TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12
13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
CHƯƠNG XIII
QUẦN KINH DIỆU TUYỂN
KINH SÁCH ĐẠO LÃO
Chương này với một tên rất kêu, lại có một mục đích
hết sức khiêm tốn.
Nó sẽ không đi vào chi tiết vô số kimh tạng, mà chỉ
muốn làm nổi bật ít nhiều tư tưởng then chốt của kinh tạng. Nó
không muốn đem 1 mớ không ngôn, nhồi nhét vào đầu não con người, mà chỉ
muốn đánh thức Nguyên Thần, kích động Thái Cực trong thâm tâm mỗi một
người, chỉ vụ Tinh chứ không vụ Đa. Vả rườm lời để làm gì, trong khi
người xưa đã nói:
“Nhất ngôn, bán cú tiện thông huyền, Hà dụng Đơn
Kinh thiên vạn thiên.”
Dịch:
Một tiếng, nửa câu đủ thông huyền,
Chẳng cứ đơn kinh, nghìn vạn thiên.
Trong chương này ta sẽ:
1. Nhìn bao quát kinh tạng Đạo Giáo.
2. Trình bày cốt tuỷ tinh hoa kinh tạng Đạo Lão.
1. Nhìn bao quát kinh tẠng ĐẠo Lão.
Kinh sách Đạo Lão xưa nay đã được sưu tầm và in
thành bộ Đạo Tạng.
Đạo Tạng đã được in đi, in lại nhiều lần, mỗi lần
lại mang 1 tên khác.
Ví dụ ta có:
-Khai Nguyên Đạo Tạng (713-741) in trong
những năm Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông, gồm 5300 quyển).
-Kim Ngân Tự Đạo tạng. Thời Đường mạt Ngũ
Đại.
-Đại Tống Thiên Cung Bảo Tạng. Tống Thái
Tông, Đoan Cung nhị niên, Thuần Hoá ngũ niên 989-994 và Tống Chân Tông,
Thiên Hi Tam Niên (1019)
-Chính Hòa Vạn Thọ Đạo tạng. (1113-1114) Đời
Tống Huy Tông, trong những năm Chính Hoà .
-Đại Kim Huyền Đô Bảo tạng. Kim Tông Liệt
Quang Cảnh,, trong những năm Minh Xương (1190-1193) .Gồm 6455 quyển.
-Nguyên Khan Huyền Đô Bảo Tạng. In xong năm
1244 đời Nguyên. (Năm 1281, toàn bộ Đạo Tạng bị Nguyên Thế Tổ ra lệnh
đốt sau vụ đấu lý giữa Phật và Lão về quyển Hóa Hồ Kinh)
-Chính thống Đạo Tạng hoàn tất đời Minh Anh
Tông, năm Chính Thống thứ 9. (1444)
-Bộ Đạo tạng này được Đài Loan in lại năm 1977.
-Bắc Kinh Văn Vật Xuất Bản Hội in lại năm 1988, có
sự hợp tác của Thượng Hải Thư Điếm và Thiên Tân Cổ Tịch Xuất Bản Xã.
Đạo Tạng gồm khỏang 4115 bộ. (Nhật Bản cung
nội sảnh bản tồn)
Như vậy số sách cũng thay đổi tùy theo mỗi ấn bản.
Tuy nhiên, sách Đạo Lão cũng khoảng trên 5000 bộ.
Ngoài ra còn có những Bộ như Đạo Tạng Khuyết Kinh
Mục Lục, Đạo Tạng Mục Lục tường chú, Đạo Tạng Tập Yếu v.v...
Đời Vũ Tông (1506-1521), và Thế Tông (1522-1566) nhà
Minh, đạo Lão cho in lại toàn bộ Đạo Tạng, gồm 1464 bộ lớn nhỏ. Mỗi bộ
gồm từ 1 quyển đền 300, 400 quyển.
Lý Kiệt chia Đạo Tạng thành 12 tiểu mục:
1. Bản văn (Les Textes fondamentaux).
2. Thần Phù (Les Textes efficaces).
3. Ngọc quyết (les commentaires et
amplifications).
4. Linh Phù (Les graphies efficaces, diagrammes,
dessins)
5. Phả Lục (Histoires et Traditions).
6. Giới luật (morales et ascétisme).
7. Uy nghi (ascétisme).
8. Phương Pháp (Pratiques, manipulations).
9. Chúng thuật (diététique, alchimie, astres,
nombres, etc...)
10. Kỳ truyện (Mythologies, légendes).
11. Tán Tụng (liturgie, hymnes, adresses).
12. Biểu tấu (documents, pétitions aux empereurs,
édits recus d’eux).
Trịnh Tiêu, thế kỷ XII, đã chia Đạo Tạng thành 25
tiểu mục sau đây:
1. Lão tử.
2. Trang Tử.
3. Chư Tử.
4. Âm phù Kinh.
5. Huỳnh Đình Kinh.
6. Tham đồng Khế.
7. Mục lục (les catalogues)
8. Truyện (les légendes).
9. Ký (histoires).
10. Luận (les dissertations).
11. Thư (les graphies).
12. Kinh (les textes).
13. Khoa nghi (disciplines et rites).
14. Phù Lục (formules et Talismans).
15. Thổ nạp (aérothérapie, photothérapie).
16. Thai Tức (entretien du Principe vital).
17. Nội quan (soins particuliers).
18. Đạo Dẫn (Massage).
