TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23
24
25 26
27 28
29 30
31
32
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
CHƯƠNG XXIV
HAI CHỮ TÍNH MỆNH THEO
KHỔNG GIÁO.
Tâm pháp chi nguyên ư Tính Mệnh gia,
Tiên hậu đồng quĩ.
Bách thế chi thánh quân,
Hiền phụ vị năng dịch dã.
心 法 之 原 於 性 命 者
先 後 同 揆
百
世 之 聖 君
賢 輔 未 能 易 也。
Kinh Thư Đại Toàn,
quyển I (tựa)
Hai chữ Tính Mệnh có thể nói là 2 chữ hết sức hàm
súc, huyền diệu và cao siêu trong Khổng giáo.
Tử Cống nói:
“Văn chương, bình luận, phán phê,
Văn chương Phu Tử ta nghe thường rồi.
Còn như Tính, với Đạo Trời,
Mấy đời Thày giảng, mấy đời ta nghe.”
Đức Khổng nói: “Ta bàn chữ Tính không nổi.”
Lời nói khiêm tốn đó làm ta liên tưởng đến
một câu của Lão Tử:
“ Đạo Trời ôm ấp một mình,
Còn hơn vất vả thuyết minh suốt đời.”
Theo Luận Ngữ, khi 50 tuổi, Đức
Khổng mới biết Mệnh Trời.
Tăng Tử kết thúc quyển Luận Ngữ, bằng lời
giáo hoá của Đức Khổng:
“ Chẳng hiểu Mệnh Trời, không đáng gọi là
người quân tử.”
Ta sẽ bàn riêng từng chữ.
A. Chữ Tính.
I. Tính là Bản thể con người.
Thời Khổng Tử, chữ Tính đã thông dụng, nhưng
ít được bàn giải minh bạch. Mạnh tử là người đầu tiên bàn giải cặn kẽ về
chữ Tính, và đề xướng thuyết Tính thiện.
Đến đời Tống, các danh Nho đã bàn giải thêm
nhiều về chữ Tính.
Theo Mạnh tử và Chu Hi, Tính hàm súc vạn lý,
nhưng phần cương lĩnh lớn lao gồm 4 điều mệnh danh là Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí.
Minh Đạo tiên sinh thường nói: Tính cùng
Đạo trời, nếu không tự đắc, thì không biết dược.”
Trình Y Xuyên cho Tính là Chân Nguyên, là Lý,
là “Vật năng sinh”.
Trương Hoành Cừ cho rằng Tính là lẽ chí
thiện, chí mỹ của Trời đất.
Ngu Phong nói: Tính là lẽ mà trời đất thành
lập, nên tính là điều kín nhiệm của quỉ thần.
Lại nói: Tính bản nhiên ấy Chí Thiện. Đã bảo
rằng Chí Thiện tức Tuyệt Đối.
Vậy Tính hay Thiên Tính, Thiên Lý là nguồn
mạch sự sống, là Chân, Thiện, Mỹ. Vì thế Trung Dung định nghĩa: “Tính
là Hoàn Thiện, quang minh.”
Tóm lại, Tính là cái gì chí quí, chí bảo mà
trời đất đã phú thác cho ta.
Đó là cái gì toàn thiện, toàn mỹ. Chính vì
thế mà Thiền Tông nói: Minh tâm, kiến tính. Tu là làm sáng
cáiTâm, thấy được cái Tính của con người. Đó là Minh Đức nói
trong Đại Học. Ngày nay ta gọi thế là Bản Thể con người. Đó cũng
chính là Lương Tâm con người.
II. Tính và Tâm.
Sự khảo sát này đưa đến 1 sự kiện hết sức
quan trọng là sự phân biệt giữa Tính và Tâm. Theo quan niệm của các đại
hiền triết Nho Giáo, thì Tính và Tâm khác nhau muôn trùng.
Tính là Thiên Tính, Thiên Lý; Tâm là Nhân
tình, Nhân dục.
