TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23
24
25 26
27 28
29 30
31
32
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
CHƯƠNG XXIII
SỬ QUAN.
(THEO TRUNG DUNG VÀ DỊCH LÝ)
(Con người cần được đặt lại vào Trung Tâm vũ trụ,
điểm xuất phát của con người. Xưa, khi trình độ hiểu biết con người còn
thấp kém, con người đã xa lìa, thì nay trong tay đã sẵn có những kiến
thức mới về không gian, con người cần trở về Trung Tâm Điểm ấy.)
Nghiên cứu Trung Dung và Dịch lý, chúng ta có thể
tìm thấy một sử quan mới mẻ.
Xưa nay, nhiều người vì có quan niệm “tĩnh”
về vũ trụ, nên cho rằng con người, đời nào cũng giống đời nào sinh ra là
để chịu khổ sở gian truân, ngõ hầu đền bù những tội ác xa xăm và hiện
tại; cho đời là bể khổ, đày châu lệ, chỉ muốn thoát ly đời; cho xác thân
là thù địch, cố dày vò thân xác, để được coi là nhân, là đức; cúi đầu
chịu mọi sự gian nan thống khổ, coi đó là những hình phạt của thần
thánh; suốt đời nơm nớp lo âu, khẩn cẩu thần nọ thánh kia hộ trì cho
mình siêu thoát, một khi dắm mắt, tắt hơi.
Một quan niệm như vậy dĩ nhiên làm mất hết vẻ hiên
ngang và hùng khí của con người, coi con người như một thứ đồ chơi, để
thần minh tha hồ dập vùi theo ý thích, thương thì để nguyên, giận lên
thì phá phách cho tan tác thành tro bụi; coi lịch sử như đã đi đến tuyệt
đích không còn gì để diễn tiến nữa; tô vàng son vào một dĩ vãng mình
không tham dự; oán thán chê bai cuộc sống hiện tại, cho rằng chẳng mấy
huy hoàng.
Nhưng nếu ta có một cái nhìn bao quát, cởi mở,
nếu ta có một quan niệm “động” về lịch sử, ta sẽ thấy con người thực ra
đã, đang và còn sẽ tạo cho mình một lịch sử rất ly kỳ, lắm truân chuyên,
nhưng cũng lắm vinh quang. Trên thực tế, con người luôn tiến hoá.
Nói đến tiến hoá, tức là nói đến chiều hướng và
mục phiêu cuộc tiến hoá đó.
Cho nên, đề cập đến sử quan nhân loại, là đề cập đến
chiều hướng tiến hoá của nhân loại, đến những giai đoạn dĩ vãng và tương
lai của con đường tiến hoá ấy, cũng như đến mục đích và kết quả của công
cuộc tiến hoá ấy.
Trung Dung đã cho ta biết căn bản của vũ trụ nhân
quần, thì cũng chỉ luôn cho ta biết mục phiêu của nhân loại.
Đâu là căn bản vũ trụ, nhân quần? Trung điểm,
Trời.
Đâu là mục phiêu của nhân loại, của quần sinh?
Cũng vẫn là Trời, là Trung Điểm.
Vòng Dịch Phục Hi sẽ cho ta biết các chặng đường
tiến hoá của nhân quần từ lúc ban sơ đến lúc chung cuộc.
Vòng Dịch Văn Vương phơi bày cho ta thấy cùng một
lúc các giá trị tôn ti, quí tiện của đất trời.
Ta thường thấy trong Kinh Dịch, 64 quẻ xếp theo hình
vuông, lồng trong 64 quẻ xếp theo hình tròn.
Hình vuông tượng trưng cho không gian, cho các giá
trị phô diễn đồng thời trong không gian, thời gian.
Hình tròn tượng trưng cho thời gian, cho các giá trị
phô diễn liên tiếp trong thời gian.
Dịch là phản ảnh cuộc đời. Cho nên ta cứ việc nhìn
bao quát các nếp sống của cá nhân và đoàn thể diễn ra cùng một lúc trong
không gian, hoàn vũ, là ta có thể suy ra được các lớp lang lịch sử của
nhân loại liên tục diễn tiến trong thời gian....
