sấm giảng.(
1939) (Văn vần)
4.
Giác mê tâm
kệ. ( 1939) (Văn vần)
5.
Khuyến thiện
(1941) (Văn vần)
6.
Cách Tu Hiền
và Sự Ăn Ở của Một Người Bổn Đạo. ( 1945) (văn xuôi) (Xem Sấm Giảng Thi
Văn Toàn Bộ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương
GHPGHH,Tr. 6-10).
Văn-chương của Ngài cực kỳ bình-dân nhưng rất hàm-súc hấp-dẫn. Ngài viết
không cần giấy nháp. Ngài tuy ít học, nhưng lại làm nhiều thơ, và cả thơ
chữ Hán rất là nghiêm túc. Ngài không học tiếng Miên, nhưng khi ngao du
sang Miên ngài đã trò chuyện với dân Miên bằng tiếng Miên. (Xem Vương
Kim, Đức Huỳnh Giáo Chủ, VP Phật Giáo Hòa Hảo/ HN 1997, tr. 61-63).
“Xưa nay, tuy đã có nhiều vị giáo chủ siêu việt giáng trần, nhưng vì tư
tưởng các ngài quá cao siêu, nên những môn đệ, những tín đồ sau này
thường lại không thấu triệt được những tư tưởng cao siêu của các ngài,
nên đã bỏ mất tinh hoa, mà chỉ giữ được sáo ngữ và hình thức.” (xem Tôn
Giáo Đối Chiếu Tr. 27. B.S. Nguyễn Văn Thọ)
Giáo-Pháp của Đức Giáo-Chủ tuy cao-siêu nhưng không kém phần thực tế, có
thể áp-dụng cho bất cứ nơi nào trên thế gian. Ngài là một nhà đại cách
mạng tôn-giáo. Vì trước khi Ngài ra đời, Đạo Phật Việt
Nam bị đình-đốn sai lạc, và Đạo Phật
Thế-giới chưa nói tới việc canh tân. Ngài đã cắt bỏ tất cả những nghi
lễ phiền toái mà nguyên căn không phải của Đức Thích Ca chủ trương, đồng
thời còn canh tân nhiều điểm trong phương pháp thực hành đạo Phật mà
trước kia không hề có.
Nhờ Giáo Pháp thích thời đó nên chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài thu
phục được hai triệu tín đồ tại miền Nam Việt
Nam và ảnh-hưởng mỗi lúc càng lan
rộng thêm ra.
Ngài cũng giả dạng, xưng hiệu khùng điên, đi đây, đi đó, thức tỉnh chúng
sinh như Ông Sư Vải Bán Khoai. Dân chúng coi Ngài là Hóa thân của Đức
Thày Tây An, Đức Phật Trùm, Đức Bổn Sư hay Sư Vãi Bán Khoai . (Vương
Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 112; Để hiểu Phật Giáo Hòa Hảo, tr. 13).
Ngài sáng
lập ra Đạo Hòa Hảo năm 1939, khi người 19 tuồi. Ngài là vị Giáo Chủ trẻ
nhất thế giới từ xưa tới nay.
Ngài lãnh Sắc lệnh của Đức A Di Đà, của đức Thích Ca, của Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế, của Phật Vương, của Đức Quan Âm và có nhiệm vụ:
1.
Chấn Hưng
Phật Pháp.
2.
Cứu độ chúng
sinh khỏi Sông Mê, Bể Khổ.
3.
Chỉ đường về
Tây Phương Cực Lạc.
4.
Tìm con lành
hay tạo hạng hiền đức, để dự Hội Thi sang qua đời Thượng Nguyên an lạc,
5.
Lập hội Long
Hoa.
6.
Lập bảng
Phong Thần.
7.
Đưa người
đến Bồng Lai, Tiên Cảnh.
8.
Trừ con
Nghiệt Thú.
9.
Cầm cân
thưởng phạt.
10.
Tá Quốc An
Bang.
Ngài lập đại nguyện: Tận độ chúng sinh. (Xem Vương Kim, Đức Huỳnh Giáo
Chủ, tr. 84-93).
Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa ra một tổ chức tranh đấu gọi là Việt
Nam Độc Lập Vận Động Hội. Ngài tổ
chức Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo.
Ngài thành lập Phật Giáo Liên Hiệp Hội. Nhưng hội này không được các nhà
Sư hưởng ứng nên chết non.