Tuy nhiên, đôi đằng vẫn có liên lạc mật thiết
với nhau. Theo Chu Hi, Tính là Thái Cực; Tâm là Âm Dương. Tuy khác nhau
trời vực, nhưng vẫn lồng vào nhau, như bóng với hình, tuy một mà hai,
tuy hai mà một.
Theo Trương Hoành Cừ, người ta ai ai cũng có
hai tính: Một Tính bản nhiên của Trời đất phú cho, thì ai cũng
lành, vì đó là lẽ Chí Thiện, Chí Mỹ của Trời Đất. Một Tính bẩm thụ
của khí chất, mà khí chất có dày, có mỏng, trong đục khác nhau,
thành thử tính ấy tuỳ sự bất đồng của khí chất, mà trở nên lành hay dữ.
Kẻ bẩm thụ được khí chất tốt đẹp, trong trẻo thì tính thiện. Kẻ bẩm thụ
phải khí chất mỏng manh, vẩn đục thì tính ác. Tuy nhiên, một người dù
hung ác đến mực nào, nếu biết đổi tính ác kia đi, sẽ giữ được nguyên cái
tính lành, là tính vốn có của mình.
Theo Mạnh Tử và Chu Hi, thì Tính hàm súc vạn
lý, gồm đủ: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.
Con Nhân Tâm chỉ có Tứ Đoan, tức là bốn mầm
mộng của 4 đức nói trên. Nghĩa là Tâm chỉ có lòng: Tu Ố, Từ Nhượng,
Trắc Ẩn, Thị Phi.
Ta có thể hình dung bằng hình vẽ sau:
Hình vẽ Nhân Tân, Đạo Tâm hay Tâm và Tính.
Các tầng lớp trong con người đối chiếu với
các Đạo Giáo và các Triết thuyết.
III. Quan niệm đối chiếu.
Quan niệm về Tính, sự phân biệt giữa Tính và
Tâm của Khổng giáo, đem đối chiếu với các chủ trương của các hiền triết
Đông Tây, sẽ không thấy chi sai biệt.
Các đại hiền triết Đông Tây, cũng như các
danh nho lịch đại, đều cố tiến vào đáy thẳm tâm hồn, để tìm cho ra Căn
Cơ Tâm Hồn mà các Ngài cho là Tuyệt đối Thể bất biến trường tồn, vừa tế
vi huyền diệu, vừa mênh mông bao quát vũ trụ.
Ý Thức (Conscience Psychologique) hay nói
cách khác những hiện tượng Tâm Lý (Phénomènes psychiques) góp lại dưới
danh từ Tâm Hồn, mới chỉ là những hiện tượng phù phiếm, chứ chưa phải là
Bản Thể Tâm Hồn.
Dưới lớp ý thức phù phiếm, biến thiên đó còn
có Tiềm Thức mênh mông làm Căn Bản Tâm Hồn.
Mỗi học thuyết triết học lại dùng những danh
từ riêng để diễn tả Căn Bản Tâm Hồn ấy. Đó là:
-Atman (Đại Ngã) trong triết học Bà La Môn.
-Chân Như, Phật tánh, Bản Lai Diện Mục v.v...
trong Phật Giáo.
-Đạo (Logos) của Philon, của Plotin và của
thánh Jean.
-Toàn-Nhất ( L’Un-Tout) của Hartmann.
-Tuyệt Đối Thể (Absolu) của Shelling.
-Vô Thức Đại Đồng (Inconscient Collectif) của
Carl Jung.
-Tự Thể (Noumène) của Kant.
-Thực Thể (L’Être)
-Tâm Đại Đồng (Conscience Universelle)
-Thiên Địa chi Tâm (Conscience Cosmique)
trong Siêu Hình Học Âu Châu.
-Đạo của Lão tử. v.v...
Các thánh hiền trong Khổng giáo chủ trương
trong Tâm có Tính, dưới lớp “Nhân Tâm nghiêng ngửa” còn có nền tảng “Đạo
Tâm siêu vi ẩn áo”, thì các hiền thánh Đông Tây cũng chủ trương tâm hồn
ta có 2 phần: 1 phần thẳm sâu, ẩn áo, huyền vi, cao siêu, linh
diệu, hoàn thiện, tuyệt đối, hằng cửu, bất biến, đó là Bản Thể, Bản
Tính nhân loại; một phần là Ta, biến thiên, nhỏ nhoi, hèn
mọn, cần được uốn nắn, đẽo gọt, rũa mài.
