TINH HOA CÁC ĐẠO GIÁO

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ


» Chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

 

»   mục lục  |  chương kế

 

 

CHƯƠNG I

TINH HOA THIÊN CHÚA GIÁO.

(PHẦN MẬT TRUYỀN TRONG THIÊN CHÚA GIÁO).

 

 

(Một phần tài liệu này đã được trích ra từ bộ LA DOCTRINE ESOTERIQUE À TRAVERS LES ÂGES, gồm 2 cuốn của Ernest Bosc, Chamuel Editeur, Paris 1889, nơi các trang 22-44, Tập II, thuộc Chương XXVII, nhan đề ÉSOTÉRISME CHRÉTIEN).

*

* *

Đã từ lâu, tôi để tâm suy cứu về những đoạn Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, có thể nói là TINH HOA. Cách đây khoảng 20 năm, nhân đọc bộ La Doctrine ésotérique à travers les âges của Ersnest Bosc, tôi thấy nên đúc kết lại, hệ thống hoá lại, xiển minh lại bằng các lời trích dẫn trong các sách Phúc Âm, Thánh Thư, để thân tặng những ai có lòng thành khẩn và tha thiết tìm cầu Chân, Thiện, Mỹ.

Nói rằng Công Giáo có phần Mật Truyền, ắt nhiều người sẽ bỡ ngỡ. Nhưng thực tế, có như vậy. Vả lại, không phải cứ theo Đaọ là nắm được tinh hoa của Đạo, là biết được điều thâm sâu của Đạo.

Chính thánh Paul đã viết: “Hỡi Anh Em, phần tôi, tôi đã không thể nói với Anh Em, như nói được với những người có linh cơ siêu thoát, mà là nói như thể với những người phàm tục, với những trẻ thơ trong đấng Kitô. Tôi đã cho Anh Em ăn sữa, chứ không cho những của ăn rắn đặc vì Anh Em không chịu nổi...(I Cor. 3,1)

Vậy phần Mật Giáo nội truyền đó có thể được trình bày như sau:

1. Con người có Thiên Tính hay Thiên Chúa hằng ngự trị trong tâm hồn mọi người.

2. Nước Trời đã ở ngay trong tâm khảm con người.

3. Mọi người đều có đấng Kitô trong tâm khảm.

4. Hai phương diện một con người: TÂM và THẦN.

5. Ý nghĩa cuộc tiến hoá quần sinh:

-Từ phàm phu con người sẽ trở thành Thần Linh.

-Từ phàm phu, con người sẽ tiến hoá, sẽ triển dương tới tuyệt đỉnh, để trở nên những con Thiên Chúa, để đạt đúng tầm kích như Chúa Kitô.

6. Đại Đạo chân truyền:

-Đi vào Tâm mà tìm Đạo, tìm Trời.

-Tỉnh giảm mọi lễ nghi, hình thức.

-Tìm cho ra luật lệ Trời ghi tạc trong tâm can.

-Sống kết hợp với Thiên Chúa.

I. Con người có Thiên Tính hay Thiên Chúa hằng ngự trong tâm hồn mọi người.

Thánh Paul viết:”Chỉ có một Thiên Chúa là cha chung mọi loài. Ngài ở trên mọi loài, xuyên thấu mọi sự, mọi loài, và ở trong mọi người chúng ta”[1]

Ngài lại nói:” Nhưng cũng chỉ là một Thiên Chúa tác động mọi sự trong mọi người. Mọi người đều được một phần hiển dương của Thần Chúa để góp phần vào ích chung.”[2]

Ngài cũng nói: “Anh Em há chẳng biết Anh Em là đền thờ. Chúa và Thần Chúa ở trong anh em sao?”[3]

Ngài viết thêm:”Anh em chẳng phải sống bằng xác mà bằng Thần, vì Thần Chúa ở trong anh em.[4]

2. Nước Trời đã ở ngay trong tâm khảm con người.

“ Nước Trời kề cận. [5]

“ Nước Trời không đến một cách lộ liễu, và không thể nói được: Nước Trời ở đây, nước Trời ở đó, vì anh em hãy biết: Nước Trời ở trong anh em.” [6]

Tiếc thay những câu đó xưa nay được hiểu như là Nước Trời đã gần tới...Nước Trời ở giữa Anh em.