19. Tịch cốc (Abstinence)
20. Nội Đơn (cures morales).
21. Ngoại Đơn (cures chimiques).
22. Kim Thạch dược (médecine et Pharmacie).
23. Phục Nhị (diète des candidats à
l’immortalité)
24. Phòng Trung (hygiène sexuelle).
25. Tu Dưỡng (Hygiène physique et morale)
Ở Trung Hoa, sách vở về Đạo Lão thời vô vàn vô số
như vậy, còn ở Việt Nam, ta chỉ thấy lèo tèo vài bộ kinh như Đạo
Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Âm Phù Kinh, Huỳnh Đình Kinh. Như vậy,
tỏ ra xưa nay, rất ít người Việt Nam để tâm nghiên cứu kinh sách Đạo
Lão.
Ước mong sau này, những sách sau đây sẽ được bình
dịch:
Âm Phù Kinh của Hoàng Đế.
Tham Đồng Khế của Ngụy Bá Dương.
Ngộ Chân Thiên, và Kim Đơn tứ
bách tự của Trương Tử Dương.
Bách tự Bi của Lữ Đồng Tân.
Nhập dược kính của Thôi Hi Phạm.
Chỉ Huyền Thiên của Lữ Đồng Tân.
Xướng Đạo Chân Ngôn của Hạc Cù Tử.
Đại Động Chân Kinh của Văn Xương Đế
Quân.
Huỳnh Đình Nội Cảnh, và Huỳnh
Đình Ngoại cảnh.
Tính Mệnh Khuê Chỉ của Doãn chân
nhân sư đệ.
Linh Bảo Tất Pháp của Chung Ly
Quyền.
Kim đơn đại thành tập của Tử Hư
Chân Nhân.
Phục Mệnh Thiên của Tiết Đạo Quang.
Thúy Hư Thiên của Trần Nê Hoàn.
Hoàn Nguyên Thiên của Hạnh Lâm
Thạch Thái.
Đơn Đạo Bí Thư, của Tôn Bất Nhị .
Ngộ Chân Thiên của Trương Bá Đoan.
Tiên Thiên Chính Lý trực luận của
Xung Hư Tử, Ngũ Thủ Dương v.v...
2. Trình bày cỐt tỦy kinh điỂn cỦa ĐẠo Lão.
a. Quan niệm Thái Cực và công cuộc đi tìm trường
sinh và chân lý
Quan niệm Thái Cực đã xây nền, đắp tảng cho công
cuộc tu thân, đi tìm chân lý, và trường sinh của Đạo Lão.
Vì tin rằng Thái Cực là Bản Thể vũ trụ, vạn hữu,
là Đạo, là Căn Nguyên, là cốt cách con người,
vì tin rằng Thái Cực vĩnh cửu trường tồn,
vô thanh vô xú, nhưng lại tiềm ẩn ngay trong đáy lòng con người,
nên các bậc chính nhân, quân tử, sau khi thấu hiểu Dịch Kinh, đã hồi
tâm, phản tỉnh, đã trở vào Tâm Thần mình mà tìm Đạo, tìm Trời.
-Thái Cực là Huyền Quan Khiếu hay Huyền Tẫn chi
môn.
-Thái Cực là Cái Đó (Na Ta Tử -Ta Tử-Giá Cá.)
-Thái Cực là Căn Bản.
-Thái Cực là Bản Lai Diện Mục.
-Thái Cực là Chân Như Bản Tánh.
-Thải Cực là Kim Cương Thân.
-Thái Cực là Thiên Tâm, là Thiên Địa chi tâm.
.
Thông Thiên Bí Thư, quyển 4, tr. 9b, viết đại
khái rằng:
“Trong con người có 1 Khiếu gọi là Huyền Tẫn. Đó
là nơi Tam Tài tương dung. Tinh, thần, hồn, phách tương hội ở huyệt đó.
Đó là Căn cơ cho công trình luyện Kim Đơn, hoàn phản. Đó cũng là nơi mà
Thần Tiên ngưng kết Thánh Thai.. Cổ nhân gọi đó là cái gốc Thái Cực, cái
chuôi Tiên Thiên, cái mối Hư Vô, cái nguồn Tạo Hóa, cái gốc Hỗn Độn, cái
Hang Thái Hư, cái Khiếu Qui Căn, cái cửa Phục Mệnh, cái cửa Mậu Kỷ, cái
xứ Chân Nhất, cái cung Trung Hoàng, cái phủ Đơn Nguyên, cái Đàn Thủ
Nhất, cái Lò Luyện Đơn, cái Đỉnh Chu Sa, cái huyệt Long Hổ, cái nhà
Huỳnh Bà, cái Lò Cừ, cái Thổ Phủ (Chõ Đất), Thần Thủy, Hoa Trì, Đế Ất,
Thần Thất, Linh Đài, Giáng Cung...Ta được Diệu Quyết vì chỗ Thành
Tiên, chứng Thánh đó gọi là Qui Trung, là nơi Thủy Hỏa giao cấu, là
Thiên Địa chi chính Trung trong con người...