Thực ra vấn đề chiều hướng và giai đoạn cũa lịch sử
không phải là một vấn đề mới mẻ.
Auguste Comte (1798-1857) đã tìm ra 3 giai đoạn của
lịch sử:
1. Trạng thái thần quyền (état théologique).
2. Trạng thái siêu hình (état métaphysique).
3. Trạng thái thực tiễn (état positif).
Nhưng ta thấy quan niệm trên chỉ cho ta biết dĩ vãng
và một phần của hiện đại, còn tương lai vẫn chìm đắm trong mơ hồ, bí ẩn.
Dựa vào Dịch và Trung Dung ta có thể tìm ra một chu
kỳ lịch sử mênh mông, bát ngát hơn nhiều.
Chúng ta đại khái có thể phác hoạ chu kỳ lịch sử
nhân loại bằng chín giai đoạn sau:
1. Giai đoạn thần quyền (Tốn)
2. Giai đoạn siêu hình (Khảm)
3. Giai đoạn thực tiễn (Cấn)
4. Giai đoạn vật chất (Khôn)
5. Giai đoạn Giác Ngộ (Chấn)
6. Giai đoạn nhân đạo (Ly)
7. Giai đoạn nghệ thuật đạo đức (Đoài)
8. Giai đoạn thiên đạo (Kiền)
9. Giai đoạn toàn thiện, toàn mỹ (Thái Cực)
Chu kỳ lịch sử nhân loại khó ước lượng được là bao
nhiêu năm.
Thiệu Khang Tiết cho là 129.600 năm (360 X 360)
Các triết gia Hi Lạp cho là 25.920 năm.
Các triết gia Ấn Độ cho rằng chu kỳ lịch sử nhân
loại là 4.320.000 năm, còn chu kỳ lịch sử vũ trụ là 4.320. 000.000.
Đà diễn tiến của lịch sử cũng như của con người đều
theo định luật doanh hư, tiêu tức, vãng lai, tiến thoái của trời đất.
Trong nửa chu kỳ đầu, tinh thần dần dà suy, vật chất
dần dà thịnh.
Trong nửa chu kỳ sau, vật chất dần dà suy, tinh thần
dần dà thịnh.
Lẽ Âm Dương tiêu trưởng trong các học thuyết Âu Á.
Nhịp điệu thăng, trầm, suy, thịnh của lịch sử nhân
loại cũng đươsïc áp dụng trong khúc hoà ca của vũ trụ và vạn vật.
Lẽ Âm Dương tiêu tức, vãng lai trong hoàn võ và
trong con người.
Đó là đà diễn tiến theo 2 chiều Âm Dương của vòng Dịch.
Dựa trên những hiện tượng lịch sử, thì nhân loại mới
đang đi giữa giai đoạn thực tiễn và giai đoạn vật chầt.
Nghĩa là con đưởng tiến hoá của nhân loại còn xa lắc, xa lơ, và tương
lai nhân loại còn muôn vàn rực rỡ.
Con người còn phải lao lung vất vả, còn phải suy tư,
lao tác, còn phải khám phá, còn phải đào thải, còn phải lọc lõi nhiều
rồi mới tiến tới vinh quang được.
Đi hết giai đoạn vật chất, con người sẽ đi đến chỗ
bế tắc, đến đầu đường; muốn khỏi tiêu diệt, tất nhiên phải quay lưng lại
vật chất mà hướng về phía tinh thần, thế là Phục Sinh (Régénération,
Palingénésie), thế là Hồi Phục (Conversion). Dịch gọi thế là “Cùng
tắc thông”, hay “Cùng tắc biến”.
Đi vào con đường vật chất tức là đi vào con đường
truỵ lạc, sa đoạ tinh thần.
Đi vào con đường tinh thần là đi vào con đường
giải thoát, phục sinh (Rédemption, salut, régénération).
Cổ nhân đã xác định thời kỳ Hồi Phục của con người.
Thời kỳ ấy chính là thời kỳ đen tối nhất của nhân loại, tượng trưng bằng
giờ Tý (nửa đêm), và bằng quẻ Khôn, hoàn toàn vật chất.