Người Nhật yêu cầu Ngài đi Khuyến Nông và Ngài đã nhận. Cuộc hành trình
Khuyến Nông kéo dài 2 tháng, đi khắp các tỉnh miền Tây Nam Việt, diễn
thuyết 107 nơi, rất đông người đến nghe.
Sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 15/ 8/ 45. Ngài lại càng hăng say hoạt động
chính trị, và lo cứu quốc an dân.
Ngài thành lập Đội Bảo An trong các xã ấp, để cho dân chúng được an lạc.
Sau đó Ngài định thành lập Đệ Tứ Sư Đoàn cho Hòa Hảo, nhưng bị Trần Văn
Giàu đoạt mất.
Ngài tham gia thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất ngày
14/6/45.
Trong khi đó mặt trận Việt Minh ra mắt tại Sài Gòn ngày
25/8/45. Ngài đã phái ông Nguyễn
Xuân Thiếp ra Bắc tiếp xúc với Tổng Bộ Việt Minh và lãnh chỉ thị về Nam.
Ngài được Tổng Bộ Việt Minh coi là Đại Biểu chính thức của Việt Minh Nam
Bộ (Vương Kim, Đức Huỳnh Phú Sổ, tr.. 155)
Vào khoảng đầu năm 1946, ngài tiếp xúc với các lãnh tụ quốc gia, thành lập
Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp Việt Nam. Mặt trận không hoạt động được.
Ngài cùng với các lãnh tụ quốc gia, lại thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã
Hội Đảng hay Dân Xã đảng.
Sau đó Ngài được mời tham chánh nhưng chỉ giữ một chức vụ nhỏ là Ủy Viên
Đặc Biệt trong Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ.
Ngài còn gia nhập Mặt Trận Toàn Quốc thành lập ngày 27-2-47 tại Nam Ninh
(Trung Hoa).
Ngộ Nạn.
Sau đó Ngài di chuyển về miền Tây, để hòa giải những xô xát giữa Tín Đồ
Hòa Hảo với Việt Minh.
Trước hết Ngài gặp Trần Văn Nguyên. sau gặp Bửu Vinh, mấy nhân viên cao
cấp Cộng Sản.
Ngày hôm sau 16/4/47, Ngài lại họp với Trần Văn Nguyên, và tới chập tối,
Ngài họp với Bửu Vinh.
Khoảng 7 giờ rưỡi tối, có 8 người vào chỗ Ngài ở, giết 3 trong 4 tên hộ vệ
của Ngài, còn Ngài bị mất tích từ ấy đến nay. Như vậy là Ngài mất tích
tại Đốc Vàng vùng Đồng Tháp. (STD, tr. 188-195)
Khi ấy ngài mới 26 tuổi. Các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tin rằng Ngài vẫn
chưa chết.
Nói Phật giáo Hòa Hảo mới được sáng lập năm 1939 cũng chưa chính xác cho
lắm, vì từ năm 1849 cho đến 1939, đã có nhiều vị Phật Thánh giáng thế
dạy dân, ở vùng Hậu Giang như Đức Phật Thầy Tây An (1807-1856), Đức Phật
Trùm hoạt động trong những năm 1868-1873, Đức Bổn sư , chính thức lấy
danh hiệu năm 1870, tịch năm 1890, Ông Sư Vãi Bán Khoai, xuất hiện vào
khoảng năm 1901, sau đó mới đến đức Huỳnh Giáo Chủ chính thức lập đạo
Hòa Hảo năm 1939, khi Ngài mới có 19 tuổi. Đó là một vị ra đời lập đạo
trẻ nhất thế giới.
Ta có tình yêu rất
đượm nồng,
Yêu đời yêu lẫn cả
non sông.
Tình ta chan chứa
trong hoàn vũ,
Không thể riêng yêu
khách má hồng.
Sau đây sẽ bàn qua về các vị tiên
phật trên.
Đức Phật Thầy Tây An.
Đức Phật Thầy Tây An đã nổi danh khắp Miền Nam Việt Nam, là một vị Phật
Sống và một nhà ái quốc, ngài sinh năm 1807, nhưng mãi đến năm 1850 ngài
mới ra mở đạo, và viên tịch năm 1856, lúc Tam Giáo đã hết sức suy vi.
(Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 28). Ngài thành lập Giáo Phái Bửu Sơn
Kỳ Hương, và khai thị môn pháp Tu Nhân Học Phật, và gợi lại tinh thần
dân tộc của phái Trúc Lâm Yên Tử xưa.
