CHƯƠNG XXII.
NHÂN SINH QUAN
(THEO TRUNG DUNG VÀ DỊCH LÝ)
Vì không hiểu được tầm quan trọng và cao siêu của
Trung Dung, nên người đời thường cho rằng Trung Dung đưa ra một nếp
sống trung bình, không thái quá, không bất cập; một nếp sống cầu an,
không gây mâu thuẫn, để sống một cuộc đời thoải mái, an toàn.
Chủ trương này, gần đây đã được chính học giả Lâm
Ngữ Đường, mượn lời thơ Bán Bán Ca của Lý Mật Am, giới thiệu cùng độc
giả Mỹ, và đây là lập trường “Trung Dung”, hiểu theo nghĩa lừng chừng,
nước đôi đó.
Ta sống quá nửa đời phù phiếm,
Mới nhận ra huyền nhiệm Trung Dung.
Trung Dung hương vị khôn cùng,
Làm ta lòng dạ tưng bừng niềm vui.
Lúc mà cái con ngưới sướng nhất,
Chính là khi tới cấp trung niên.
Quang hoa dùng dắng triền miên,
Như chờ, như đợi gót tiên tạm ngừng.
Cõi trần lọt giữa chừng Trời đất,
Giữa tỉnh quê, ta cất nhà ta,
Thảnh thôi ta mở trại hoa,
Giữa chừng sông núi, la đà nước non.
Biết vừa đủ, tiền nong vừa đủ,
Vòng lợi danh, vương nửa tấm son.
Không sang, nhưng cũng dễ nom,
Không giàu, nhưng cũng còn dòn hơn ai.
Nhà ta xây, nửa đài, nửa các,
Đồ đạc ta lác đác đủ chơi.
Áo ta cũ mới chơi vơi,
Uống ăn na ná như người bậc trung.
Vài tôi tớ không thông, không dở,
Vợ con ta đỡ đỡ, ta ưng.
Nửa tiên, nửa tục lừng chừng,
Nửa cùng thần thánh, nửa cùng thê nhi.
Nửa bụng dạ, lo vì con cái,
Nửa tâm hồn gửi lại Hoàng Thiên.
Để khi thoát xác ta yên,
Dễ bề thưa gưỉ, biết niềm tới lui.
Ngà say là lúc ly bôi,
Đóa hoa hàm tiếu là thời mê ly.
Buồm nửa cánh, thuyền đi thong thả,
Cương vừa dong, vó ngựa mới hay.
Quá giầu phiền lụy sẽ đầy,
Quá nghèo cuộc sống sẽ dầy truân chuyên.
Trần ai sướng với phiền khó tách.
Trong ngọt ngào pha phách đắng cay.
Hưởng đời đừng quá mê say,
Lừng chừng, đại khái, tháng ngày tiêu dao...
Nhưng nếu Đức Khổng và các danh Nho chỉ đưa ra cho
nhân loại một mục phiêu, một lý tưởng tầm thường như vậy, thì có gì
đáng cho hậu thế kính tôn?
Nếu Trung Dung và Kinh Dịch đã được các danh Nho,
các tiên Hiền Đông Á cho là tuyệt phẩm, thì nó phải có gì cao siêu gấp
bội. Hơn nữa, đã là tinh hoa nhân loại, chắc chắn phải tế vi, ẩn áo.
Đã là Duy Nhất, Duy Tinh, thì phải tuyệt đỉnh công phu. Bác tạp dễ
tìm, tinh hoa khó kiếm; kỳ hoa, dị thảo đâu phải của mỗi sớm bán mua
ngoài cửa chợ?...
Cho nên có tốn công nghiên cứu, truy tầm, mới mong
tìm ra được vi ý của cổ nhân, tìm ra được đường lối của Thánh Hiền...
Tiêu chuẩn để đi tìm đường lối cổ nhân.
Nhưng lấy đâu ra tiêu chuẩn để đi tìm đường lối cổ
nhân?
Theo Trung Dung, đường lối Thánh
Hiền phải hợp với Nhân Tâm, Thế Đạo, hợp với định luật của Trời đất.
Trung Dung viết:
Đạo quân tử phát xuất tự thâm tâm,
Đem trưng bày, phổ cập tới thứ nhân,
Khảo chứng tiên vương, không có chi lầm lỗi,
Sánh với luật đất Trời không phản bội,
Thánh Nhân ngàn đời sau chẳng hề có chê bai.
So quỉ thần đường lối đúng không sai,
Thế là đã biết lòng Trời đó,
Thánh Nhân ngàn đời sau chẳng chê bai,
Thế là đã biết lòng người tỏ rõ.
