CHƯƠNG I
TINH HOA THIÊN CHÚA GIÁO.
(PHẦN MẬT TRUYỀN TRONG THIÊN CHÚA
GIÁO).
(Một phần tài liệu này đã được trích ra từ bộ LA
DOCTRINE ESOTERIQUE À TRAVERS LES ÂGES, gồm 2 cuốn của Ernest Bosc,
Chamuel Editeur, Paris 1889, nơi các trang 22-44, Tập II, thuộc Chương
XXVII, nhan đề ÉSOTÉRISME CHRÉTIEN).
*
* *
Đã từ lâu, tôi để tâm suy cứu về những đoạn
Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, có thể nói là TINH HOA. Cách đây
khoảng 20 năm, nhân đọc bộ La Doctrine ésotérique à travers les
âges của Ersnest Bosc, tôi thấy nên đúc kết lại, hệ thống hoá
lại, xiển minh lại bằng các lời trích dẫn trong các sách Phúc
Âm, và Thánh Thư, để thân tặng những ai có lòng
thành khẩn và tha thiết tìm cầu Chân, Thiện, Mỹ.
Nói rằng Công Giáo có phần Mật Truyền, ắt nhiều
người sẽ bỡ ngỡ. Nhưng thực tế, có như vậy. Vả lại, không phải cứ theo
Đaọ là nắm được tinh hoa của Đạo, là biết được điều thâm sâu của Đạo.
Chính thánh Paul đã viết: “Hỡi Anh Em, phần tôi,
tôi đã không thể nói với Anh Em, như nói được với những người có linh
cơ siêu thoát, mà là nói như thể với những người phàm tục, với những
trẻ thơ trong đấng Kitô. Tôi đã cho Anh Em ăn sữa, chứ không
cho những của ăn rắn đặc vì Anh Em không chịu nổi...(I Cor.
3,1)
Vậy phần Mật Giáo nội truyền đó có thể được trình
bày như sau:
1. Con người có Thiên Tính hay Thiên Chúa hằng
ngự trị trong tâm hồn mọi người.
2. Nước Trời đã ở ngay trong tâm khảm con
người.
3. Mọi người đều có đấng Kitô trong tâm khảm.
4. Hai phương diện một con người: TÂM và THẦN.
5. Ý nghĩa cuộc tiến hoá quần sinh:
-Từ phàm phu con
người sẽ trở thành Thần Linh.
-Từ phàm phu, con
người sẽ tiến hoá, sẽ triển dương tới tuyệt đỉnh, để trở nên những
con Thiên Chúa, để đạt đúng tầm kích như Chúa Kitô.
6. Đại Đạo chân truyền:
-Đi vào Tâm mà tìm
Đạo, tìm Trời.
-Tỉnh giảm mọi lễ
nghi, hình thức.
-Tìm cho ra luật lệ
Trời ghi tạc trong tâm can.
-Sống kết hợp với
Thiên Chúa.
I. Con người có Thiên Tính hay Thiên Chúa hằng
ngự trong tâm hồn mọi người.
Thánh Paul viết:”Chỉ có một Thiên Chúa là
cha chung mọi loài. Ngài ở trên mọi loài, xuyên thấu mọi sự, mọi loài,
và ở trong mọi người chúng ta”[1]
Ngài lại nói:” Nhưng cũng chỉ là một Thiên Chúa
tác động mọi sự trong mọi người. Mọi người đều được một phần hiển
dương của Thần Chúa để góp phần vào ích chung.”[2]
Ngài cũng nói: “Anh Em há chẳng biết Anh Em là đền
thờ. Chúa và Thần Chúa ở trong anh em sao?”[3]
Ngài viết thêm:”Anh em chẳng phải sống bằng
xác mà bằng Thần, vì Thần Chúa ở trong anh em.”[4]
2. Nước Trời đã ở ngay trong tâm khảm con người.
“ Nước Trời kề cận.