Con đường tiến hóa nhân loại là con đường hướng thượng,
từ bâïc thấp tiến lên bậc cao, từ chỗ không tự do tiến đến chỗ cuối cùng
giải thoát. Thế nên việc Tu Nhân cũng chỉ là để trang nghiêm đoạn đường
nhập thế, làm nấc thang bước lên đoạn đường xuất thế. Vì vậy mà đồng
thời với Tu Nhân, Đức Phật Thầy Tây An còn chủ trương học Phật. (Vương
Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 33).
Về phương
diện Tu Nhân, Ngài xướng xuất Tứ Ân Hiếu Nghĩa, để dìu dắt con người trở
lại với Đạo Nhân, căn bản của con đường đưa đến mục đích cuối cùng giải
thoát. (Vương Kim, Bửu
Sơn Kỳ Hương, tr. 29)
Về tu Phật Ngài xướng xuất phép tu gồm cả 3 Mật, Tịnh Thiền. Ngài dùng Mật
Tông để chữa bệnh và đã dạy được nhiều đệ tử như Đạo Xuyến, Đạo Sang,
Đình Tây, Đạo Lập v.v... (Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 38)
Vai trò của Mật Giáo là cốt dọn lấy miếng đất “lòng tin”, để rồi gieo hạt
giống Bồ Đề, thế nên đồng thời với Mật Giáo, Đức Phật Thày Tây An còn
khai thị phép tu Tịnh và tu Thiền (Std, tr. 41). Ngài chủ trương Thiền
Tịnh Song tu, nhưng khác với Trúc Lâm Yên Tử vì Trúc Lâm Yên Tử lấy
Thiền làm chánh Tông, lấy Tịnh làm trợ tông, còn Ngài thì lấy Tịnh làm
chính tông, lấy Thiền làm trợ tông (Std, tr. 46).
Bửu Sơn Kỳ Hương ở núi Sam. Ai qui y thọ giáo với Ngài thì Ngài phát cho
một cái lòng phái có 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương bằng son, in trên giấy
vàng... (Std, tr. 83.)
Trong vòng 7 năm hoằng pháp, tín đồ qui y, thọ giới có mấy mươi vạn, (Std.
tr. 85).
Đức Phật Trùm.
Ngài vốn là người Miên, ở núi Tà Lơn, vùng Xà Tón, tỉnh Châu Đốc, nhưng
bỗng một hôm sau khi chết đi, sống lại vì bệnh thời Khí, ngài hốt nhiên
tỏ ngộ, và không nói được tiếng Miên lại nói ròng tiếng Việt. Ngài phát
phù trị bệnh, mở đạo giáo đời, y như đã được Đức Thày Tây An truyền lại.
Và kỳ diệu nhất là Ngài cũng phát lòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương, cho nên
người đời quả quyết rằng Ngài là Đức Phật Thày hóa kiếp. (Std, tr, 87).
Ngài ra đời năm 1868, tức là lúc quân Pháp đã chiếm Nam Kỳ Lục Tỉnh và là
lúc các anh hùng cứu quốc nổi lên gây phong trào kháng chiến Cần Vương
như Trương Công Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Khoa Huân,
Trần Văn Thành.
Vì Ngài là đệ tử của Đức Phật Thày, lại có cả vạn người hậu thuẫn, nên
quân Pháp chú ý đến Bửu Sơn Kỳ Hương, và phá tan lực lượng của Ngài vào
năm 1873, và sau đó bắt Ngài đi đày. (Std, tr. 88)
Đức Bổn Sư
.
Đức Bổn Sư cũng hốt nhiên tỏ ngộ, và dùng Phép huyền diệu độ bệnh cứu dân.
Ngài cũng phát lòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương, và xiển dương pháp môn Tu
Nhân Học Phật.
Ngài sáng tác bộ kinh Hiếu Nghĩa gồm 3 quyển, và lập chùa phát phái ở núi
Tượng vào năm 1870. Nhưng ngôi chùa này bị quân Pháp thiêu hủy năm 1885.
Sau đó vì ngài bị hương chức hội tề quản chế không cho tự do hành Đạo,
nhất nhất cái gì cũng phải xin phép. Mỗi lần tín đồ vào chùa lễ bái
không quá 4 người.