Vả lại niềm tin rằng nước Trời ở ngay trong tâm khảm mỗi người, chỉ là một hệ luận tự nhiên của niềm tin rằng: Chúa, Thần Chúa đã ngự trị trong tâm khảm mỗi người, như đã chứng minh ở trên.

3. Mọi người đều có đấng Kitô trong tâm khảm.

Ernest Bosc gọi đó là Huyền Nhiệm Đấng Kitô (le mystère du Christ) hay là Huyền Nhiệm Phúc Âm (mystère de l’évangile)[7]

Như vậy, theo Ernest Bosc, hiểu được huyền nhiệm đấng Kitô, nghĩa là linh cảm được rằng mình có Chúa Kitô trong lòng mình, là sẽ hiểu được tinh hoa Phúc Âm, nắm được cốt tuỷ Phúc Âm.

Ernest Bosc cho rằng: không nên hiểu Đấng Kitô là Ngôi Hai chỉ giáng trần một lần duy nhất trong Chúa Giêsu, mà phải hiểu đó chính là Ánh Linh Quang tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi người, Ánh Linh Quang phát xuất từ Đại Linh Quang bao quát toàn thể vũ trụ. Như vậy trong mỗi người đều có sẵn đấng Kitô, mỗi con người đều là một Tiểu Linh Quang, một phần tử bất khả ly của Đại Linh Quang.[8]

Thánh Paul viết: “Anh em há chẳng biết thể xác anh em là thân thể đấng Kitô...Anh em hãy ngợi khen và mang Thiên Chúa trong thể xác anh em.”[9] Câu Kinh Thánh trên là dịch nguyên văn từ Thánh Kinh Vulgate, nguyên bản Latinh. Trong các bản Thánh Kinh sau này, bất kỳ bằng tiếnh Anh, Pháp hay Việt, đều bỏ không dịch mấy chữ hãy mang thiên chúa trong thể xác anh em.

Thánh Paul cho rằng: Cái điều huyền diệu trên đây, từ bao thế kỷ trước ngài, người ta đã quên khuấy mất, và Ngài có trách nhiệm tuyên xưng lại điều ấy. Đó là: Đấng Kitô ở trong Anh Em.[10]

Chính là vì trong mỗi người chúng ta, có cái Mầm Mộng Kitô đó, cho nên thánh Paul mới chủ trương rằng chúng ta có thể triển dương tới viên mãn, để thực sự đạt tới tầm kích của đấng Kitô. [11]

Như vậy, cái điều huyền diệu, cái điều bí ẩn của Phúc Âm chính là chỉ vẽ cho mọi người biết rằng: Trong lòng họ có Thượng đế hiện diện. Hồng ân này không rành riêng cho ai. Người Do Thái hay người muôn phương cũng được diễm phúc đó đồng đều như nhau. [12]

Thánh Paul cho rằng: Ngài đã chịu đau khổ, chịu vất vả để cho đấng Kitô được hình thành trong tâm hồn các giáo hữu.[13]

Như vậy lúc thì Phúc Âm nói: Trong ta có Thiên Chúa, lúc thì nói trong ta có đấng Kitô, lúc thì nói trong ta có Thần Chúa . Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa há đã chẳng mãi mãi ngự trị trọn vẹn trong tâm hồn ta hay sao?