Nhưng giữa tối tăm, ánh sáng sẽ hiện ra; giữa chết
chóc, sự tái sinh sẽ mầm mộng; sau thời kỳ vật chất vô thần, con người
sẽ hồi hướng, và quay về với giá tri tinh thần. Kinh Dịch gọi luca ấy là
quẻ Phục.
Sự sinh lại ấy, người xưa ví như là con người được
thai nghén lại một lần nữa, vì thế dùng chữ Tí (子
Tí =子
Tử = Con), chữ Nhâm
壬
(Đồng âm với chữ Nhâm =
妊
= Có mang); chữ Thai
胎
để chỉ thời kỳ đó.
Chu kỳ lịch sử tiên đoán được bằng các vòng Dịch, Can Chi và Trường
sinh.
Thời kỳ ấy là thời kỳ hồi phục, vì nhân loại đã thấy
được “Thiên Địa chi Tâm”, thấy được rằng “trong lòng mình có trời ngự
trị”
Theo sử quan này thì con người mới đầu dĩ nhiên là
phải gian truân, phải phong trần (Cấu = phong trần), nhưng đến chung
cuộc sẽ được hiển vinh, hạnh phúc (Kiền = Trời; Đế vượng = vua Trời
xương thịnh; Bính Đinh = Sáng láng, rực rỡ)
,
để rồi vào yên nghỉ trong Trung Cung, trong Thái Cực, Hoàng Cực. Thế là
“Hưu hồ thiên quân”, “Yên nghỉ trong lòng Trời” theo Trang Tử.
Mỗi cá nhân, ai cũng phải đi theo đúng con đường đã
vạch cho nhân loại, và hoàn võ, nhưng tuỳ sự hiểu biết, tuỳ theo tốc độ
của trí tuệ, tuỳ theo công phu tu luyện, thời gian trên trở nên co giãn
vô hạn định,
Vì: -129.600 năm cũng là 1 chu kỳ.
-25.920 năm cũng là 1 chu kỳ
-1 năm cũng là 1 chu kỳ.
-1 tháng cũng là 1 chu kỳ.
-1 ngày cũng là 1 chu kỳ.
-1 hô hấp cũng là 1 chu kỳ.
-1 chớp mắt cũng là 1 chu kỳ ( vì cũng gồm 2 chiều
Âm Dương, động tĩnh, hạp tịch của trời đất.)
Con đường thăng trầm gian lao ấy, tức là con
đường định mệnh của nhân loại. Theo từ ngữ Ấn Độ thì đấy là Duyên
Nghiệp, Duyên Kiếp của con người (Karma). Tìm ra được vòng Duyên Nghiệp
ấy tức là tìm ra được vòng Dịch, tìm ra được Con Đường Giải Thoát.
Mỗi giai đoạn lại cho con người trông thấy 1 khía
cạnh của Toàn Thể bao la, mỗi giai đoạn lại làm cho con người giàu có
thêm về 1 loại tư tưởng, lại khoác cho con người một bộ mặt mới.
Suy rộng ra, như Trái Đất có lúc xa, lúc gần mặt
trời, thì nhân loại cũng có lúc xa, lúc gần Thượng Đế. Nhưng vòng tiến
hoá của con người đã được vạch sẵn từ muôn thủa, cũng như vòng chu luân
của trái đất và các vì sao đã được vạch sẵn từ khi chúng vừa dược dựng
nên.
Thế tức là:
“Người tận thế, đất sét xưa nặn lại,
Hạt trường sinh gieo từ buổi hỗn mang.
Ngày khai thiên Trời đã chép kỹ càng,
Toàn lịch sử của muôn ngàn thời đại.”
Con người sinh ra đời, cần phải phát huy mọi khả
năng của mình, thực hiện mọi giá trị tiềm ẩn của mình, và chỉ được dừng
chân đứng lại khi đã đạt mức chí thành, chí thiện,
khi đã thoát khỏi mọi
hình tướng danh sắc, hiện tượng bên ngoài, trở về được với Hư Vô, Diệu
Hữu,
vì mục
đích của nhân loại cũng như của cá nhân là đạt tới Toàn Thể, tới Thiên
Địa chi Tâm.