Tất cả chỉ là Thái Cực dưới những danh hiệu khác
nhau: Nào Đao Khuê,
nào Hồng Mông, nào Hỗn Độn, nào Hư Vô. Tất cả đều là Thái Cực,
Mà Thái Cực là Kim Đơn.
Xướng Đạo Chân Ngôn viết: Đơn là
gì? Là Thái Cực nơi con người.
b. Thái Cực tiềm ẩn ngay trong lòng con người.
Mà lạ lùng thay, Thái Cực đã ở sẵn ngay trong con
người, nên dù cầu Đạo hay luyện Đơn, cũng phải quay về trong Thân Tâm mà
tìm kiếm.
Chính vì vậy mà Hoàn Nguyên Thiên
viết:
Luân hồi, Ngọc Thố dữ Kim Ô
Đạo tại nhân thân, thế thượng mê.
Liễu Mệnh Thiên viết:
Thân trung tận hữu diên niên dược,
Khả tiếu ngu nhân hướng ngoại tầm.
Tử Dương Tổ viết:
Diệu Đạo bất ly tự gia thân,
Khởi tại thiên sơn, vạn thủy tính.
Chỉ Huyền Thiên viết: “Chân
chính đại dược chỉ tại thân trung cầu chi, bất tại ngoại thủ.”
Tham Đồng Khế phát huy còn viết: “Nhìn
mà chẳng thấy, gần nên dễ cầu.”
Toàn Dương Tử Du Diễm bình: “Kim đơn Đại Đạo
chỉ ở trước mắt, thế nên Đại Đạo chẳng phải là gần sao? Tại sao, nhìn
không thấy, bắt không được, tuy gần mà vẫn là xa vậy. Nếu biết đường
lối, phép tắc mà cầu, thì chỉ mất công chốc lát, mà Hoàng Hoa đã hiển lộ
sáng lòa. Thế thì đâu có xa.
Ngộ Chân Thiên viết:
Công phu dung dị, dược phi dao,
Thuyết phá, nhân tu thất tiếu.
Dịch:
Công phu dung dị, thuốc đâu xa,
Nói ra, người ắt phải cười xòa.
Phục Mệnh Thiên viết:
Phân minh chỉ tại mục tình tiền,
Chỉ tại thời nhân bất kiến Thiên,
Dịch:
Phân minh đã sẵn trước con ngươi,
Chỉ tại thế nhân chẳng thấy Trời.
Vì không thấy, không hay, nên người ta đã bỏ
trong tìm ngoài. Có người hái nhật tinh, nguyệt hoa (tinh hoa mặt
trời, mặt trăng), có người luyện kim thạch thảo mộc, có người hành phòng
trung chi thuật, thật đúng là Đạo thì ở gần mà cầu nơi xa, sự việc dễ mà
cầu chuyện khó, buồn thay.”
Thất Chân Nhân Quả có thơ:
Ý ngoại cầu Tiên, lộ tựu soa,
Thủy trung nguyệt ảnh, kính trung hoa.
Tiên Thiên diệu lý, quân tri phủ,
Chỉ tại nhất tâm tiện khả khoa.
Dịch:
Thân ngoại cầu tiên ắt lạc đường.
Mò trăng đáy nước, hái hoa gương.
Tiên Thiên diệu lý, hay chăng tá,
Chỉ tại tâm điền, há viễn phương.
Thái Cực ở trong ta tức là ở trong thế Cực Tiểu,
Thái Cực ở ngoài vũ trụ là ở trong thế Cực Đại.
Xướng Đạo Chân Ngôn viết:
“Trung Dung nói: Nói lớn ra thì
Thiên Địa không đủ để mang chứa. Đó là Thái Cực bao trùm vạn vật vậy.
Nói nhỏ lại, thì thiên hạ không thể phá được. Đó là Thái Cực nhập vào
trong vạn hữu vậy.”
-Trương Tam Phong gọi Thái Cực ở trong thế Cực
Tiểu là Thử Mễ Bảo Châu (Bảo Châu hạt vừng)
,
hay Thử Mễ.
hay Nhất lạp thử mễ.
-Tử Dương Chân Nhân thì gọi đó là Huyền Châu.
“Hổ dược long đằng phong lãng thô,
Trung ương chính vị sản Huyền Châu.”
-Lữ Đồng Tân gọi là: Nhất lạp túc ( Một hạt
thóc)
-Trương tử Dương, trong quyển Kim Đơn tứ bách
tự đã đề cập đến Thái Cực trong thân bằng thơ sau:
Thử khiếu phi phàm khiếu, |
此
竅
非
凡
竅 |
Kiền Khôn cộng hiệp thành, |
乾
坤
共
合
成, |
Danh vi Thần Khí Huyệt, |
名
為
神
氣
穴, |
Nội hữu Khảm, Ly tinh. |
內 有
坎
離
精。 |
-Thượng
Dương Tử cũng xác quyết rằng Thái Cực đã tiềm ần trong thân ta, bằng
thơ:
Thử Khiếu phân minh tại nhỡn tiền |
此
竅
分
明
在
眼
前 |
Hạ sĩ văn chi đại tiếu yên. |
下
士
聞
之
大
笑
焉
|
c. Nếu Thái Cực tiềm ẩn trong ta, thì tiềm ẩn
nơi đâu?