[5]
“ Nước Trời không đến một cách lộ liễu, và
không thể nói được: Nước Trời ở đây, nước Trời ở đó, vì anh em hãy
biết: Nước Trời ở trong anh em.”
[6]
Tiếc thay những câu đó xưa nay được hiểu như là
Nước Trời đã gần tới...Nước Trời ở giữa Anh em.
Vả lại niềm tin rằng nước Trời ở ngay trong tâm
khảm mỗi người, chỉ là một hệ luận tự nhiên của niềm tin rằng: Chúa,
Thần Chúa đã ngự trị trong tâm khảm mỗi người, như đã chứng minh ở
trên.
3. Mọi người đều có đấng Kitô trong tâm khảm.
Ernest Bosc gọi đó là Huyền Nhiệm Đấng Kitô (le
mystère du Christ) hay là Huyền Nhiệm Phúc Âm (mystère de l’évangile)[7]
Như vậy, theo Ernest Bosc, hiểu được huyền nhiệm
đấng Kitô, nghĩa là linh cảm được rằng mình có Chúa Kitô trong lòng
mình, là sẽ hiểu được tinh hoa Phúc Âm, nắm được cốt tuỷ Phúc Âm.
Ernest Bosc cho rằng: không nên hiểu Đấng Kitô là
Ngôi Hai chỉ giáng trần một lần duy nhất trong Chúa Giêsu, mà phải
hiểu đó chính là Ánh Linh Quang tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi người, Ánh
Linh Quang phát xuất từ Đại Linh Quang bao quát toàn thể vũ trụ. Như
vậy trong mỗi người đều có sẵn đấng Kitô, mỗi con người đều là một
Tiểu Linh Quang, một phần tử bất khả ly của Đại Linh Quang.[8]
Thánh Paul viết: “Anh em há chẳng biết thể xác
anh em là thân thể đấng Kitô...Anh em hãy ngợi khen và mang Thiên
Chúa trong thể xác anh em.”[9]
Câu Kinh Thánh trên là dịch nguyên văn từ Thánh Kinh Vulgate,
nguyên bản Latinh. Trong các bản Thánh Kinh sau này, bất
kỳ bằng tiếnh Anh, Pháp hay Việt, đều bỏ không dịch mấy chữ hãy
mang thiên chúa trong thể xác anh em.
Thánh Paul cho rằng: Cái điều huyền diệu trên đây,
từ bao thế kỷ trước ngài, người ta đã quên khuấy mất, và Ngài có trách
nhiệm tuyên xưng lại điều ấy. Đó là: Đấng Kitô ở trong Anh Em.[10]
Chính là vì trong mỗi người chúng ta, có cái
Mầm Mộng Kitô đó, cho nên thánh Paul mới chủ trương rằng chúng ta
có thể triển dương tới viên mãn, để thực sự đạt tới tầm kích của đấng
Kitô.
[11]
Như vậy, cái điều huyền diệu, cái điều bí ẩn của
Phúc Âm chính là chỉ vẽ cho mọi người biết rằng: Trong lòng họ có
Thượng đế hiện diện. Hồng ân này không rành riêng cho ai. Người Do
Thái hay người muôn phương cũng được diễm phúc đó đồng đều như nhau.
[12]
Thánh Paul cho rằng: Ngài đã chịu đau khổ, chịu
vất vả để cho đấng Kitô được hình thành trong tâm hồn các giáo hữu.[13]
Như vậy lúc thì Phúc Âm nói: Trong
ta có Thiên Chúa, lúc thì nói trong ta có đấng Kitô, lúc thì nói trong
ta có Thần Chúa . Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa há đã chẳng mãi mãi ngự
trị trọn vẹn trong tâm hồn ta hay sao?
Đây là lời Thánh Paul về Thần Chúa hiện diện trong
ta: “Chính vì chúng ta có Thần Chúa, nên chúng ta mới có thể gọi Chúa
là Cha.