CHÚ THÍCH
Man must be put back at the Center of the Universe, when he once
began, and from which he fell away at the beginnings of Knowledge,
and to which he must return with the new knowledge of space at hand.
Ray Bradbury, Remembrances of kings future.
Thiên tôn địa ti, Thiên địa định hĩ,
Cao ti dĩ trần, quí
tiện lập hĩ.
天
尊
地
卑,
乾
坤
定
矣
高
卑
已
陳,
貴
賤
立
矣。
L’ordre
des successions concrétise le temps,
L’ordre des coexistences
concrétise l’espace.
Ainsi ce qui est simultané dans l’espace, sera
successif dans le temps. Ainsi, l’espace et le temps sont
convertibles.
Sử quan này dựa trên sự khảo sát các đồ Dịch, và 2 thỉnh lý sau đây
của tác giả:
a. Cuộc đời của 1 cá nhân lý tưởng tương ứng
với lịch sử nhân loại.
b. Các mẫu người cùng có trong không gian sẽ
diễn ra liên tiếp trong thời gian.
(Ce qui est simultané dans l’espace sera
successif dans le temps.)
...Cũng có thể chia lịch sử làm 13 thời kỳ
như sau: Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn, Phục, Lâm, Thái, Đại tráng,
Quải, Kiền, và Thái Cực.
...Les époques chrétiennes futures, quand les lois du Christ seront
de plus en plus connues et appliquées, verront l’homme s’allumer en
lui, toujours plus fréquemment, le feu de Jésus Christ. Grâce à la
force de ce feu, il s’élèvera, il se sanctifiera et les bienfaits de
Dieu descendra toujours plus abondamment sur la terre, jusqu’à ce
que, durant la dernière période, et conformément à l’exemple suprême
donné par Jésus-Christ, le but terminal de l’homme sera atteint:
l’accomplissement du Verbe de Dieu, la victoire complète sur le mal,
la vie totale du Royaume céleste réalisée par l’homme sur la
terre...
Các triết gia Ấn Độ phỏng định một cho kỳ lịch sử nhân loại là
4.320.000 năm (1200 x 360 = 1 ngày của Brahma) chia ra thành 4 thời
đại:
a Krita Yuga (Thời Đại Vàng) 1.728.000 năm.
b Treta Yuga (Thời Đại Bạc) 1.296.000 năm.
c Dwapara Yuga (Thời Đại Đồng Đen) 864.000 năm.
d Kali Yuga (Thời Đại Sắt) 420.000.
Theo tỉ lệ : 4/10 3/10 2/10 1/10 = 10/10 = 1
Chu Kỳ lịch sử nhân loại khác vối chu kỳ
lịch sử vũ trụ: Một chu kỳ lịch sử vũ trụ là 4. 320.000. 000 năm.
... Il (Fichte) affirme aussi que le but de l’humanité est la
réalisation du Moi. La chose en soi n’est pas inconnnaissable: c’est
notre propre ego, notre moi idéal. Prendre conscience de
soi-même, c’est devenir libre. Mais la liberté ne s’atteint pas sans
lutte, sans opposition, sans conquête: Le Moi atteint donc la
liberté, en surmontant tout ce qui n’est pas lui-même -le non-moi,
en fait, qu’il crée afin d’engager la lutte. Ce non-moi c’est
l’apparence, ce sont les phénomènes et tandis que l’entendement
percoit le monde des phénomènes, concourt à le construire, la
Volonté ou Moi l’utilise, comme un ponton improvisé pour découvrir
la vérité qui se trouve au-delà. Agissante chez l’individu, cette
dialectique l’est aussi dans la société, et vraiment, dans tout le
cours de l’histoire. L’histoire n’est que histoire de la liberté, de
la lutte de l’homme pour la libération, l’histoire des vicissitudes
de la liberté.
Origène:
La création du monde, dans le temps, devient une
création éternelle, qui, déjà par ce changement, se rapproche
fortement d’une émanation; derrière le Dieu fait Homme à une
époque du monde, il (Origène) montre le Logos qui sort éternellement
de Dieu; et pour les âmes elles-mêmes, il adnet la préexistence.