Tiên Gia đã trả lời: Tại Nê Hoàn Cung, tức là tại
trung tâm đầu não con ngườì. Về tầm quan trọng của Nê Hoàn Cung, tôi đã
đề cập đến trong nhiều sách như Trung Dung Tân Khảo, Huỳnh Đình Kinh
bình Dịch (nơi chương 3, 4 phần khảo luận). Nơi đây chỉ nhắc lại: Nê
Hoàn ở trung cung đầu não, như Thái Cực ở giữa Cửu Cung, như Thiên Tâm ở
giữa các cung Trời. Nê Hoàn là Thiên Cốc, Nê Hoàn là Cốc Thần. Mà ta đã
biết: Cốc Thần là Thái Cực.
-Kim Đơn Đại thành viết:
Đầu hữu Cửu Cung, trung hữu
Nê Hoàn.
-Đại Động Chân Kinh viết:
Nhân đầu hữu cửu cung,do
Thiên hữu Cửu Tiêu.
-Kim Đơn Đại Thành còn viết: “ Đầu có
9 cung ứng với Chín Cung Trời. Chính giữa có một cung gọi là Thiên Tâm,
Tử Phủ, Thiên Uyên, Thiên Luân, Thiên Quan, Thiên Kinh, Thượng Đô quan,
Côn Lôn Đỉnh. Tên rất là nhiều, nhưng chung qui chỉ là Huyền Quan Nhất
Khiếu.”
-Tính Mệnh Khuê Chỉ viết:
Đầu hữu Cửu Cung, trung Nhất Cung danh viết Cốc
Thần.
-Huỳnh Nguyên Cát (1271-1355) viết:” Người ta đầu có
9 cung, ở giữa có một nơi gọi là Thiên Cốc, thanh tịnh không vương bụi
trần. Nếu có được Nguyên Thần vào an ngự nơi đó, không phát tán ra
ngoài, thời thành Tiên, thành Thánh. Huỳnh Đình Kinh nói: Nếu Bạn muốn
bất tử, hãy tu Côn Lôn. Mới hay Thiên Cốc thật là vô cùng huyền diệu.
Người xưa
có thơ:
Hướng tiền Thần tụ đồng Vô Cực, |
向
前神
聚
同
無
極 |
Kim tán, vi trần mãn thế đồ. |
今
散
微
塵
滿
世
途 |
Dục qui nguyên vị Hoàng Trung lý, |
欲
歸
元
位
黃
中
裡 |
Nê Hoàn vạn vựng tốc hồi qui. |
泥
丸
萬
彙
速
回
歸
|
Dịch:
Trước kia, Thần tụ đồng Vô Cực,
Nay tán, trần ai ngập thế đồ.
Muốn về Nguyên Vị Hoàng Trung cũ,
Nê Hoàn vạn vựng kíp hồi qui.
Thay vì bàn thêm nhiêù về Nê Hoàn, tôi xin cống hiến
một số danh hiệu thêm về Nê Hoàn. Đọc những danh hiệu ấy, tự nhiên ta sẽ
thấy những nhận định, những suy tư cuả ngưới xưa về Nê Hoàn.
Nhân bàn câu: Chân Nhân tiềm thâm uyên của
Nguỵ Bá Dương trong sách Tham Đồng Khế, Du Diễm bình như
sau:
“ Chân Nhân tức là Nguyên Thần. Thâm Uyên
là Thái Uyên. Nó có rất nhiều tên gọi, xin thử kể ra: Nê Hoàn Cung,
Lưu Châu Cung, Ngọc Thanh Cung, Thúy Vi Cung, Thái Vi Cung, Thái Ất
Cung, Thái Huyền Quan, Huyền Môn, Huyền Cung, Huyền Thất, Huyền Cốc,
Huyền Điền, Sa Điền, Đệ Nhất Quan, Đô Quan, Thiên Quan, Thiên Môn, Thiên
Cốc, Thiên Điền, Thiên Tâm, Thiên Luân, Thiên Trục, Thiên Nguyên, Thiên
Trì, Thiên Căn, Thiên Đường, Thiên Cung, Kiền Cung, Kiền Gia, Giao Cảm
Cung, Ly Cung, Thần Cung, Thần Thất, Thần Quan, Thần Phòng, Thần Đô,
Huyền Đô, Cố Đô, Cố Khâu, Cố Lâm, Cố Cung, Tử Đỉnh, Tử Kim Đỉnh, Chu Sa
Đỉnh, Cống Đỉnh, Ngọc Đỉnh, Ngọc Thất, Ngọc Kinh, Ngọc Vũ, Dao Phong, Đệ
Nhất Phong, Tối Cao Phong, Chúc Dung Phong, Côn Lôn Đỉnh, Không Động,
Bồng Lai Thượng Đảo, Thượng Kinh, Thượng Cung, Thượng Huyền, Thượng
Nguyên, Thượng Cốc, Thựơng Thổ Phủ, Thượng Đơn Điền. Tên thật nhiều,
nhưng chung qui chỉ có một.