Đây là lời Thánh Paul về Thần Chúa hiện diện trong ta: “Chính vì chúng ta có Thần Chúa, nên chúng ta mới có thể gọi Chúa là Cha. [14] và mới có thể cộng hưởng gia nghiệp Thượng Đế như Chúa Giêsu.” [15] “Chính vì chúng ta có Thần Chúa, nên chúng ta mới có sự hiểu biết về Chúa.”[16]

Thánh John cũng chủ trương: “Chúng ta biết được rằng: ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta, chính là vì Ngài đã cho chúng ta Thần Chúa.” [17]

Riêng tôi, từ lâu đọc Thánh Kinh, tôi thấy rằng, nếu Phúc Âm là một Tin Mừng, thì Tin Mừng ấy sẽ là như sau:

*Anh em chẳng phải là nhửng kẻ phàm hèn, chẳng phải là con nuôi, con nhặt, con đòi, mà anh em cũng y thức như tôi, chúng ta là con một Cha Chung. Vì thế mà Ngài mới lập ra Kinh Lạy Cha Chúng Tôi. [18]

*Nước Trời đã ở ngay trong lòng chúng ta.[19]

*Nếu Nước Trời ở trong ta, thì dĩ nhiên Vua Nước Trời không thể sống lưu vong ngoài nước Ngài, mà chắc chắn là phải sống động trong lòng chúng ta.

*Như vậy anh em chính là đền thờ của Ngài. [20]

*Như vậy, việc gì phải xây cất những đền đài, những thánh đường, thánh thất nguy nga cho Ngài ở, vì Ngài đâu có thèm ở trong những đền đài đó. Thánh Stephen, vị thánh tử đạo đầu tiên, và Thánh Paul, một trong những vị sáng lập ra Đạo Thiên Chúa đã long trọng tuyên xưng: Chúa Trời Đất chẳng bao giờ ở trong những đền đài do tay người tạo dựng nên.[21]

*Nếu Chúa ở trong mọi người, thì dĩ nhiên yêu người là mến Chúa. Cho nên Chúa Giêsu chung qui, chỉ dạy mến Chúa và yêu người, và bao giờ cũng chủ trương yêu người là mến Chúa.[22]

*Hơn thế nữa, con người chẳng bao giờ có thể tách rời Thiên Chúa dù là một phút, một giây. [23]

4. Hai phương diện trong một con người: Tâm và Thần.

Bí quyết này xưa nay chưa hề được giảng giải. Ernest Bosc tuy có đề cập đến vấn đề này, nhưng giải thích chưa được rõ ràng. [24]

Tôi cảm thấy có bổn phận làm sáng tỏ lại vấn đề.

Giáo lý Công Giáo công truyền chấp nhận rằng con người chỉ có 2 phần: XÁC VÀ HỒN ( Công đồng LATRAN IV, 1215.-VATICAN I, 1870), còn Thánh Kinh Công Giáo thì trái lại chấp nhận con người có 3 phần: Thần, Hồn, Xác. [25]

Thần và Hồn hoàn toàn khác biệt nhau. [26]

Thánh Paul và thánh Jude phân biệt 2 hạng người:

1.-Một hạng phàm phu, tục tử, sống lệ thuộc vào thất tình, lục dục. Đó là những ngưởi sống bằng Tâm Hồn (Êtres psychiques).

2.-Một hạng người sống bằng Thần (Êtres Spirituels)

Những hạng phàm phu, tục tử sống theo thất tình, lục dục (theo xác thịt), là những hạng người hay chia rẽ, [27] đĩ thoã, dâm tà, tin vơ thờ quấy, ghen ghét, chia rẽ, hay ghen, hay giận, hay cãi cọ, tham ăn, tục uống, chè chén, say sưa . [28]

Họ không sao hiểu được những gì siêu linh. [29]

Những con người như thế làm sao mà được nước Trời? [30]

Còn những con người siêu linh, tức là những người sống bằng Thần sẽ: nhân từ, vui tươi, khoan quảng, thích giúp người, có từ tâm, tin cậy nơi người khác, hiền từ, biết tự chủ, [31] và tùy nghi, những người đó, vì công ích, có thể trở nên khôn ngoan, hiểu biết, làm được phép lạ, chữa được bệnh tật, nói được tiên tri. [32]

Chỉ những người đó mới thông thần, mới hiểu được những điều huyền diệu của Chúa, biết được ý Chúa. [33]

Và quan trọng nhất là chỉ có những hạng người siêu linh ấy mới được TRƯỜNG SINH VĨNH CỬU. [34]

Trong thư viết cho bổn đạo thành Corinth, [35] thánh Paul có một đại luận “thần sầu, quỉ khốc” về hai phần Tâm (Hồn= corps psychique) và Thần (Corps spirituel).