Hai phần đó là:
-Đại Ngã, Tiểu Ngã trong Bà La Môn,
-Chân Tâm, Vọng Tâm trong Đạo Phật,
-Đạo và Tâm trong Đạo Lão.
-Đạo Tâm và Nhân Tâm trong đạo Nho.
-Thần và Hồn hay Ruah và Nephesh (Do Thái)
-Thần (Pneuma) hay Hồn (Psuche) Hi lạp.
-Tân Ước và Cựu Ưởc cũng dùng các chữ Thần
Hồn như Do Thái và Hi Lạp.
-Thần (The Nus, La Divine Raison), Hồn
(Psuche) trong các môn phái Triết Học Âu Châu.
B. Chữ Mệnh.
Chữ Mệnh vừa là Mệnh Trời vừa là Định Mệnh
con người.
Vậy Mệnh Trời muốn gì và định mệnh con người
sẽ ra sao?
Đạo Nho cho rằng: Trời muốn con người tận
thiện mình, hiển dương tính Trời, để kết hợp với Trời, thông phần vinh
hiển của Trời.
Kinh Thi viết:
“ Mệnh Trời ấy há đâu có dễ,
Muốn cho ta đùng kể tư thân,
Biểu dương, phóng phát Thiện Chân...”
Tất cả pho Kinh Dịch cốt dạy ta thấu hiểu căn
bản con người dể hoàn tất sứ mạng con người.
Thiệu Khang Tiết chủ trương sự biến hoá
củavạn vật rồi ra cũng sẽ kết thúc bằng sự hoàn thiện. Ông viết: Nhất
biến thành vạn, rồi ra Vạn lại trở về Nhất, mà Nhất chính là “Thiên Địa
chi tâm”, là “Tạo Hoá chi Nguyên”
Ta nên nhớ: Định Mệnh con người thì trước sau
ai cũng như ai, cũng đều phải tiến tới hoàn thiện, hoà đồng,hợp nhất với
Trời, vì vậy cần có một thời gian vô cùng tận. Còn số mệnh, hay số kiếp,
số phận con người thì có giàu nghèo, sướng khổ khác nhau.
Cho nên muốn hiểu Mệnh Trời không phải là dễ.
Dịch viết: “Phải thông suốt lý lẽ, am
tường bản tính, mới có thể thấu đáo được Thiên Mệnh.”
Vì hiểu được Mệnh Trời, Nghiêu, Thuấn, Võ,
Thang, Văn đã nên như những vì sao sáng, chiếu diệu tinh quang cho tới
những thế hệ nay. Vì hiểu được Mệnh Trời, nên Nghiêu, Thuấn đã:
“Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm,
Ra công, ra sức giữ nguyên lòng Trời.”
Vì hiểu Mệnh Trời, Thành Thang đã cố đạt tới
hoàn thiện, tới tinh hoa nhân loại, Hạ Võ đã cố đạt tới Trung Dung. Sự
hoàn thiện ấy gọi là Đức, là Nhân, là Kính, là Thành; lời tuy khác,
nhưng ý là một, nghĩa là không ngoài sự làm sáng tỏ nguồn mạch kỳ diệu
của tâm hồn.
Vậy Mệnh Trời là muốn cho ta tìm cho ra Bẩn
Thể mình, theo tiếng lương tâm, phục tòng Thiên Lý, tận thiện mình để
kết hợp với Trời.
Đó cũng la chủ trương “Qui Nguyên Phục Mệnh”
của Đạo Lão.
“Muôn loài sinh hoá đa đoan,
Rồi ta cũng phải lai hoàn Bản Nguyên,
Hoàn Bản Nguyên, an nhiên Phuc Mệnh,
Phục Mệnh rồi, trường vĩnh vô cùng.”