Chính vì thế Ngài phải canh cải cách thờ phượng, thay vì chú trọng Vô
Vi, Ngài lại trọng về sắc tướng. Đó là cách quyền xảo.
Không thời kỳ nào mà tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương chịu nhiều tai ách bằng thời
kỳ này.
Trong suốt thời gian từ lúc Đức Bổn Sư ra đời cho đến khi ngài viên tịch
(1890), Không có phút nào Ngài được yên thân. Ngài giữ vững được giáo hệ
Bửu Sơn Ký Hương đã là may lắm rồi. (Std, tr. 93-95)
Ông Sư Vãi bán khoai.
Ông xuất hiện vào khoảng năm 1901, nghĩa là còn trong thời kỳ quân Pháp
đang thi hành chính sách đàn áp gắt gao các tín đồ của Giáo Hệ Bửu Sơn
Kỳ Hương.
Với Ông Sư Vãi bán khoai, một kỷ nguyên mới về sự truyền giáo mở ra. Bằng
phương pháp giả dạng thay hình, khi thì làm người bán khoai, khi thì làm
kẻ bán củi, ông xưng khùng xưng điên, đi nơi này nơi nọ, nhất là ở vùng
kinh Vĩnh Tế và Cao Miên, khuyến hóa dân sanh, lo tu hành niệm Phật.
Chẳng bao lâu mà khắp dân gian ở miệt Cao Miên cũng như ở vùng Long
Xuyên và Châu Đốc, tinh thần Bửu Sơn Kỳ Hương được hưng khởi. Mặc dầu
Ông không lập chùa chiền hóa độ, nhưng với quyển Sấm Giảng Người Đời 11
thiên mà ông cho truyền bá trong dân gian, không còn ai mà không công
nhận Ông là bậc tiên giác trong Giáo Hệ Bửu Sơn Kỳ Hương. Người ta thấy
những điều lập thuyết và giáo hóa của Đức Phật Thày Tây An, Đức Phật
Trùm, Đức Bổn Sư phản chiếu trong quyển Sấm Giảng Người Đời ấy.
Lập thuyết của Phái Bửu Sơn Kỳ Hương, như mọi người đã biết, được xây dựng
trên Lý Tam Nguyên. Cuộc đời vần xoay theo luật: từ Thượng Nguyên
đến Trung Nguyên rồi Hạ Nguyên. Khi Hạ Nguyên mãn thì trở lại Thượng
Nguyên và cứ thế mãi mãi. (Std, tr. 103-105).
Trong thời Hạ Nguyên này ngài khuyên mọi người phải cảnh tỉnh, và phải
Tu Tứ Ân, và niệm Phật. Ngài chỉ dạy tu Tịnh Độ mà không dạy Tu Thiền.
(Stđ, tr. 109-112)
1. VỊ TRÍ ĐỊA DƯ
Đạo Phật Giáo Hòa Hảo được khai sáng tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh
Châu Đốc, Việt Nam, và từ đó phát triển, bành trướng ở miền Tây Nam
Việt. Đặc biệt đây là những tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Cửu Long,
giáp nước Cao Miên, được mệnh danh là vựa lúa của Việt Nam. Nhờ đất đai
phì nhiêu, vùng này có khả năng vĩ đại về nông nghiệp, gọi chung là Hậu
Giang hay miền Tây Nam Việt.
Ngoài sự kiện kinh tế, vùng này còn có dãy núi Thất Sơn tại biên giới tỉnh
Châu Đốc giáp sứ Cao Miên. Tương truyền tại đó chứa đựng nhiều điều
huyền bí ly kỳ và lưu truyền trên sách vở đến nay chưa ai cắt nghĩa
được.
Trên căn bản
ấy, vùng Hậu Giang, nơi xuất phát và bành trướng ảnh hưởng của đạo Phật
Giáo Hòa Hảo.
2. SỐ TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
Tổng số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo được ước lượng vào khoảng trên 2 triệu
người, đại diện cho một tỉ số 38% trên dân số vùng Hậu Giang, hay 10%
trên tổng số dân Việt Nam Cộng Hòa. Có những tỉnh như Châu Đốc, An
Giang, Kiến Phong, Sa Đéc, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo lên đến 90 % dân số;
ở các tỉnh khác, tỷ số này thay đổi từ 10 đến 60 %. (thống kê trước 1975
của PGHH. Nay 2001, con số dường như lên trên 4 triệu người)
3. ĐẶC TÍNH PHẬT GIÁO HÒA HẢO
-ĐẶC TÍNH THỨ NHẤT : Bửu Sơn Kỳ Hương hay Phật Giáo Hòa Hảo đều là
một nền đạo Phật của nông dân.