Nhưng tiếc vì nó quá cao siêu, nên xưa nay chẳng mấy ai hiểu nổi, chẳng mấy ai để ý tới, chẳng mấy sách dịch được cho ra hồn.

Ngài cho rằng: phần Tâm (Hồn) hiện ra trước, phần Thần hiện ra sau. [36]

Ai có một chút kinh nghiệm đời sống tâm linh sẽ hoàn toàn đồng ý. Khi chưa giác ngộ, thì cái Thần trong con người chưa hiện, chưa hoạt động. Lúc ấy, Thần trong ta còn ngủ, chỉ mới có cái hồn là sống động.

Cái Hồn đó chẳng qua là phần bao bì, phần Địa, biến thiên, sinh tử. Như vậy, dĩ nhiên, nó không thể nào hưởng được Nước Trời, không thể nào được trường sinh vĩnh cửu, không thể nào trở nên bất hủ.[37]

Nó chẳng khác nào như những phần tuỳ thuộc của hạt lúa mì, cốt là để hỗ trợ cho cái mầm sống trong hạt lúa mì nảy nở ra cây lúa mì. Cũng như vậy, nó sẽ đóng vai hỗ trợ để cho cái phần Thần được trở nên sống động, triển dương.

Thế tức là gieo giồng cái Tâm Hồn, mà sẽ nảy nở ra cái Thần Linh. Gieo giồng cái biến thiên, sinh tử, để sản sinh ra cái trường sinh; gieo giồng cái yếu hèn, ti tiện, sẽ nảy nở ra cái huy hoàng và mãnh liệt. [38]

Thánh Paul tha thiết khuyên ta rằng:

Đã biết sống bằng Tâm Hồn, còn phải biết sống bằng Thần Linh nữa.

Cái phần Hồn chẳng qua là cái phần Đất, sẽ bị huỷ hoại. [39]

Cái phần Thần mới là cái phần Trời, siêu linh, vĩnh cửu. [40]

Tôi toát lược phần trình bày về Tâm và Thần của thánh Paul như sau:

THÁNH, PHÀM hai nét ghép thành NHÂN,

Phàm: ấy Nhân Tâm; Thánh: ấy Thần.

Tâm hình hiện trước, Thần kế tiếp,

Thần: Trời; Tâm: Đất, nhẽ tương phân.

Tâm, Đất dĩ nhiên vương sinh diệt,

Thần, Trời nên mới thoát chuyển luân.

Tâm, Đất tử vong, đành số kiếp,

Bất tử, trường sinh, chỉ có Thần.

5. Ý nghĩa cuộc tiến hoá quần sinh.

*Từ phàm phu con người sẽ tiến tới Thần Linh.

*Từ phàm phu con người sẽ tiến hoá, sẽ triển dương tới tuyệt đỉnh để trở nên Những Con Thiên Chúa, để đạt đúng Tầm Kích của Chúa Kitô. [41]

Cả vũ trụ, quần sinh như đang chờ sự hiển dương của những Con Thiên Chúa. [42]

“Cho tới ngày ấy, vạn vật như quằn quại trong cơn đau đẻ. Và không phải chỉ tạo vật mới như thế. Ngay đến như chúng ta, vì có Mầm Mộng Thần Linh, chúng ta cũng như thấy thâm tâm đang rên rỉ chờ ngày được nhận là Con Thiên Chúa. “[43]

Tiến hoá như vậy chính là lột bỏ đời sống phàm phu, đời sống theo thất tình, lục dục. Tức là rũ bỏ con người cũ, sống theo con người mới, lề lối mới, đạt dần tới sự hiểu biết chân thực, khuôn dần theo được đúng như chân tướng của Hoá Công. [44]

Muốn tiến hoá trên bình diện tinh thần, trước hết phải rũ bỏ cái lốt phàm phu, tục tử, phải rũ bỏ cái Hồn đầy thất tình, lục dục. Ôm ấp nó, o bế nó, muốn cưu mang, cứu chuộc nó thì làm sao mà mong được cứu rỗi. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng trong Matthew II, 39: “Ai muốn cứu linh hồn mình, thì sẽ mất; ai mà mất linh hồn mình vì ta, thì sẽ được nó.” [45]

Lão giáo nói: Tâm tử, Thần hoạt. Phật giáo dạy:

Diệt Tiểu Ngã, trở về với Đại Ngã cũng tương tự như vậy. Ý nói: Hồn có chết đi, thì Thần mới sống động được. Tiểu Ngã có chết đi, thì Đại Ngã mới triển dương được.