... Par le retour de tous les êtres en Dieu,
s’achève par conséquent un circuit-mais qui recommence et se
renouvelle dans l’éternité.
Grégoire de Nysse (né à Césarée, en
Cappadoce vers 335):
Chez lui (Grégoire de Nysse) aussi, à la
fin du mouvement circulaire, tous les êtres reviennent á Dieu.
Trông bao quát vòng lịch sử này,
rồi đem áp dụng nó vào từng trường hợp mỗi quốc gia, các nhà chính
trị có thể tuỳ thời mà thay đổi trọng tâm hoạt động để làm sao cho
dân nước được sinh hoạt điều hoà, hạnh phúc.
Khi dân chúng đói khổ, thì trọng
tâm là khuếch trương canh nông, kỹ nghệ; khi dân chúng yếu hèn, thì
phải lo chấn chỉnh võ bị, ngoại giao; khi dân chúng no đủ thì phải
lo chấn hưng đạo đức, khuyến khích thuần phong mỹ tục, cổ võ văn hoá
tư tưởng, cốt sao cho dân khỏi sa đoạ vào vòng ăn chơi, truỵ lạc.
Tóm lại, một quốc gia cũng như một con người, nó cũng có lúc sinh,
lúc trưởng, lúc mạnh, lúc đau, lúc vinh, lúc nhục, lúc sang, lúc
hèn. Cái khéo của nhà cầm quyền là phải đoán xem nước mình
đang ở giai đoạn nào trên con đường tiến hoá, để tuỳ thời mà sử sự,
mà ứng biến...
...Et c’est la même mystère que celui de l’Involution et de
l’Évolution, de l’Incarnation Cosmique et de la Rédemption
universelle, ces deux versants congugués du Cercle du Devenir.
Le temps éternel et indestructible comme la
matière se divise en deux périodes: Utsarpini et l’Avasarpini.
Selon les Djains, L’Utsarpini est la période
ascendante et l’Avasarpini est la période descendante de la durée.
Phase de négativation (Phase descendante):
Oui devient Non.
Phase de positivation (Phase ascendante):
Non devient Oui.
Le demi-cercle de gauche représente l’ascension
( Yang) du soleil, le demi-cercle de droite la descente
(Yin). Autrement dit, à gauche, le soleil va du Yin au Yang (Le Yang
monte et le Yin descend); c’est la barque de Rà ascendante (mandjit
= Thăng). À droite, Il va du Yang au Yin (Le Yang descend et le
Yin monte. C’est la barque de Rà descendant (Sektet = Giáng).
Lúc ấy cũng là lúc con người tận dụng được vật chất.
Xem các đồ bản trang sau.
Ý nghĩa vòng Tuần Hoàn theo Thập Nhị Chi.
未
Mùi = Vạn vật khoác hình hài, có mùi vị (未
= 味)
申
= 身
體,
物
體
皆
成。
Thân = Thân thể, vật thể giai thành.
酉
= 縮。
Dậu = Thâu súc, thu liễm.
戌
=
滅
。 Tuất = suy diệt.
亥
=
刻
剎,
陰
氣
刻
萬
物。
Hợi = Khắc sát, Âm khí khắc vạn vật.
子
= 而
為
子
Tí= Nhi vi tử. Sau đó lại thai dưỡng, lọt lòng ra.
丑
= 紐
Sửu = Nữu = Khai triển, diễn tiến.
寅
= 演
Dần = Diễn = Tốt đẹp.
卯=
茂
Mão = Mậu.
辰
=
震
=
萬
物
盡
震
而長。 Thìn = Chấn= Vạn vật tận
chấn nhi trưởng. Vạn vật phấn chấn.
巳
= 起
= 物
畢
盡
而
起。
Tị = Khởi = Vật tất tận nhi khởi. Vạn vật vươn mãi lên.
午
= 長
大。
Ngọ = Trưởng đại. Đến chỗ trưởng đại.
Nhìn vào vòng Thập Can với những ý nghĩa tượng
trưng của nó, ta thấy ngay, nó nói lên nhẽ Âm Dương tiêu trưởng.