Đức Phật Thầy Tây An trước kia vừa truyền bá đạo Phật vừa khuyến khích
nông nghiệp dưới hình thức “Lập trại ruộng để vừa tu hành vừa cày cấy”.
Ngày nay cũng thế, hầu hết tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là nông dân, và đó
cũng là một lý do tại sao Đức Huỳnh Giáo Chủ đã lập đạo tại một vùng đất
phì nhiêu nhứt Việt Nam.
Trên phương diện nhân sinh và xã hội, người ta cũng nhận định rằng bản
chất thuần phác của người nông dân cho họ có căn bản thuận lợi để tu học
theo đạo Phật.
-ĐẶC TÍNH THỨ HAI, Phật Giáo Hòa Hảo cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương đều chủ
trương tu hành tại gia. Bởi vì các vị Giáo Chủ này đã nghĩ rằng
đạo Phật không những chỉ truyền bá ở thiền môn mà còn phải phát triển
rộng rãi đến mọi gia đình.
Do đó các
tín đồ PGHH không bị bắt buộc phải cạo đầu vào chùa, lìa bỏ mọi việc
ngoài thế gian, mà họ vẫn ở tại gia đình, sống như mọi người công dân
khác với nếp sống bình dị trong nông nghiệp, đồng thời tu hành theo giáo
lý của Đức Thích Ca.
Tôn chỉ tu hành của Phật Giáo Hòa Hảo là Học Phật Tu Nhân, tức là
noi theo giáo lý chơn truyền của Đức Phật mà tu sửa con người, để vừa
làm tròn bổn phận trong cõi đời đang sống, vừa dọn thân tâm cho trong
sáng để được siêu thăng vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc, giải thoát khỏi vòng
luân hồi.
Để thi hành tôn chỉ Học Phật Tu Nhân, người tín đồ PGHH phải tích cực thực
hiện Tứ Ân, tức 4 điều ân lớn, là:
1-Ân Tổ Tiên
Cha Mẹ
2-Ân Đất
Nước
3-Ân Tam Bảo
(Phật, Pháp, Tăng)
4-Ân Đồng
Bào Nhơn Loại
(Xin xem sách về Giáo Lý PGHH) Cũng trong đường lối đó, người tín đồ
PGHH đã tỏ ra tích cực tu hành đồng thời cũng tích cực hy sinh vì đất
nước, khi quốc gia hữu sự.
-ĐẶC TÍNH
THỨ BA là sự canh tân
phương pháp hành đạo nhằm loại trừ mọi hình thức rườm rà, mê tín, dị
đoan. Đặc tính canh tân này có mục đích loại bỏ âm thinh sắc tướng để
phát dương phần tinh túy của đạo Phật, đúng theo chánh pháp vô vi của
Đức Phật.
Đạo Phật Giáo Hòa Hảo chủ trương canh tân như sau:
-Không cất chùa đúc tượng thêm, ngoài những ngôi chùa đã sẵn có. Ai giàu
lòng từ thiện thì nên phát tâm bố thí, cứu trợ kẻ nghèo khổ, hơn là cất
chùa lớn, đúc tượng cao.
-Không chấp nhận thầy cúng, thầy lễ, thầy bói, thầy phù thủy, cũng không
dâng cúng chè xôi thực phẩm cho Phật, vì Phật không dùng những của hối
lộ đó.
-Không dùng cờ phướn, lầu kho, đốt giấy tiền vàng bạc, phí tổn vô ích....
-Không khóc lóc hay làm linh đình lúc tang ma, mà chỉ im lặng cầu nguyện
cho linh hồn người chết được siêu thoát.
Không ép hôn, thách tiền cưới hay tiệc rượu linh đình, vì sẽ mang nợ, gây
hại về sau. Tóm lại, giáo pháp vô vi Phật Giáo Hòa Hảo nhằm canh tân
phương pháp hành đạo để trở về với giáo lý chơn truyền của Đức Phật, là
tu hành tại Tâm, chẳng phải ở hình thức lễ nghi bề ngoài.
Phật Giáo
Hòa Hảo không có sư sãi.