[14]
và mới có thể cộng hưởng gia nghiệp Thượng Đế như Chúa Giêsu.”
[15]
“Chính vì chúng ta có Thần Chúa, nên chúng ta mới có sự hiểu biết về
Chúa.”[16]
Thánh John cũng chủ trương: “Chúng ta biết
được rằng: ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta, chính là vì Ngài đã cho
chúng ta Thần Chúa.”
[17]
Riêng tôi, từ lâu đọc Thánh Kinh,
tôi thấy rằng, nếu Phúc Âm là một Tin Mừng, thì Tin Mừng
ấy sẽ là như sau:
*Anh em chẳng phải là nhửng kẻ phàm hèn, chẳng
phải là con nuôi, con nhặt, con đòi, mà anh em cũng y thức như tôi,
chúng ta là con một Cha Chung. Vì thế mà Ngài mới lập ra Kinh Lạy
Cha Chúng Tôi.
[18]
*Nước Trời đã ở ngay trong lòng chúng ta.[19]
*Nếu Nước Trời ở trong ta, thì dĩ nhiên Vua Nước
Trời không thể sống lưu vong ngoài nước Ngài, mà chắc chắn là phải
sống động trong lòng chúng ta.
*Như vậy anh em chính là đền thờ của Ngài.
[20]
*Như vậy, việc gì phải xây cất những đền đài,
những thánh đường, thánh thất nguy nga cho Ngài ở, vì Ngài đâu có thèm
ở trong những đền đài đó. Thánh Stephen, vị thánh tử đạo đầu tiên, và
Thánh Paul, một trong những vị sáng lập ra Đạo Thiên Chúa đã long
trọng tuyên xưng: Chúa Trời Đất chẳng bao giờ ở trong những đền đài do
tay người tạo dựng nên.[21]
*Nếu Chúa ở trong mọi người, thì dĩ nhiên yêu
người là mến Chúa. Cho nên Chúa Giêsu chung qui, chỉ dạy mến Chúa và
yêu người, và bao giờ cũng chủ trương yêu người là mến Chúa.[22]
*Hơn thế nữa, con người chẳng bao giờ có thể tách
rời Thiên Chúa dù là một phút, một giây.
[23]
4. Hai phương diện trong một con người: Tâm và
Thần.
Bí quyết này xưa nay chưa hề được giảng giải.
Ernest Bosc tuy có đề cập đến vấn đề này, nhưng giải thích chưa được
rõ ràng.
[24]
Tôi cảm thấy có bổn phận làm sáng tỏ lại vấn đề.
Giáo lý Công Giáo công truyền chấp nhận rằng
con người chỉ có 2 phần: XÁC VÀ HỒN ( Công đồng LATRAN IV,
1215.-VATICAN I, 1870), còn Thánh Kinh Công Giáo thì trái lại chấp
nhận con người có 3 phần: Thần, Hồn, Xác.
[25]
Thần và Hồn hoàn toàn khác biệt nhau.
[26]
Thánh Paul và thánh Jude phân biệt 2 hạng người:
1.-Một hạng phàm phu, tục tử, sống lệ thuộc vào
thất tình, lục dục. Đó là những ngưởi sống bằng Tâm Hồn (Êtres
psychiques).
2.-Một hạng người sống bằng Thần (Êtres
Spirituels)
Những hạng phàm phu, tục tử sống theo thất
tình, lục dục (theo xác thịt), là những hạng người hay chia rẽ,
[27]
đĩ thoã, dâm tà, tin vơ thờ quấy, ghen ghét, chia rẽ, hay ghen, hay
giận, hay cãi cọ, tham ăn, tục uống, chè chén, say sưa .
[28]
Họ không sao hiểu được những gì siêu linh.
[29]
Những con người như thế làm sao mà được nước Trời?