Chính vì thế mà không vị Tiên Gia nào mà lại không
biết giá trị của Nê Hoàn.
Thái Cổ Tập vân:
Kim Đơn vận đáo Nê Hoàn huyệt,
Danh Tính tiên tương ký Ngọc Đô.
Dịch:
Kim Đơn vận tới Nê Hoàn Huyệt,
Danh tính đã ghi tại Ngọc Đô.
Huỳnh Đình Kinh viết: Tử dục bất tử
tu Côn Lôn,
Luận Tĩnh Trung Ngâm có câu:
Ngã tu Côn Lôn đắc chân
quyết.
Phục Mệnh Thiên viết:
Hồi hướng ngã gia viên lý,
Tài bồi nhất mẫu Thiên Điền.
Dịch:
Nhà xưa vườn cũ quay trở lại,
Một mẫu Thiên Điền cố chăm nom.
Hoàn Nguyên Thiên viết:
Ngộ Đạo hiển nhiên minh khuếch lạc,
Nhàn nhàn đoan toạ vận Thiên Quan.
Dịch:
Ngộ Đạo tự nhiên tỏ lối đàng,
Thảnh thơi ngồi thẳng vận Thiên Quan.
d. Đã biết Thái Cực ở nơi đâu, lập tức suy ra đựơc
con đựng phản bản hồi hướng.
Nhập Dược kính có thơ:
Nê Hoàn nhất khiếu đạt Thiên Môn,
Trực thượng Hư Hoàng, Ngọc Đế tôn.
Thử thị Chân Nhân lai vãng lộ,
Thời thời khóa hạc khứ triều nguyên.
Dịch:
Nê Hoàn một khiếu đạt Thiên Môn,
Thẳng tới Hư Hoàng Ngọc Đế Tôn.
Ấy chính Chân Nhân đường lui tới,
Thời thời cưỡi hạc để triều nguyên.
Còn phương pháp để trở về với Thái Cực, thì Tiên Gia
nhất luật chủ trương: Định, Tĩnh.
-Tiên Kinh vân: Tiên Thiên (Thái Cực)
thời Thu Nhiếp.
Hậu Thiên (Thân Tâm) thời biến hóa để trở nên xứng
đáng Dữ Đạo Hợp Chân.
-Dịch Kinh viết: Thánh Nhân dĩ thử tẩy tâm, thoái
tàng ư mật.
Thánh Nhân tẩy rửa tâm thân cho sạch tục lụy trần
ai, và rút lui vào chốn ẩn áo trong lòng mình.
-Đạo đức Kinh viết: Trí hư cực, thủ tĩnh đốc,
-Lại viết: “Tĩnh vi tháo quân.” (tĩnh là vua
của hoạt động).
-Bạch Ngọc Thiềm viết: “Nhân năng hư tâm, Đạo tự
qui chi.”
-Lý Đạo Thuần viết: “Nhân năng thường thanh tĩnh,
Thiên hạ tất giai qui,”
Lại nói:
“Trí hư tri diệu bản,
Tĩnh cực kiến Thiên Tâm.”
-Mã đơn Dương viết:
“Thanh Tĩnh tiện thị Trường Sinh quyết”
-Tự Nhiên Cư Sĩ viết:
“Tâm như minh kính liên thiên bích,
Tính tự hàn đàm chỉ thủy đồng.”
Dịch:
Tâm như gương sáng chiếu thinh không,
Tâm tựa hồ thu nước lắng trong.
-Tam Mao Chân Quân viết:
Linh Đài trạm trạm tựa băng hồ,
Chỉ hứa Nguyên Thần lý diện cư,
Nhược hướng thử trung lưu nhất vật,
Khởi năng chứng Đạo hợp Hư Vô?
Dịch:
Tâm Linh vằng vặc tựa băng hồ,
Chỉ khứng Nguyên Thần lý diện cư.
Nếu để vật chi vương vấn đó,
Làm sao chứng Đạo hợp Hư Vô?
Và dĩ nhiên, khi đã biết được Thái Cực là điểm đồng
qui, hội tụ, thì chỉ việc thu nhiếp thân tâm về nơi Trung Hoàng Mậu Kỷ
đó.
Người xưa có thơ:
Ly khảm, tinh thần, Nam hội Bắc,
Hổ Long, Hồn Phách hợp Tây Đông,
Tổng qui Mậu Kỷ thường tương hội,
Tận tại Huyền Quan nhất khiếu trung.
Thạch Hạnh Lâm viết:
Ý mã qui thần thất,
Tâm viên thủ Động Phòng.
Tinh, Thần, Hồn, Phách, Ý,
Luyện tác Tử Kim Sương,
Nếu ta kết hợp được với Thái Cực, với Trời, với Đạo
trong tâm hồn ta, đó là:
-Đắc Đạo.
-Qui căn, phản bản.
-Tìm lại được Bản Lai Diện Mục của mình.
-Tìm lại được Kim Cương Thân,
-Luyện được Kim Đơn.
Tiên gia gọi thế là:
-Uống được Đao Khuê.