Tóm lại, Phật Giáo Hòa Hảo dạy Tu
Nhân Học Phật.
Tu
Nhân là tu đạo Làm Người đối với gia đình, quốc gia, xã hội, là tu đức
Nhân của Khổng Mạnh, nhất là Hiếu Nghĩa. Tứ ân hiếu nghĩa nằm gọn trong
2 chữ Tu Nhân.
“Phàm là con dân, thì biết yêu tổ quốc, hy sinh thân mạng đền bù nợ quốc
gia; làm con thì hiếu thảo, thờ phượng cha mẹ, anh em thì hòa thuận
nhau, vợ chồng thì ân nghĩa đối đãi nhau, Nói tóm lại, một người có đạo
nhân, là người lấy nhân nghĩa, đạo đức làm phương châm xử thế tiếp vật,
sống một đời chánh chân cao nhã”. Đó là bước đầu của nấc thang tiến
lên con đường đi đến quả vị Tiên Phật. Ai muốn giải thoát, muốn thành
Phật, thành Tiên cũng phải trải qua nấc thang đó trước; ví bằng chẳng
hành xong Nhân Đạo thì không sao thành Phật Đạo
.(Vương Kim, Bửu
Sơn Kỳ Hương, tr. 67)
Học Phật
là học tinh hoa Phật Giáo. Hòa Hảo chú trọng: Mật, Tịnh, và
Thiền.
Mật là Mật
Tông. Mật tông cốt là dọn
lấy miếng đất “lòng tin”, để rồi gieo giống Bồ Đề chánh pháp. Mật tông,
hay phép nhiệm chữa trị bệnh cho những người kém tin tưởng sớm thức tỉnh
, cảm lấy ơn cứu độ mà qui ngưỡng tu hành. Nhưng về sau khi người đời
đem lòng mộ đạo, thì đức Huỳnh Giáo Chủ không còn thi thiết nữa. (Vương
Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, 1997, tr. 41)
Có người hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Bạch thầy, mấy Ông Đạo trên núi, thường
luyện phép để ngày sau phò vua, giúp nước. Còn Đức Thày sao không dạy đệ
tử luyện phép như Tiên Đạo?”
Ngài đáp: “Đức Phật chỉ dạy con người lo tu tâm sửa tánh, cho được trọn
lành trọn sáng, còn phù phép thuộc về tà giáo. Còn ham phù phép tức là
còn nuôi óc cạnh tranh cầu danh lợi: phép linh cũng như cá linh. Nước
vừa chớm giựt, loại cá này đua nhãy lên nước trước, nên phải chịu chết
sớm. Các ông đừng ham linh mà bỏ mình.” (Vương Kim, Đức Huỳnh Giáo Chủ,
VP Phật Giáo Hòa Hảo/HN, 1997, tr. 74)
Tịnh là Tịnh
Độ. Đức Huỳnh Giáo chủ
dạy Thiền Tịnh song tu. Tịnh Độ là niệm danh hiệu A Di Đà, cầu vãng sanh
Cực Lạc. Tịnh Độ Tông dựa vào Tha Lực của Đức Phật A Di Đà.
Thiền là
Thiền Tông. Thiền Tông là
Pháp Môn tự lực tu hành. Chủ yếu của pháp Thiền Tông, là đạt đến chỗ
Minh Tâm Kiến Tính. Mỗi chúng sinh đều có sẵn Bản Tâm thanh tịnh, vĩnh
viễn trường tồn, bất di bất dịch, nhưng vì thiên chấp sắc tướng, mà lu
mờ chân giác; vì thế mà nhận lầm cái không làm có , cái có làm không. Do
chỗ mê lầm ấy mà lăn lộn mãi trong tam đồ lục đạo. Chỉ có trở về với Bản
Tính Thanh Tịnh, nhận rõ cái lý: sắc tức thị không, không tức thị sắc,
thì mới dứt đường sinh tử, phản bản hoàn nguyên... (Vương Kim, Bửu
Sơn Kỳ Hương, tr. 99, 100).
“Thì ra Ông Phật cũng chẳng qua từ địa vị chúng sinh, tức là con người
bằng xương bằng thịt, tu hành đắc quả... Phật từ chúng sinh ra mà ra.
Thế nên, muốn thành Phật, trước phải làm chúng sinh, hay nói một cách
khác, trước khi làm Phật, cần phải làm một con người.
“ Như vậy, con người là khởi điểm của con đường tiến hóa để đi đến Phật.