Cái tâm hồn phàm tục ấy cần phải chết đi, để chúng ta được sống lại một lần nữa, sống lại bằng Thần. [46]

*Vì Chúa là Thần, cho nên chúng ta không thờ Chúa bằng môi miệng, [47] cũng không phải bằng Hồn, vì Hồn đầy thất tình lục dục, không hiểu nổi được Chúa,[48] mà phải thờ Chúa bằng Thần. [49]

Lạ lùng thay trong Cựu Ước có nhiều nơi chép rõ rằng Hồn không bất tử. [50]

Charles Herbert, một tác giả thuộc Cơ Đốc Phục Lâm, một giáo phái thành lập năm 1862, trong quyển Le Chemin du Salut của Ông, đã cho thấy:

Chữ Thần được nhắc 827 lần trong Thánh Kinh.

Chữ Hồn được nhắc 873 lần trong Thánh Kinh.[51]

Sống bằng Thần, siêu phàm, thoát tục, mới có thể hợp nhất với Thiên Chúa, [52] mới có thể có cùng một Thần với Thiên Chúa. [53]

Chúng ta chẳng cần đợi tới lai sinh mới được hưởng nước Trời siêu việt ấy, mà ngay từ khi còn ở gian trần này. [54]

Có như vậy, sau này mới đáng được ngồi cùng một toà với Thiên Chúa. [55]

Ta cũng có thể mượn lời linh mục Henry Le Saux khi ông bình câu I Cor 15, 14 và tiếp theo để bàn về cuộc tiến hoá con người như sau:

Cũng là một sinh linh mà trước kia thì là:

Phàm phu, tục tử; phàm tâm, phàm thể.

Nhưng ngày nay, và mãi mãi về sau, sẽ là Thần Linh, là Thiên Thể, sẽ là Siêu Phàm. [56]

6. Đại Đạo chân truyền.

* Đi vào tâm mà tìm Đạo, tìm Trời.

Phúc Âm gọi thế là “khi cầu nguyện, hãy vào buồng, đóng cửa lại, cầu cùng Cha ở đó, ở trong nơi thầm kín, và Cha ngươi, nhìn thấu nơi thầm kín, sẽ trả công cho ngươi.” [57]

Ernest Bosc chủ trương rằng: Thiên Chúa nói cùng mỗi người chúng ta, trong buồng thầm kín của tâm hồn, chẳng cần qua trung gian; trung gian chỉ làm giảm tia sáng giữa tạo vật và tình yêu Ngài. [58]

* Tỉnh giảm lễ nghi hình thức bên ngoài.

Chính Chúa Giêsu đã khuyên: Đọc kinh làm chi cho nhiều. Đừng bắt chước lối ngoại giáo. [59]

Đừng quá chú trọng những lễ nghi, hình hạc, giả tạo bên ngoài, những lời giảng giáo, nhân vi, nguỵ tạo. [60]

Những linh mục ngày nào cũng đứng cầu kinh, dâng lễ, làm đi, làm lại một lễ hiến dâng, nào có xin tha được tội lỗi cho ai?” Đó chính là nguyên văn lời thánh Paul trong thư cho người Do Thái. [61]

* Tìm cho ra lề luật Trời ghi tạc trong tâm can.

Như vậy, tinh hoa đạo giáo không cốt tại những lễ nghi, hình thức bên ngoài, những lễ dâng để xin xá tội. [62]

Mà chính là để tìm cho ra luật Trời đã ghi tạc sẵn trong tâm can mình, [63] để tìm cho ra Thiên Ý, để mà theo, mà giữ. [64]

* Sống kết hợp với Thiên Chúa.