-Uống được rượu Hồng Mông.
-Khai phá được Hỗn Độn.
Mới hay:
Nhất lạp Đao Khuê luyện nhập Thần,
Đại như Thử Mễ, trị thiên câm,
Chỉ tiêu bán trản Hồng Mông tưủ,
Ẩm xứ hà tu cánh cổ cầm.
Dịch:
Một hạt Đao Khuê luyện nhập Thần,
Hạt vừng to tựa, giá thiên câm (thiên kim).
Chỉ cần nửa chén Hồng Mông tưủ,
Lúc uống cần chi phải cổ cầm (gảy đàn).
Mới hay :
Hỗn Độn nếu chẳng tạc khai,
Hồng Mông nếu không bổ vỡ,
Bảo Châu trời đất sao thấy toû?
Để kết thúc chương này, ta mượn 2 câu thơ của Mã Đơn
Dương tặng Triệu Công:
“Thành tiên chỉ thị Thần Quang,
Thiên Cung vô dụng xú bì nang.”
Dịch:
Thành Tiên âu chỉ cốt Thần Quang,
Thiên cung xá kể cái xác phàm...
CHÚ THÍCH
Xem Đạo Tạng, trong Trung Quốc Đạo Giáo, Khanh Hi Thái
chủ biên, q. 2, tr. 11-40.
Xem Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển,
tr. 227-231.
Xem Trung Quốc Đạo Giáo Đại Sự niên biểu,
Trung Quốc Đạo Giáo, q. IV, tr. 293-322.
Lý Kiệt, Trương Vĩnh Tường, Mạnh Chí Tài, Đạo tạng mục lục
tường chú, in năm Đạo Quang thứ 35 (1885).
Xem Wieger, Taoisme, T. 1, p.
23
Xem Wieger, Taoisme, T. I, Bibliographie générale, p.
24.
Khổng tử tắc viết: Thiên Lý, Lão Tử tắc viết Cốc Thần, Dịch tắc viết
: Thái Cực. Danh tuy hữu dị, kỳ thực, đồng nhất Chân Như bàn thể dã.
...Đạo vi Thái Cực.
Tạ Vô Lượng, Trung Quốc Triết Học sử,
đệ Tam Thiên thượng, tr. 14.
Thái Cực tức Đạo, Đạo tức Đơn dã.
Hữu vật tiên Thiên Địa,
Vô hình bản tịch liêu,
Năng vi vạn tượng chủ,
Bất trục tứ thời điêu.
丹
者
何
也,
人
中
之
太
極
也。
Đơn giả, hà dả. Nhân trung chi Thái Cực dã.
Phù Vô Cực O giả, Thái Cực O dã. Đãn hữu cá thử Huyền Quan Nhất
Khiếu nhi Vô Cực, Thái Cực chi danh do thử phân. Kỳ thực vô khả phân
dã.
夫
無
極
O
者,
太
極
O
也
。但
有
個
此
玄
關
一
竅
而
無
極,
太
極
之
名
由
此
分。其
實
無
可
分
也.
Vô Cực là Thái Cực, chỉ vì có Huyền Quan
Nhất Khiếu mà Vô Cực, Thái Cực chia thành 2 tên. Kỳ thực không thể
phân vậy.
...Nguyên Quan tức Nguyên Tẫn chi biệt danh,
nhân kỳ Âm Dương tại thử, cố vị Nguyên Tẫn môn. Nhân kỳ Nguyên Diệu
bất trắc, cố vị Nguyên Quan Khiếu, kỳ thực giai thử Nhất Khiếu nhĩ.
...Huyền Quan tức là Huyền Tẫn chi môn. Vì
gồm đủ Âm Dương nên gọi là Huyền Tẫn môn. Vì huyền diệu bất trắc,
nên gọi là Huyền Quan Khiếu. Kỳ thật, chỉ là một khiếu.
** (Thời nhà Thanh, vì vua Khang Hi tên là
Huyền, nên vì kiêng tên huý của vua, nên các chữ Huyền đổi thành
Nguyên hết. Nay ta đổi ngược lại: Các chữ Nguyên đổi lại thành
Huyền. Tượng Ngôn phá Nghi là của Lưu Nhất Minh
(1734-1821) viết thời nhà Thanh. Ông mất năm Tuyên Tông Thành Hoàng
Đế, Đạo Quang 1.)
...Huyền quan giả, chí huyền chí diệu chi cơ
quan dã. tức nhân thân trung chi Thái Cực thị dã.
...Huyền Quan là một cơ quan chí huyền,
chí diệu, đó là Thái Cực trong con người vậy.
Na ta tử sở vị Huyền Quan Khiếu dã.
那
些
子
所
謂
玄
關
也。
Na Ta Tử là Huyền Quan Khiếu.
Đàm Dưỡng Ngô, Địa Lý Hợp Bích,
tr. 106.
Ta Tử, Ngũ Trung dã
些
子
五
中
也.
Như trên. tr.
106.
Đại Đạo vô đa, chỉ tranh Na Ta Tử. Cố viết:
Bất ly hồ giá cá. Nhân Thân hữu thử Nhất Khiếu. Thiên Địa hữu thử
nhất Khiếu. Địa lý gia tu nhận thử Âm Dương chi khiếu.