Dịch kinh viết: “Thực là mênh mông, rộng rãi,
sánh đất Trời; biến hóa tựa bốn mùa; theo đúng chiều âm dương sánh với
hai vừng nhật nguyệt; tốt lành, giản dị, hợp với đức tối cao.”
Hơn nữa, con đường lý tưởng ấy đã được vẽ thành
những đồ bản trong Dịch Kinh.
Vậy, ta chỉ cần nghiên cứu tìm hiểu các đồ bản, để
tìm ra con đường đạo lý. Sau đó, ta sẽ khảo sát xem con đường đạo lý
đó có phù hợp với nhân tình, thế thái, với định luật đất Trời, với chu
kỳ nhật nguyệt, tinh thần hay không.
Với những tiêu chuẩn như trên, ta sẽ tha hồ lưng
túi gió trăng, buồm mây, chèo quế, lãng du trong rừng Nho, biển Thánh
mà không lo lạc bước, lầm đường.
Đường đời theo Dịch và Trung Dung.
Nghiên cứu các đồ bản Dịch, các họa bản Bát Quái,
ta đều thấy ngôi Thái Cực được đặt vào Trung Tâm Điểm. Ý cở nhân muốn
nói Dịch, hay Vô Cực, hay Thái Cực, hay nói nôm na là Trời, là Tạo Hóa
đã ở ngay Trung Tâm huyền diệu của vũ trụ. Con người là tiểu vũ trụ,
tức thị Trời cũng ở ngay trong tâm hồn để làm Trung Tâm (Trung) bất
biến (Dung), làm chân tâm nuôi sống con người, làm giường cột (axe)
cho con người dựa nương.
Ta thường thấy dân Á Đông treo Bát Quái trước nhà
mong trừ tà ma; phải chăng đó là tục lệ xa xưa, để tỏ lòng tôn kính
Thái Cực, tượng trưng cho Trời, ở Trung Tâm Bát Quái?
Cắt nghĩa như vậy, thì Trung Dung là Thái Cực;
Trung Dung lại là hồng tâm cho mọi người ngắm vào, là mục đích thâm
viễn của cuộc đời. Còn Dịch sẽ bao quát mọi biến hóa của vũ trụ và của
con người, mà mục đích tối hậu là thực hiện Trung điểm hoàn thiện đó.
Nếu hiểu rằng Trời ở ngay trong Trung Tâm huyền
diệu của vũ trụ, ở ngay trong tâm khảm con người, thì ta sẽ hiểu bài
toán cao siêu mà Trời ra cho nhân loại: “Đứng trong khỏang Càn Khôn
biến hóa vô lường này, làm sao tìm ra được Trung Tâm Điểm bất biến?”
Biên khu luân lạc từ bao,
Tìm sao cho thấy đường vào Trung Dung.
Đường Trung Dung linh lung, ẩn khuất,
Nẻo Bồng Lai, gai dấp, lau che...
Phục Hi đã giải bài toán trước tiên bằng một họa
bản không lời. Nghiêu, Thuấn, Văn Vương, Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử,
Chu Tử đều lĩnh hội được vi ý của Phục Hi, đã cố giảng giải cho ta,
nhưng bức màn bí mật vẫn còn như khép kín, vì đồ bản không lời làm ta
lạc lõng.
Thiệu Khang Tiết là người đầu tiên giải thích rõ
ràng hơn, chỉ vẽ cho ta biết đâu là đường lối Trời, đâu
là đường lối người, bằng cách đánh số tám quẻ
và bằng bái thơ sau đây:
Nhĩ mục thông minh nam tử thân, |
耳
目
通
明
男
子
身 |
Hồng quân phú dữ bất vi bần. |
洪
君
賦
與
不
為
貧 |
Tu tham Nguyệt động phương tri vật |
須
探
月
洞
方
知
物 |
Vị nhiếp Thiên Căn khởi thức nhân |
未
攝
天
根
豈
識
人 |
Càn ngộ Tốn thời quan Nguyệt quật |
乾
遇
巽
時
觀
月
窟 |
Địa phùng Lôi xứ kiến Thiên căn |
地
逢
雷
處
見
天
根 |
Thiên căn, nguyệt quật thường lai vãng |
天
根
月
窟
常
來
往 |
Tam thập lục cung đô thị xuân |
三
十
六
宮
都
是
春
|
Dịch:
Tai mắt nam nhi đứng cõi đời,
Lòng mang Tạo hóa há đâu chơi.