Sống kết hợp với Thiên Chúa chính là phần thưởng dành cho những người đã biết sống siêu phàm, thoát tục, đã rũ bỏ được phần Nhân, phần Hồn đầy thất tình, lục dục, đã sinh lại được bằng Thần, [65] đã đọc được Thiên Ý, [66] đã nói được như Thánh Paul: “Tôi sống, chẳng còn là tôi sống, mà là Chúa sống trong tôi. [67] Tôi có Thần Chúa” [68] “Tôi đã nắm được tư tưởng chúa Kitô.” [69] “Tôi cũng có một Thần như Chúa.”[70]

Tóm lại, Chân Đạo trước sau chỉ có một chủ trương: “Hãy bỏ lề thói sống của con người cũ, điêu tàn theo đà thời gian, với muôn nghìn dục vọng hoàng lương, hãy sống một đời sống Thần Linh mới, hãy mặc lấy con người mới, con người đã được tạo dựng nên đúng theo Thiên Ý, trong công chính, trong thánh thiện của Chân Lý.” [71].


 


CHÚ THÍCH

[1] Unus et Deus et Pater omnium, qui est super omnes, et per omnia, et in omnibus nobis. Eph. IV, 4,5,6.

[2] Mais c’est le même Dieu qui opère tout en tous. À chacun, la manifestation de Dieu est donnée en vue du bien commun. I Cor. XII 6,7.

[3] Ne savez-vous pas que vous êtes un temple de Dieu et que l’Esprit de Dieu habite en vous? I Cor. III,16.

[4] Vous, vous n’êtes pas dans la chair, mais dans l’Esprit, puisque l’Esprit de Dieu habite en vous? Rom. VIII, 9

[5] Le Royaume de Dieu est tout proche. Mc I, 15. Mat. 3, 2.

[6] Lk 17, 21

[7] Ernest Bosc, La Doctrine Ésotérique, tome 2, trang 26, 34-44.

[8] On désigne sous cette expression, la présence en l’homme de ce Rayon du Verbe, de cette étincelle de L’Esprit de Dieu qui est dénommé Christ. Le Christianisme et la Théosophie ne donnent pas à ce terme, la même signification; celle-ci prétend que l’échelle des  êtres est infinie, que de l’homme à l’émanation première de l’Absolu, nous venons de le voir, de l’homme au Logos (Christ Universel), il existe un nombre considérable de degrés de développement et que cette énorme distance ne saurait être franchie d’une facon arbitraire. Le corps du Logos (du Christ) c’est l’univers tout entier et toutes les qualités de cet Univers, toutes les potentialités de matières (visibles et invisibles), que nous nommons des êtres qui ont pour cause cet ESPRIT UNIVERSEL, dans lequel nous vivons,et nous nous mouvons...

Ernest Bosc, La Doctrine Ésotérique, p. 34-35. Xem thêm I Cor.XII, 6-11. Acts 17-28.

[9] Nescitis quoniam corpora vestra membra sunt Christi...Glorificate et portate Deum in corpore vestro. I Cor VI, 15-20

[10] Col. I, 25-27.

[11] Eph. IV, 13.

[12] Eph. III, 3-6.-Rom. III, 29.

[13] Ga IV, 19.

[14] Rom VIII, 14, 17.

[15] Rom VIII, 8, 17.

[16] I Cor 2, 12.

[17] I John, IV, 12-13.

[18] Mat 5, 45 và 9, 14.

[19] Lk 17, 21

[20] I Cor, 3, 16-17

[21] Ac 7, 48-49.-Ac 17, 24.-He 9, 24.

[22] Mat 5, 43.-Mat 22, 37-40.-Mk 9, 37.-Mk 12, 29-34.

[23] Jn 15, 5.

[24] Ernest Bosc La Doctrine ésotérique II, trang 31-40.

[25] I Th, 5, 22.

[26] He 4, 12.

[27] Ga 5, 18-25.-I Cor 2, 13-14.-Jd 19.