大
道
無
多,
只
爭
那
些
子。
故
曰﹕
不
離
乎
這
個。人
身
有
此
一
竅。
天
地
有
此
一
竅。
地
理
家
須
認
此
陰
陽
之
竅。
Đại Đạo chẳng qua là Cái Đó. Cho nên nói:
Không lìa Cái Đó. Con người có khiếu ấy. Trời Đất cũng có khiếu ấy.
Các nhà Địa Lý cần nhận thức được Âm Dương khiếu ấy.
Căn bản do lai Thái Cực tầm.
根
本
由
來
太
極
尋。
Chân Như Bản Tánh giả, phụ mẫu vị sinh tiền, nhất chân vô vọng chi
thể, vị chi Bổn Lai Diện Mục. Thiền Tông tắc viết: Bổn Tánh Di Đà.
Khổng Tử tắc viết: Thiên Lý. Lão tử tắc viết: Cốc Thần. Dịch Đạo tắc
viết: Thái Cực. Kỳ thật đồng nhất Chân Như Bản Tính dã.
真
如
本
性
者,
父
母
未
生
前,
一
真
無
妄
之
體,
謂
之
本
來面
目。
禪
宗
則曰﹕
本
性
彌
陀。
孔
子
則
曰﹕
天
理。
老
子
則
曰﹕谷
神。
易
道
則
曰﹕
太
極.
其
實
同
一
真
如
本
體
也。
Dục cầu Trường Sinh, tu thức sở sinh chi bổn, dục cầu bất tử, đương
minh Bất tử chi nhân. Cố viết: Nhận đắc bất tử nhân, phương tài nhân
bất tử. Na bất tử Nhân, đạo gia hô vi Thiết Hán,Thích Thị hoán tác
Kim Cương. Tức thế nhân Bản Lai diệu Giác Chân Tâm thị dã.
欲
求
長
生,
須
識
所
生
之
本。
欲
求
不
死,
當
明
不
死
之
人。
故
曰﹕
認
得
不
死
人,
方
才
人
不
死。
那
不
死
人
,道
家
呼
為
鐵
漢。
釋
氏
喚
作
金
剛。
即
世
人
本
來
妙
覺
真
心
是
也。
Thái cực giả, ngô tâm chi Thiên Tâm dã.
太
極
者
吾
心
之
天
心
也。
Phù thân trung nhất khiếu danh viết Huyền Tẫn, khí dĩ sinh, thức vi
phủ thần, Tam Nguyên sở trú cánh vô phân biệt. Tinh Thần Hồn Phách
hội tại thử huyệt. Nãi Kim đơn hoàn phản chi căn. Thần Tiên ngưng
kết Thánh Thai chi địa. Cổ Nhân vị chi Thái Cực chi đế, Tiên Thiên
chi Bính, Hư vô chi hệ, Tạo hoà chi nguyên, Hỗn Độn chi căn, Hư Vô
chi cốc, Qui Căn Khiếu, Phục Mệnh Quan, Mậu Kỷ Môn, Chân Nhất Xứ,
Trung Hoàng Cung, Đơn Nguyên Phủ, Thủ Nhất Đàn, Yến Đơn Lô, Chu Sa
Đỉnh, Long Hổ Huyệt, Huỳnh Bà Xá, Dung Lô, Thổ Phủ, Thần Thủy, Hoa
Trì, Đế Ất, Thần Thất, Linh Đài, Giáng Cung. Ngã đắc diệu quyết,
danh viết Qui Trung...Khảm, Ly thủy Hỏa Giao Cấu chi hương, Nhất
Thân Thiên Địa chi chính Trung.
Nhập dược Kính viết:
Ẩm Đao Khuê, khuy Thiên xảo,
Biện sóc vọng, tri hôn hiểu.
飲
刀
圭,
窺
天
巧,
辨 朔
望
知
昏
曉。
Đả phá hỗn Độn, khiêu nhập Hư Vô.
打
破
混
沌,
跳
入
虛
無。
Tứ bách tự giải,
tr. 86.
Nhất kiếm tạc khai Hỗn Độn,
Lữơng thủ phách liệt Hồng Mông.
一
劍
鑿開
混
沌,
摳手
擘裂
鴻
濛。
Tham đồng Khế phát huy, q. trung, tr. 9a.
輪
迴
玉
兔
與
金
烏
道 在 人 心, 人 自
迷。
身
中
儘
有
延
年
藥
可
笑
愚
人
向
外
尋。
妙
道
不
離
自
家
身
豈
在
千
山
萬
水
并。
Thị chi bất kiến, cận nhi dị cầu.
視
之
不
見,
近
而
易
求。
Kim đơn Đại dược chỉ tại mục tiền, khởi bất
cận da? Nại hà thị chi bất kiến, bác nhi bất đắc, tuy cận, do viễn
dã. Nhược đắc pháp độ cầu chi, tắc phiến hướng công phu, tiện hữu
mãn mục hoàng hoa hiển lộ. Phù hà viễn chi hữu. Ngộ Chân Thiên
vân:
“ Công phu dung dị, dược phi dao, thuyết
phá, nhân tu thất tiếu”.