[30]
Còn những con người siêu linh, tức là những
người sống bằng Thần sẽ: nhân từ, vui tươi, khoan quảng, thích
giúp người, có từ tâm, tin cậy nơi người khác, hiền từ, biết tự chủ,
[31]
và tùy nghi, những người đó, vì công ích, có thể trở nên khôn ngoan,
hiểu biết, làm được phép lạ, chữa được bệnh tật, nói được tiên tri.
[32]
Chỉ những người đó mới thông thần, mới hiểu được
những điều huyền diệu của Chúa, biết được ý Chúa.
[33]
Và quan trọng nhất là chỉ có những hạng người siêu
linh ấy mới được TRƯỜNG SINH VĨNH CỬU.
[34]
Trong thư viết cho bổn đạo thành Corinth,
[35]
thánh Paul có một đại luận “thần sầu, quỉ khốc” về hai phần Tâm (Hồn=
corps psychique) và Thần (Corps spirituel).
Nhưng tiếc vì nó quá cao siêu, nên xưa nay
chẳng mấy ai hiểu nổi, chẳng mấy ai để ý tới, chẳng mấy sách dịch được
cho ra hồn.
Ngài cho rằng: phần Tâm (Hồn) hiện ra trước, phần
Thần hiện ra sau.
[36]
Ai có một chút kinh nghiệm đời sống tâm linh sẽ
hoàn toàn đồng ý. Khi chưa giác ngộ, thì cái Thần trong con người chưa
hiện, chưa hoạt động. Lúc ấy, Thần trong ta còn ngủ, chỉ mới có cái
hồn là sống động.
Cái Hồn đó chẳng qua là phần bao bì, phần Địa,
biến thiên, sinh tử. Như vậy, dĩ nhiên, nó không thể nào hưởng
được Nước Trời, không thể nào được trường sinh vĩnh cửu, không thể nào
trở nên bất hủ.[37]
Nó chẳng khác nào như những phần tuỳ thuộc của hạt
lúa mì, cốt là để hỗ trợ cho cái mầm sống trong hạt lúa mì nảy nở ra
cây lúa mì. Cũng như vậy, nó sẽ đóng vai hỗ trợ để cho cái phần Thần
được trở nên sống động, triển dương.
Thế tức là gieo giồng cái Tâm Hồn, mà sẽ nảy nở ra
cái Thần Linh. Gieo giồng cái biến thiên, sinh tử, để sản sinh ra cái
trường sinh; gieo giồng cái yếu hèn, ti tiện, sẽ nảy nở ra cái huy
hoàng và mãnh liệt.
[38]
Thánh Paul tha thiết khuyên ta rằng:
Đã biết sống bằng Tâm Hồn, còn phải biết
sống bằng Thần Linh nữa.
Cái phần Hồn chẳng qua là cái phần Đất, sẽ bị huỷ
hoại.
[39]
Cái phần Thần mới là cái phần Trời, siêu linh,
vĩnh cửu.
[40]
Tôi toát lược phần trình bày về Tâm và Thần của
thánh Paul như sau:
THÁNH, PHÀM hai nét ghép thành NHÂN,
Phàm: ấy Nhân Tâm; Thánh: ấy Thần.
Tâm hình hiện trước, Thần kế tiếp,
Thần: Trời; Tâm: Đất, nhẽ tương phân.
Tâm, Đất dĩ nhiên vương sinh diệt,
Thần, Trời nên mới thoát chuyển luân.
Tâm, Đất tử vong, đành số kiếp,
Bất tử, trường sinh, chỉ có Thần.
5. Ý nghĩa cuộc tiến hoá quần sinh.
*Từ phàm phu con người sẽ tiến tới Thần Linh.
*Từ phàm phu con người sẽ tiến hoá, sẽ triển dương
tới tuyệt đỉnh để trở nên Những Con Thiên Chúa, để đạt đúng Tầm Kích
của Chúa Kitô.
[41]
Cả vũ trụ, quần sinh như đang chờ sự hiển dương
của những Con Thiên Chúa.