[28] Ga 5, 19-21.

[29] L’Homme psychique n’accueille pas ce qui est de l’Esprit de Dieu: C’est folie pour lui et il ne peut le connaitre. I Cor 2, 14.

[30] Ga 5, 21.

[31] Ga 5, 22-23.

[32] I Cor 12, 4-7.

[33] I Cor 2, 1-16.

[34] Ga 6, 7-9.

[35] I Cor 15, 35-53.

[36] I Cor 15, 46.

[37] I Cor 15, 50.

[38] I Cor 15, 35-44.

[39] I Cor 15, 50.

[40] I Cor 15, 49-53.

[41] Eph 4, 13

[42] Rom 8, 19.

[43] Rom 8, 23.

[44] Co 3, 6-16

[45] Qui enim voluerit animam suam salvam facere, perdet eam; qui autem perdiderit animam suam propter me, inveniet eam. Mat. 2, 39.-Mat. 16, 25.

[46] Jn 3, 7-8.-Mat 2, 38.-Mat 16, 25.

[47] Mk 7, 6-7.

[48] L’Homme psychique n’accueille pas ce qui est de L’Esprit de Dieu.

    La Sainte Bible (Bible de Jérusalem. ) I Cor 2, 14

[49] Jn 4, 24.

[50] * L’âme qui pèche, c’est elle qui mourra. Ez 18-4.

* C’est pourquoi je lui assignerai une part avec les grands. parce qu’il aura livré son âme à la mort. Isaie 53, 10-12, La Sainte Bible par J. N. Darby.

Vulgate dịch như sau: Pro eo quod tradidit in mortem animam suam.

*Puisque le Fils de l’homme n’est pas immortel. Si 17, 20.

[51] L’Esprit (Ruah en Hébreu, Pneuma en Grec, mot qui se rencontre 827 fois dans la Bible) c’est le souffle de vie qui est communiqué par Dieu...

 L’âme (Néphesh en Hébreu, Psuché en Grec, mot mentionné 873 fois dans la Bible) désigne avant tout la vie individualisée, la vie passagère...

Charles Gerber, le Chemin du Salut, Chapitre: L’Homme est-il immortel?

[52] Jn 17, 21.-I Jn 4, 12.

[53] I Cor 6, 16-17.

[54] Mat 16-28.

[55] Rev 3, 21-22.

[56] Ce fut le même être qui fut-Animalis, psychikon, “psychique” , “naturel”-qui maintenant est, et à jamais sera spiritualis, pneuma-tikon, spirituel.

I Cor 15, 44 and ss.-Henri le Saux, La Rencontre de l’Hindouisme et du Christianisme, Édition du Seuil, Paris, 1966, p. 29.

[57] Mat 6,6.

[58] Le Maitre Divin parle à chacun de nous dans la chambre secrète du coeur, sans qu’il soit nécessaire d’intermédiaire oblitérateur de son rayon entre sa créature et son amour.

 Ernest Bosc, La Doctrine ésotérique II, p. 43.

[59] Mat 6, 7.

[60] Mk 7, 6-7.

[61] He 10, 11.

[62] He 10, 5-7.

[63] He 10, 16.

[64] He 10, 10.

[65] Jn 3, 5.

[66] I Cor 2, 16.

[67] Ga 2, 20

[68] I Cor 7, 40.

[69] I Cor 2, 16.

[70] I Cor 6, 16-17.

[71] Eph 4, 24.

Cựu Ước.

Ecclesiasticus (Sirach)

Si.

Ezekiel

Ez.

Isaiah

Is.

Tân Ước.

Acts

Ac

Colossians

Co

I Corinthians

I Cor

II Corinthians

II Cor

Ephesians

Eph

Galatians

Ga

Hebrews

He

John

Jn

I John

I Jn

II John

II Jn

III John

III Jn

Jude

Jd

Luke

Lk

Mark

Mk

Matthew

Mt

Revelation

Rev

Romans

Ro

I Thessalonians

I Th

II Thessalonians

II Th

 

 

 


»   mục lục  |  chương kế

» Chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32