Quyết thăm động Nguyệt cho hay vật,
Cố hiểu Thiên Căn, để biết người.
Trời nổi gió giông thông động Nguyệt,
Đất vang sấm chớp lộ căn Trời.
Căn Trời, nguyệt động thường lai vãng,
Ba sáu cung xuân trọn vẹn đời.
Hội ý Thiệu khang Tiết, ta thấy rằng công cuộc tạo
thành vũ trụ, luôn đi từ chỗ phác giản đến tần phiền, theo hình vẽ
sau: 1-> 2, 3, 4, 5, 6, 7, -> 8.
Còn công phu tu luyện con người phải chia làm 2
giai đoạn:
1. Nửa đời đầu: đi từ phác giản đến tần phiền.
Tinh thần phải mạo hiểm vào trần hoàn và vật chất, để tìm hiểu vũ trụ.
Đó là Giai Đoạn hướng ngoại, giai đoạn Nghịch mà Tinh Thần sẽ
bị nô lệ hoàn cảnh rất nhiều (Khuất =
屈),
đó là giai đoạn ra đi (Khứ). 5->6, 7 ->8.
2. Nưả đời sau: đi từ Tần Phiền đến Phác Giản, từ
Thô đến Tinh, dùng Vật Chất để tài bồi cho Tinh Thần ngày thêm cao
đẹp, cho đến chỗ thuần túy, chí thiện, nên như ảnh tượng Trời (Càn),
khả dĩ có thể kết hợp với Trời, vào yên nghỉ tại Trung Tâm Huyền Diệu
của vũ trụ (Thái Cực, Trung Dung). Đó là Giai Đoạn Thuận, Giai Đoạn
trở về (Lai). Trong giai đoạn này, Tinh Thần sẽ dần dần chế ngự được
hoàn cảnh, sẽ thảnh thơi, thoải mái (thân =
伸)
Hai giai đoạn trên được xác định bằng đồ bản sau
đây:
Nếu nhìn kỹ 32 quẻ Tiên Thiên Bát Quái phía
phải, ta thấy các hào sơ. (Hào nằm trong cùng) đều là hào Âm; còn
nhìn sang 32 quẻ phiá trái, ta thấy các hào sơ (hào nằm phía
trong cùng) đều là hào Dương.Vì thế Hệ Từ đã nói: Nhất Âm, nhất
Dương chi vị Đạo. (Hệ Từ Thượng, tiết 1)
Thánh hiền thiên cổ đã đem quẻ Cấu “Phong trần” để
tượng trưng bước đầu đường luân lạc của con người, và đem quẻ Phục
“Hồi phục”, để đánh dấu giai đoạn sau, giai đoạn giác ngộ của những
người đã thấy được Thiên Địa chi tâm.
Đường lối này theo đúng nhẽ Âm Dương tiêu
trưởng của Trời đất.
Giai đoạn đầu là Dương tiêu Âm trưởng, sa
đọa lạc lõng dần vào cảnh phù du, hư ảo bên ngoài, đem tấm thân bán rẻ
lấy bát cơm, manh áo, đem thân làm tôi tớ cho hoàn cảnh xã hội, mà vẫn
lấy thế làm vinh dự. Trong giai đoạn này, vật chất dần dần đóng vai
trò tối thượng. Nhưng có giai đoạn này, thì giang sơn mới được tô
điểm, hoàn cảnh vật chất của quần chúng mới đượccải thiện. Tinh thần
trong giai đoạn này dần dần thu gọn lại như một ánh sao trên bầu trời
vân vũ.
Hệ Từ viết: “Con sâu đo nó co để
rồi nó duỗi. Con rồng con rắn nó ẩn để bảo tồn tấm thân. Có hiểu kỹ
càng, mới thấy lợi ích lớn lao. Cầu an thân trước, rồi mới có ngày
sùng đức cả.” (Hệ Từ chương V, tiết 1)
Đó tức là:
Anh hùng khi cuộn khúc lươn,
Khi cuộn thời vắn, khi vươn thời dài. (Ca dao)
Giai đoạn sau là Âm Tiêu Dương trưởng. Tinh thần
đã biết hướng thượng, tìm về nguồn mạch cao cả của mình, và sẽ dùng
vật chất làm thang mây, mà tiến lần về Trời.
Trong giai đoạn này, tinh thần dần dàn đóng vai
trò tối thượng. Nó thích hợp với những con người đã đứng tuổi, đã già,
những con người đã biết quẳng gánh lo, thoát vòng danh lợi, để quay về
tu luyện bản thân, nêu gương sáng soi cho đời, mong kết hợp với Trời
để được trường sinh bất tử.