工
夫
容
易
藥
非
遙,
說
破
人
須
失
笑。
Tiếu giả dã, tiếu kỳ cận nhi dị cầu, nhi
nhân tự sách chi ư cao viễn dã. Phục Mệnh Thiên vân:”
Phân minh chỉ tại mục tình tiền, tự thị thời
nhân bất kiến Thiên”.
分
明
只
在
目
睛
前,
自
是
時
人
不
見
天。
Duy kỳ bất kiến dã, ư thị xả nội, vụ
ngoại. Hoặc thái Dương tinh, Nguyệt hoa, hoặc luyện kim thạch,
thảo mộc, hoặc hành phòng trung chi thuật, . Chính sở vị: Đạo tại
nhĩ, nhi cầu chư viễn, sự tại dị nhi cầu chư nan. Bi hĩ.
Trung Dung viết: ngứ đại , thiên hạ mạc năng tải, Thái
Cực bao hồ Thiên Địa chi ngoại dã. Ngứ tiểu, thiên hạ nạc năng phá,
Thái Cực nhập hồ vạn vật chi trung dã.
中
庸
曰﹕
語
大
天
下
莫
能
載,
太
極
包
乎
天
地
之
外。
語
小,
天
下
莫
能
破,
太
極
入
乎
萬
物
之
中
也。
Trương Tam Phong, Đạo Thuật hối tông,
q.3, tr. 101.
Trương Tam Phong, Đạo Thuật hối tông,
q.4, tr. 160.
虎
躍
龍
騰
風
浪
麤,
中
央
正
位
產
玄
珠.
Tiên Học Từ Điển, tr. 76.
Đại động Chân Kinh, tr. 7a.
Thủ hữu Cửu Cung, thượng ứng Cửu Ngung, kỳ trung Nhất Cung viết:
Thiên Tâm, viết Tử Phủ, Thiên Uyên, Thiên Luân, Thiên Quan, Thiên
Kinh, Thượng Đô quan, Côn lôn đỉnh. Kỳ danh phả chúng. Tổng nhi ngôn
chi viết: Huyền Quan Nhất Khiếu.
首
有
九
宮
上
應
九
隅,
其
中一
宮
曰﹕天
心,
曰
紫
府,
天
淵,
天
輪,
天
關,天
京,上
都
關,崑
崙
頂。
其
名
頗
眾。
總
而
言
之
曰﹕
玄
關
一
竅。
頭
有
九
宮,
中
一
宮
名
曰
谷
神。
Tính Mệnh Khuê Chỉ,
q. Hanh, tr. 21b.
Đầu hữu cửu cung, trung hữu nhất sở, danh viết Thiên Cốc, thanh tĩnh
vô trần. Năng tương Nguyên Thần an trí kỳ trung, hào bất ngoại trì
tức thành Chân, chứng Thánh, túc tại thị hĩ. Huỳnh Đình Kinh vân: Tử
dục bất tử tu Côn Lôn... Khả kiến thủ thử Thiên Cốc, hữu vô hạn chi
diệu dã.
頭
有
九
宮,
中
有
一
所,
名
曰
天
谷,
清
靜
無
塵。 能
將
元
神
安
置
其
中,
毫
不
外
馳,
息
成
真
證
聖,
即
在
是
矣。
黃
庭
經
云﹕
子
欲
不
死
修
崑
崙。。。可
見
守
此
天
谷
有
無
限
之
妙
也。
Đạo Học Cầu Chân, chương X.
Tham Đồng Khế phát huy, q, trung,
trang 18b.
Tham Đồng Khế phát huy, q, trung, trang 18b.
Tham Đồng Khế phát huy, q, trung,
trang 18b.
Tham Đồng Khế phát huy,
q, trung, trang 18b.
Tiên Kinh vân: Tiên Thiên bất đắc Hậu Thiên, vô dĩ
chiêu nhiếp. Hậu Thiên bất đắc Tiên Thiên, vô dĩ biến hóa.
仙
經
云﹕
先
天
不
得
後
天
無
以
招
攝
。
後
天
不
得
先
天
無
以
變
化。
Dịch, Hệ Từ Thượng, chương XI.
Đạo Đức Kinh, chương XVI.
Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 261.
Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 272.
Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 273.
Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 350.
Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 380.
Tính Mệnh Khuê Chỉ q. Hanh, tr. 4a.
一
粒
刀
圭
鍊
入
神
大
如
黍
米
值
千
金
只
消
半
盞
鴻
濛
酒
飲
處
何
須
更
鼓
琴
Cẩu bất tạc khai Hỗn Độn, phách liệt Hồng Mông, tắc hà dĩ khuy Thiên
Địa chi chí bảo.
苟
不
鑿
開
混
沌,
擘
裂
鴻
濛,則
何
以
窺
天
地
之
至
寶。
Tạc khai Hỗn Độn, phách liệt Hồng Mông,
phương kiến Kim Đơn.
鑿
開
混
沌,
擘
裂
鴻
濛,
方
見
金
丹。
Nhập dược kính, tr. 14a
成
仙
只
是
神
光
,天
宮
無
用
臭
皮
囊。
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12
13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
|