[42]
“Cho tới ngày ấy, vạn vật như quằn quại trong cơn
đau đẻ. Và không phải chỉ tạo vật mới như thế. Ngay đến như chúng ta,
vì có Mầm Mộng Thần Linh, chúng ta cũng như thấy thâm tâm đang rên rỉ
chờ ngày được nhận là Con Thiên Chúa. “[43]
Tiến hoá như vậy chính là lột bỏ đời sống phàm
phu, đời sống theo thất tình, lục dục. Tức là rũ bỏ con người cũ, sống
theo con người mới, lề lối mới, đạt dần tới sự hiểu biết chân thực,
khuôn dần theo được đúng như chân tướng của Hoá Công.
[44]
Muốn tiến hoá trên bình diện tinh thần,
trước hết phải rũ bỏ cái lốt phàm phu, tục tử, phải rũ bỏ cái Hồn đầy
thất tình, lục dục. Ôm ấp nó, o bế nó, muốn cưu mang, cứu
chuộc nó thì làm sao mà mong được cứu rỗi. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng
trong Matthew II, 39: “Ai muốn cứu linh hồn mình,
thì sẽ mất; ai mà mất linh hồn mình vì ta, thì sẽ được nó.”
[45]
Lão giáo nói: Tâm tử, Thần hoạt. Phật giáo
dạy:
Diệt Tiểu Ngã, trở về với Đại Ngã cũng
tương tự như vậy. Ý nói: Hồn có chết đi, thì Thần mới sống động
được. Tiểu Ngã có chết đi, thì Đại Ngã mới triển dương được.
Cái tâm hồn phàm tục ấy cần phải chết đi, để chúng
ta được sống lại một lần nữa, sống lại bằng Thần.
[46]
*Vì Chúa là Thần, cho nên chúng ta không thờ Chúa
bằng môi miệng,
[47]
cũng không phải bằng Hồn, vì Hồn đầy thất tình lục dục, không hiểu nổi
được Chúa,[48]
mà phải thờ Chúa bằng Thần.
[49]
Lạ lùng thay trong Cựu Ước có nhiều nơi chép rõ
rằng Hồn không bất tử.
[50]
Charles Herbert, một tác giả thuộc Cơ Đốc Phục
Lâm, một giáo phái thành lập năm 1862, trong quyển Le Chemin du
Salut của Ông, đã cho thấy:
Chữ Thần được nhắc 827 lần trong Thánh Kinh.
Chữ Hồn được nhắc 873 lần trong Thánh Kinh.[51]
Sống bằng Thần, siêu phàm, thoát tục, mới có thể
hợp nhất với Thiên Chúa,
[52]
mới có thể có cùng một Thần với Thiên Chúa.
[53]
Chúng ta chẳng cần đợi tới lai sinh mới được hưởng
nước Trời siêu việt ấy, mà ngay từ khi còn ở gian trần này.
[54]
Có như vậy, sau này mới đáng được ngồi cùng một
toà với Thiên Chúa.
[55]
Ta cũng có thể mượn lời linh mục Henry Le Saux khi
ông bình câu I Cor 15, 14 và tiếp theo để bàn về cuộc
tiến hoá con người như sau:
Cũng là một sinh linh mà trước kia thì là:
Phàm phu, tục tử; phàm tâm, phàm thể.
Nhưng ngày nay, và mãi mãi về sau, sẽ là Thần
Linh, là Thiên Thể, sẽ là Siêu Phàm.
[56]
6. Đại Đạo chân truyền.
* Đi vào tâm mà tìm Đạo, tìm Trời.
Phúc Âm gọi thế là “khi cầu
nguyện, hãy vào buồng, đóng cửa lại, cầu cùng Cha ở đó, ở trong nơi
thầm kín, và Cha ngươi, nhìn thấu nơi thầm kín, sẽ trả công cho
ngươi.”
[57]
Ernest Bosc chủ trương rằng: Thiên Chúa nói
cùng mỗi người chúng ta, trong buồng thầm kín của tâm hồn, chẳng cần
qua trung gian; trung gian chỉ làm giảm tia sáng giữa tạo vật và tình
yêu Ngài.