Nhà bác học Lecomte du Nouy, gần đây cũng
viết trong quyển Định Mệnh con người: “Mọi người hãy ghi
nhớ rằng định lệnh con người rất cao quí. Con người xin đừng bao giờ
quên Tàn Lửa Trời trong thâm tâm mình. con người có toàn quyền khinh
miệt hay làm tiêu ma ngọn lửa thiêng đó, nhưng cũng có toàn quyền tiến
tới Thượng đế bằng cách ra công, ra sức hoạt động với Ngài và vì Ngài. “
Như vậy, theo Tiên Hiền, Tính với Mệnh thật
là hoàn toàn, thật là cao sang.
Tính, Mệnh là điểm Trời, Người gặp gỡ.
Trương Tử viết: “ Tinh hoa Trời ban cho người
gọi là Mệnh, Tinh Hoa người thụ hưởng nơi Trời gọi là Tính.”
Ngô Thảo Lư viết: Tính hay Mệnh đều là Thái
Cực.
Dở lại những trang sách cũ, ta mới thấy đối
với các vị Thánh Hiền ngày xưa, Tính Mệnh là ngọc châu vô giá. Tính là
Thiên Tính, Thiên Lý, Thiên Ý, cho nên theo “Tính Tự Nhiên” (suất Tính)
là lý tưởng của các Ngài.
Thực hiện được Thiên Tính, Thiên Lý, Thiên
Mệnh là đạt được định mệnh cao sang của con người, là thuận Mệnh Trời.
Có thể nói được rằng: hai chữ Tính Mệnh là
khởi điểm và là cùng điểm của lịch sử nhân loại. Vì thông phần Tính
Trời, nhân loại sẽ thực hiện được Mệnh Trời lúc lịch sử nhân loại cáo
chung, nghĩa là nhân loại sẽ đạt tới Toàn Thiện.
CHÚ THÍCH
Luận Ngữ, Công Dã Tràng, V, 12.
Mạnh Tử, Công Tôn Sửu, chương cú thượng, tiết 2.
Đa ngôn số cùng, bất như thủ trung.
多
言
數
窮,
不
如
守
中。
Luận Ngữ, quyển 10, Nghiêu viết, Đệ nhị thập.
Tống Nho, Bửu Cầm, tr. 140-141. Mạnh Tử,
Công Tôn Sửu Thượng, 6.
性
與
天
道,
非
自
得
之,
則
不
知。
Tính dữ Thiên Đạo, phi tự đắc chi, tắc bất
tri.
Tống Nho, Bửu Cẩm, tr. 89.
Tống Nho, Bửu Cầm, tr. 62.
性
也
者,
天
地
之
所
立
也。
Tính dã giả, thiên địa chi sở lập dã.
Tống Nho, Bửu Cầm, tr. 114, 115, và 119.
自
誠
明
謂
之
性。
Tự thành minh vị chi Tính.
性
猶
太
極
也;
心
猶
陰
陽
也;
太
極
只
在
陰
陽
之
中;
非
能
離
陰
陽
也;
然
之
論 太
極
自
是
太
極,
陰
陽
自
是
陰
陽。
惟
性
與
心
亦
然.
所
謂
一
而
二,二
而
一
也。
Tính do Thái Cực dã; Tâm do Âm Dương dã:
Thái Cực chỉ tại Âm Dương chi trung, phi năng ly Âm Dương dã. Nhiên
nhi luận chi, Thái cực tự thị Thái Cực, Âm Dương tự thị Âm Dương.
Duy Tính dữ Tâm diệc nhiên. Sở vị Nhất nhi Nhị, Nhị nhi Nhất dã.
Mạnh Tử, Công Tôn Sửu Chương Cú Thượng, 6.
Mạnh Tử, Công Tôn Sửu Chương Cú Thượng, 6.
xin xem: II, Thessaloniciens 4, 23; I Cor.
2, 14; Romains 5, 5; và 2, 29; 7,6;
II Cor. 3, 6; Galates
3, 3; Mat. 10, 39; Marc 7, 34, 35;
Luc 17, 23; Jean 12, 25, Jude
19;
Ezechiel 36,27; 18, 4;
Psaume 116, 8; Psaume 78, 50; Isaie
53, 12; Bible de Jesrusalem trang 1497, chú thích B;
tr. 1491, chú thích g; I Pierre 18.