Không có con người thì không thể nào thành Phật. Nhưng Phật khác hơn
chúng sinh ở chỗ Phật là con người toàn thiện, toàn mỹ, rốt ráo giải
thoát, còn chúng sinh là những con người chưa hoàn hảo, còn bị ràng
buộc, trói trăn. Làm Phật tất phải biết hơn chúng sinh, phải làm hơn
những việc của chúng sinh làm, mới xứng đáng cho chúng sinh thờ kính và
quí trọng. Ví bằng Phật mà không làm hoàn toàn bổn phận con người, không
vượt trên bậc phàm, thánh, thì hẳn kẻ phàm, thánh dù có thờ, cũng không
trọn kính. Và như thế thì không thành một vị Phật...” (Vương Kim, Bửu
Sơn Kỳ Hương, tr. 67-68).
Tế Điên Hòa Thượng có nói: “Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhân Đạo. Nhân đạo
bất tu, Tiên Đạo viễn hỷ.” Muốn tu Đạo Tiên Phật, trước phải tu đạo
làm người. Đạo làm người mà không tu, thì Đạo Tiên Phật khó đến vậy.
(Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 31.)
Những tư tưởng trên đây thật là trong sáng, và rất chính xác. Đáng khâm
phục.
4. SỰ THỜ PHƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO HÒA
HẢO
Trong chủ trương canh tân nói trên, sự thờ phượng trong nhà các tín đồ
Phật Giáo Hòa Hảo thật là giản dị.
Trên bàn thờ, không có tượng Phật, không có chuông mõ. Chỉ có một tấm Trần
bằng vải màu đà, tượng trưng cho sự hòa hợp nhơn loại, và cho màu sắc
nhà thiền. Đó là bàn thờ Chư Phật. Dưới bàn thờ Phật là bàn thờ Cữu
Huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ đã khuất. Trước nhà có một bàn thờ lộ thiên
(gọi là bàn Thông Thiên) để người tín đồ cảm thông với Trời Đất, bốn
phương trời, mười phương Phật. Chỉ dùng nước lạnh, bông hoa, và nhang để
cúng Phật. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho
sự tinh khiết, còn nhang dùng để khử mùi uế trược.
Mỗi ngày người tín đồ PGHH làm lễ cúng Phật, ít nhứt hai lần, buổi sáng và
buổi tối. Trong các ngày rằm, mồng một, ngày vía Chư Phật, họ đến chùa
hay hội quán hành lễ, và nghe kinh giảng hay nghe thuyết pháp.
Lúc đảnh lễ họ không dùng mõ chuông, mà chỉ lâm râm tâm niệm. Khi nào mắc
công việc thì đến giờ hành lễ họ quay mặt về hướng Tây mà cúng Phật, và
khuyến khích nhau ngồi đâu, ở đâu cũng tụng niệm trong tâm.
Ngoài ra trong các Xã, Ấp có những độc giảng đường trang bị máy
phóng thanh, để mỗi ngày trong những giờ nhất định, có những giảng viên
đến đọc kinh giảng hay thuyết pháp cho người chung quanh cùng nghe.
Độc Giảng
Đường Phật Giáo Hòa Hảo
là những ngôi chùa thâu hẹp chỉ để truyền đạo, chớ không phải để cư trú,
nên nhỏ hơn chùa, bởi bản chất Phật Giáo Hòa Hảo là cư sĩ tại gia.
Hiện nay chỗ nào có nhiều tín đồ PGHH đều có Độc Giảng Đường, với nét kiến
trúc đặc biệt của Phật Giáo Hòa Hảo. Theo kiểm kê năm 1965, Phật Giáo
Hòa Hảo có 390 Độc Giảng Đường.
Giới nghiên cứu giáo lý PGHH đã đúc kết hệ thống tư tưởng của Huỳnh Giáo
Chủ thành một công thức ba bước bất khả phân: Bước thứ nhất là học Phật,
bước thứ hai là Tu Nhân, bước thứ ba là tìm về cứu cánh giải thoát.
(PGHH Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, Nguyễn Long Thành
Nam. Tr 284)
5. CỜ ĐẠO, HUY HIỆU
Huy Hiệu Hoà Hảo
Cờ đạo hình chử nhật màu đà, không có chữ hay hình tượng nào. Huy hiệu
PGHH hình tròn màu đà, bìa vàng trên có bông sen trắng và bốn chữ viết
tắt PGHH.