[58]
* Tỉnh giảm lễ nghi hình thức bên ngoài.
Chính Chúa Giêsu đã khuyên: Đọc kinh làm chi cho
nhiều. Đừng bắt chước lối ngoại giáo.
[59]
Đừng quá chú trọng những lễ nghi, hình hạc, giả
tạo bên ngoài, những lời giảng giáo, nhân vi, nguỵ tạo.
[60]
“Những linh mục ngày nào cũng đứng cầu kinh,
dâng lễ, làm đi, làm lại một lễ hiến dâng, nào có xin tha được
tội lỗi cho ai?” Đó chính là nguyên văn lời thánh Paul trong thư
cho người Do Thái.
[61]
* Tìm cho ra lề luật Trời ghi tạc trong tâm
can.
Như vậy, tinh hoa đạo giáo không cốt tại những lễ
nghi, hình thức bên ngoài, những lễ dâng để xin xá tội.
[62]
Mà chính là để tìm cho ra luật Trời đã ghi tạc sẵn
trong tâm can mình,
[63]
để tìm cho ra Thiên Ý, để mà theo, mà giữ.
[64]
* Sống kết hợp với Thiên Chúa.
Sống kết hợp với Thiên Chúa chính là phần thưởng
dành cho những người đã biết sống siêu phàm, thoát tục, đã rũ bỏ được
phần Nhân, phần Hồn đầy thất tình, lục dục, đã sinh lại được bằng
Thần,
[65]
đã đọc được Thiên Ý,
[66]
đã nói được như Thánh Paul: “Tôi sống, chẳng còn là tôi sống, mà là
Chúa sống trong tôi.”
[67]
“Tôi có Thần Chúa”
[68] “Tôi đã nắm
được tư tưởng chúa Kitô.”
[69] “Tôi cũng có một
Thần như Chúa.”[70]
Tóm lại, Chân Đạo trước sau chỉ có một chủ trương:
“Hãy bỏ lề thói sống của con người cũ, điêu tàn theo đà thời
gian, với muôn nghìn dục vọng hoàng lương, hãy sống một đời sống Thần
Linh mới, hãy mặc lấy con người mới, con người đã được tạo dựng nên
đúng theo Thiên Ý, trong công chính, trong thánh thiện của Chân Lý.”
[71].
CHÚ THÍCH
[1]
Unus et Deus et Pater omnium, qui est super omnes, et per omnia,
et in omnibus nobis. Eph. IV, 4,5,6.
[2]
Mais c’est le même Dieu qui opère tout en tous. À chacun, la
manifestation de Dieu est donnée en vue du bien commun. I
Cor. XII 6,7.
[3] Ne savez-vous pas que
vous êtes un temple de Dieu et que l’Esprit de Dieu habite en
vous? I Cor. III,16.
[4]
Vous, vous n’êtes pas dans la chair, mais dans l’Esprit, puisque
l’Esprit de Dieu habite en vous? Rom. VIII, 9
[5]
Le Royaume de Dieu est tout proche. Mc I, 15.
Mat. 3, 2.
[7] Ernest Bosc, La
Doctrine Ésotérique, tome 2, trang 26, 34-44.
[8] On désigne sous cette
expression, la présence en l’homme de ce Rayon du Verbe, de cette
étincelle de L’Esprit de Dieu qui est dénommé Christ. Le
Christianisme et la Théosophie ne donnent pas à ce terme, la même
signification; celle-ci prétend que l’échelle des êtres est
infinie, que de l’homme à l’émanation première de l’Absolu, nous
venons de le voir, de l’homme au Logos (Christ Universel), il
existe un nombre considérable de degrés de développement et que
cette énorme distance ne saurait être franchie d’une facon
arbitraire. Le corps du Logos (du Christ) c’est l’univers tout
entier et toutes les qualités de cet Univers, toutes les
potentialités de matières (visibles et invisibles), que nous
nommons des êtres qui ont pour cause cet ESPRIT UNIVERSEL, dans
lequel nous vivons,et nous nous mouvons...