Rất tiếc Giáo Hội Công Giáo lại không
chấp nhận con người có Thần. Công đồng Latran IV (1215) và Vatican I
( 1869-1870) đã xác nhận con người chỉ có 2 phần Hồn Xác, và không
chấp nhận quan niệm Tam Tài: Xác, Hồn, Thần của phái Gnostiques,
Manichéens, và Apollinaristes v.v... Như vậy là đi ngược lại với
Thánh Hiền Thiên Cổ Tây Đông, nhất nhất đều chấp nhận quan niệm Tam
Tài : Xác, Hồn, Thần.
Mệnh chi bất dị, vô át nhĩ cung, tuyên chiêu nghĩa văn,
命
之
不
易,
無遏
爾
躬,
宣
昭
義
文。
Kỳ vi thư dã, quảng đại tất bị, dĩ thuận Tính Mệnh chi lý, thông u
minh chi cố, tận sự vật chi tình, nhi thị khai vật, thành vụ chi
Đạo.
其 為 書
也
廣
大
悉
備,
以
順
性
命
之
理,
通
幽
明
之故,
盡
物
之
情,
而
開
示
開
物
成
務
之
道。
Thiên Địa vạv vật mạc bất dĩ Nhất vi bản nguyên; ư nhất
nhi diễn chi dĩ vi Vạn, cùng thiên hạ chi số nhí phục quy ư
Nhất, NhẤt giả, hà dã? “Thiên địa chi tâm” dã, “Tạo
Hoá chi nguyên” dã.
天
地
萬
物
莫
不
以
一
為本
原,
於
一
而
衍
之
為
萬,
窮
天
下
之
數
而
復
歸
於
一。
一
者
何
也。
天
地
之
心
也,
造
化
之
原
也。
Cùng Lý tận Tính dĩ chí ư Mệnh.
窮
理,
盡
性
以
至
於
命。
Duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết Trung.
惟
精
惟
一,
允
執
厥
中。
“Tinh Nhất chấp Trung” Nghiêu Thuấn tương thụ chi tâm pháp dã, Kiến
Trung, kiến Cực , Thương, Thang, Chu, Vũ tương truyền chi tâm pháp
dã. Viết Đức, viết Nhân, viết Kính, viết Thành, ngôn tuy thù, nhi Lý
tắc nhất: Vô phi sở dĩ minh thử Tâm chi diệu dã.
精
一
執
中,
堯
舜
相
授
之
心
法
也。
建
中,
建
極
商
湯
周
武相
傳
之
心
法
也。
曰
德,
曰
仁,
曰
敬
曰
誠,
言
雖
殊,
而
理
則
一﹕
無非
,所
以
明
此心
之
妙
也。
Phù vật vân vân, các qui kỳ căn, qui căn viết tĩnh, Phục Mệnh viết
Thường,
夫
物
芸
芸,
各
歸
其
根,
歸
根
曰
靜,
復
命
曰
常。
Let every man remember that the destinyof mankind is incomparable...
And let him above all, never forget that the Divine Spark is in him,
in him alone, and that he is frê to disregard it, to kill it, or to
come closer to God by showing his eagerness to work with Him and for
Him.”
Trương Tử viết: Thiên thụ ư nhân tắc vi Mệnh, nhân thụ ư Thiên tắc
vi Tính.
寂
子
曰﹕
天
授
於
人
則
為
命,
人
受
於天
則
為
性。
Đạo dã, Lý dã, Thành dã, Thiên dã, Đế dã, Thần dã, Mệnh dã, Tính
dã, Đức dã, Nhân dã, Thái Cực dã, danh tuy bất đồng, kỳ thực nhất
dã.
道
也,
理
也,
誠
也,
天
也,
帝
也,
神
也,
命
也,
性
也,性
也,
德
也,
仁
也,
太
極
也,名
雖
不
同,
其
實
一
也。
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23
24
25 26
27 28
29 30
31
32
|