6. THÁNH ĐỊA
Thánh Địa Phật Giáo Hòa Hảo đặt tại làng Hòa Hảo tức là sanh quán của Đức
Huỳnh Giáo Chủ, và cũng là nơi khai sáng mối Đạo. Tại đây không có sự
xây cất đồ sộ, nhưng có một nếp sống đặc biệt an lạc, với không khí đạo
giáo.
7. HỆ THỐNG TỔ CHỨC
Đoàn thể PGHH được quản trị bởi một hệ thống Ban Trị Sự. Các Ban Trị Sự
được thiết lập từ mỗi Ấp, Xã, Quận, Tỉnh. Trên hết là một Hội Đồng Trị
Sự Trung Ương.
Mỗi Ấp chia làm nhiều chi hội.
Nhờ một tổ chức đi sâu vào tới hạ tầng cơ sở quần chúng, nên sự điều hành
công việc được chặt chẽ, và các chỉ thị được thi hành suốt từ trung
ương xuống đến các chi hội.
Nguyên tắc tổ chức và điều khiển là dân chủ tập trung.
8. SINH HOẠT
Phật Giáo Hòa Hảo được khai sáng từ năm 1939.
Trong sinh hoạt bình thường, trọng tâm công tác của Giáo Hội PGHH nhắm vào
2 mục tiêu chính. Thứ nhứt là phổ truyền giáo lý trong và ngoài nước.
Thứ hai, thực hiện các công tác xã hội, văn hóa, cứu trợ và bố thí.
Trong công
thức Học Phật Tu Nhân, trên 2 triệu (1975) người tín đồ PGHH cư sĩ tại
gia đồng thời với sự tu sửa thân tâm, lại còn đóng góp vào việc phát
triển nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam. Hơn thế, khi quốc gia hữu
sự, tín đồ PGHH sẵn sàng hiến dâng đời sống , hy sinh để bảo vệ tổ quốc.
Mỗi năm đặc biệt trong ngày đại lễ Kỷ Niệm Khai Sáng Mối Đạo vào 18 tháng
5 Âm lịch, các sự kiện trên đây được thể hiện trong tổ chức đại lễ nơi
Thánh địa Hòa Hảo và ở khắp vùng Hậu giang.
9. TRONG
CỘNG ĐỒNG PHẬT GIÁO THẾ GIỚI
Trên bình diện quốc gia, giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo là một hội viên sáng
lập của Hội Đồng Tôn Giáo Việt Nam, một cơ quan đoàn kết các tôn giáo
chánh yếu như: Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài
Giáo, Tin Lành... Đồng thời PGHH cũng tham gia các sinh hoạt quốc gia,
đúng theo truyền thống của một tôn giáo dân tộc. Ngoài ra, giáo lý PGHH
cũng đã được tiếp nhận với nhiều cảm tình bởi nhiều giới trí thức Đông
phương cũng như Tây phương.
Bởi vì, với một giáo thuyết hòa đồng tinh hoa Tam giáo, Phật Giáo
Hòa Hảo đã phát dương giáo pháp chơn truyền của Đức Thích Ca Mâu Ni làm
căn bản giáo lý, lại thêm các tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, đã ăn sâu vào
tập tục dân tộc Việt Nam, để kết thành một tư tưởng Đạo học có đặc thái
dân tộc Việt Nam.
Tuốt gươm vàng lên
ngựa xông pha.
Đền xong nợ nước thù
nhà,
Thiền môn trở gót
Phật-Đà nam-mô.
(SGTVTB, Huỳnh Phú
Sổ tr.456)
&
Bài này viết theo tài liệu của Phật Giáo Hòa Hảo trên trang nhà của PGHH
http://www.hoahao.org/ và các sách
-Đức Huỳnh Giáo Chủ của Vương Kim
-Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo
của Thanh sĩ và Vương Kim
-Bửu Sơn Kỳ Hương của
Vương Kim
-PGHH trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc
của Nguyễn Long Thành Nam.
-Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ
của Đức Huỳnh Giáo Chủ
-Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ và Phật Giáo
Thời Đại củaTiến Sĩ Lê Hiếu Liêm
-Hồn Thiêng Dân Tộc của Nguyễn Huỳnh Mai
-Đức Phật
Thày Tây An của Vương Kim và Đào Hưng
»
mục lục |
chương trước
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
|