Ernest Bosc, La Doctrine Ésotérique,
p. 34-35. Xem thêm I Cor.XII, 6-11. Acts
17-28.
[9]
Nescitis quoniam corpora vestra membra sunt Christi...Glorificate
et portate Deum in corpore vestro. I Cor VI,
15-20
[12] Eph. III,
3-6.-Rom. III, 29.
[21] Ac 7,
48-49.-Ac 17, 24.-He 9, 24.
[22] Mat 5,
43.-Mat 22, 37-40.-Mk 9, 37.-Mk
12, 29-34.
[24] Ernest Bosc La
Doctrine ésotérique II, trang 31-40.
[27] Ga 5,
18-25.-I Cor 2, 13-14.-Jd 19.
[29] L’Homme psychique
n’accueille pas ce qui est de l’Esprit de Dieu: C’est folie pour
lui et il ne peut le connaitre. I Cor 2, 14.
[45] Qui enim voluerit
animam suam salvam facere, perdet eam; qui autem perdiderit
animam suam propter me, inveniet eam. Mat. 2, 39.-Mat.
16, 25.
[46] Jn 3,
7-8.-Mat 2, 38.-Mat 16, 25.
[48] L’Homme psychique
n’accueille pas ce qui est de L’Esprit de Dieu.
La Sainte Bible (Bible de Jérusalem.
) I Cor 2, 14
[50]
* L’âme qui pèche, c’est elle qui mourra. Ez 18-4.
* C’est pourquoi je lui assignerai une part
avec les grands. parce qu’il aura livré son âme à la mort.
Isaie 53, 10-12, La Sainte Bible par J. N.
Darby.
Vulgate dịch như sau: Pro eo
quod tradidit in mortem animam suam.
*Puisque le Fils de l’homme n’est pas
immortel. Si 17, 20.
[51]
L’Esprit (Ruah en Hébreu, Pneuma en Grec, mot qui se
rencontre 827 fois dans la Bible) c’est le
souffle de vie qui est communiqué par Dieu...
L’âme (Néphesh en Hébreu, Psuché en
Grec, mot mentionné 873 fois dans la Bible) désigne
avant tout la vie individualisée, la vie passagère...
Charles Gerber, le Chemin du Salut,
Chapitre: L’Homme est-il immortel?
[52] Jn 17,
21.-I Jn 4, 12.
[56] Ce fut le même être qui
fut-Animalis, psychikon, “psychique” , “naturel”-qui maintenant
est, et à jamais sera spiritualis, pneuma-tikon,
spirituel.
I Cor 15, 44 and ss.-Henri le
Saux, La Rencontre de l’Hindouisme et du Christianisme,
Édition du Seuil, Paris, 1966, p. 29.
[58] Le Maitre Divin parle à
chacun de nous dans la chambre secrète du coeur, sans qu’il soit
nécessaire d’intermédiaire oblitérateur de son rayon entre sa
créature et son amour.
Ernest Bosc, La Doctrine ésotérique
II, p. 43.
[71] Eph 4, 24.
Cựu Ước.
Ecclesiasticus (Sirach) |
Si. |
Ezekiel |
Ez. |
Isaiah |
Is. |
Tân Ước.
Acts |
Ac |
Colossians |
Co |
I Corinthians |
I Cor |
II Corinthians |
II Cor |
Ephesians |
Eph |
Galatians |
Ga |
Hebrews |
He |
John |
Jn |
I John |
I Jn |
II John |
II Jn |
III John |
III Jn |
Jude |
Jd |
Luke |
Lk |
Mark |
Mk |
Matthew |
Mt |
Revelation |
Rev |
Romans |
Ro |
I Thessalonians |
I Th |
II Thessalonians |
II Th |