Từ Mùi đến Hợi, là Âm trưởng Dương tiêu, vật
chất càng ngày càng cường thịnh sung mãn, để rồi đi đến chỗ suy
diệt.
Từ Tí đến Ngọ nói lên nhẽ Dương trưởng Âm tiêu;
Dương sinh ra, lớn dần và cuối cùng đi đến chỗ phát huy sung mãn.
Xem các đồ bản các tr. trên.
...Cố năng niên trung thủ nguyệt, nguyệt trung thủ nhật, nhật trung
thủ thời, thời trung thủ khắc, Xúc nhất niên tạo hoá ư nhất nhật chi
nội, nãi ư nhất khắc chi nội hành nhất niên chi công. Đạo Thiên Địa,
đoạt Tạo Hóa; thục hữu đại ư thử giả; Thần thánh tai! huyền diệu
tai!
故
能
年
中
取
月,
月
中
取
日,日
中
取
時,
時
中
取
刻。
蹙
一
年
造
化
於
一
日
之
內,
乃
於
一
刻
之
內
行
一
年
之功。
盜
天
地,
奪
造
化;
孰有
大
於此
者。
神
聖
哉!玄
妙
哉!
Chu kỳ của mặt trời trên vòng Hoàng Đạo. Sau 1 chu kỳ là 25.920 năm,
mặt trời lại ở vị trí cũ ngày xuân phân.
...Toute la science du Yogin est d’enseigner aux
hommes comment abréger, en intensifiant leur pouvoir d’assimilation,
le temps nécessaire pour atteindre la perfection. Au lieu de
progresser lentement, d’étape en étape, et d’attendre que toute la
race humaine soit devenue parfaite.
Le rythme alchimique consistera dans la reproduction du rythme
naturel , et la Grande Oeuvre débutera à l’instant précis désignée
par l’Astrologie, celui où cesse la régression, pour faire
place à l’ascension (cf. Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ.
Dịch, Phục quải)
La seule différence sera qu’une fois en
possession du grand secret, la marche de l’oeuvre ne parcourra plus
les millénaires comme la nature elle-même, mais se trouve réduite à
quelques années, voire quelques mois. C’est donc bien une imitation
de la nature, dans son processus évolutoire que se propose
l’alchémiste.
Définissons le Karma comme l’ensemble des étapes psychiques
réalisées, en voie de réalisation et réalisables en vue de
l’accomplissement du cycle.
En conséquence, nous prenons conscience d’un
Karma cosmique, d’un Karma universel, d’un Karma particulier à
chaque élément manifesté dans la nature et par conséquence, d’un
Karma individuel humain..
Như vậy, Duyên Nghiệp chẳng qua là những
chặng đường mà vũ trụ, nhân loại và mỗi người chúng ta phải đi qua
để tiến tới Thượng đế.
... La grande Année, période entre 2
conjonctions générales identiques, est finalement le multiple
décimal de 420.000 soit 4.320.000 années solaires, valant 12.000
années divines.
Cf. Cycles of Time, Encyclopedia of
Religions , p. 213.
“ Avec la première argile de la terre,
Ils pétrirent le dernier homme.
Et là, ils ensemencèrent la graine de la moisson
dernière,
Et le matin de la création écrivit
Ce qui se lira à l’aube du jour du jugement
dernier.”
L’absence abyssale de toute image rappelle le Rien de Boehme, le
Vide (Shunya) du Véda, demeure de Brahman ou le Vide (Hu kong) du
Taoisme, dont “ le but ultime , le secret est l’union du soi avec le
Soi”
Có lẽ sách Khải Huyền ( Apocalypse,
Revelations) cũng đã mô tả nhân loại lúc chung cuộc, khi đã đạt tới
Thái Cực, Huyền Đồng.
Nói tóm lại, Thượng Đế, Trung Dung, Trung Điểm,
vừa là khởi điểm vừa là cùng đích con người (Alpha et Oméga), còn vòng
Dịch với các hào quải tượng trưng cho sự thăng trầm, suy thịnh và các
giai đoạn lịch sử con người.
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23
24
25 26
27 28
29 30
31
32
|