Ngược lại, vật chất xuống giá dần, để cuối cùng
biến thành chiếc xe mây cho khách du rong ruổi trên đường thiên lý
sáng trong như ngọc thạch . Con đường thiên lý này gồm cả 2 bề vật
chất, tinh thần, uyển chuyển diễn tiến theo đà tuổi tác như một bài
thơ, một bản nhạc, mà tiết tấu hòa nhịp với trăng sao.
Đời sống con người lý tưởng với chu kỳ nhật
nguyệt tinh thần.
Con người lý tưởng mong mỏi khi giã từ thế tục,
tâm hồn sáng quắc như mặt trăng ngày rằm, như mặt trời chính ngọ, hay
mặt trời ngày Hạ Chí. Mà kỳ diệu thay, nếu ta theo vòng Dịch trên mà
đi tuần tự như vậy, thì ta sẽ thấy lúc ta thoát tục, cũng là lúc trăng
tròn, hay lúc mặt trời chính Ngọ.
Con người lý tưởng lúc sơ sinh cũng như vầng trăng
vừa quá rằm đẹp đẽ. Nhưng dần dà lớn lên, lạc lõng vào cuộc đờI, tìm
sinh kế, cũng như vầng trăng khuyết dần, mờ dần. Đến lúc công danh ở
đời rực rỡ, lợi lộc ở đời rồi rào, thì lại là lúc Tinh Thần nghèo nàn
nhất.
Nhưng con người lý tưởng không thể bị vật dục che
mờ mãi; nhờ sự suy tư về sự chất chưởng bên ngoài, con người đó có
ngày sẽ tìm lại được nguồn sống bên trong, sẽ dần dần tài bồi cho tâm
hồn mình thêm hoàn bị, và lúc thoát ly cuộc đời, sẽ rực rỡ như trăng
đêm rằm.
Con đường lý tưởng nói trên cũng vạch lại sự thăng
trầm của vừng dương.
Sau ngày Hạ Chí (21 tháng 6), mặt Trời đi vào cung
Cự Giải (Cancer). Ánh sáng và sức nóng một ngày một giảm cho tới cực
độ ở ngày Đông Chí (22 tháng 12).
Nhưng từ ngày Đông Chí trở đi, thì mặt trời lại
nóng lên, sáng lên dần mãi, đem ánh dương quang đượm nhuần cho hoa lá
trổ sinh, tưng bừng rộn rã với ngày Xuân, và dần dần trở lại ngôi vị
tối thượng vào ngày Hạ Chí.
Nếu xét vòng Chu Thiên trong một ngày đêm, thì
cuộc đời lý tưởng của người quân tử lúc sơ sinh cũng đẹp y như mặt
trời vừa quá Ngọ. Lúc lớn lên, bị vật dục che mờ, người quân tử cũng
như mặt trời, trải qua những cảnh hoàng hôn, và cảnh đêm dài tịch liêu
u tối; nhưng rồi ra, con người lý tưởng ấy dần dà sẽ gỡ được mọi tần
phiền, để cùng mặt trời trang trọng hiện ra trên nhãn giới, lúc bình
minh muôn thủa: cùng bình minh hưá hẹn một trời trong sáng mới, và khi
lìa thế sự, sẽ là “Nhật Lệ Trung Thiên” sáng quắc cả bầu trời...”
Hơn nữa, con đường Hoàng Đạo, mà con người lý
tưởng đi cũng là con đường mà Nhị Thập Bát Tú ruổi rong.
Đường đời lý tưỡng và lẽ biến thông của bốn mùa.
Đem sánh với bốn mùa, ta thấy con đường lý tưởng
này hợp nhẽ biến thông của bốn mùa.
Lúc sơ sinh là lúc nhựa sống tràn đầy như muôn hoa
khoe sắc trên cành sau ngày Hạ Chí. Lúc lớn lên, bước dần vào cuộc
đời, thấy làn tâm sự cũng dần ngả sang thu, và đến lúc hoa niên, khi
đã tiêu pha hết tinh thần, khi đã:
Mùi tục lụy, lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ, gót rỗ kỳ khu.
Tâm hồn lắm lúc cảm thấy lậnh lùng như băng giá.
Nhưng có sương tuyết lạnh lùng, mới có lại ngày
xuân ấm áp.
Trong những giờ phút con người chán ngán nhân tình
thế thái, lại là lúc con người thấy mở tung ra trong tâm hồn mình một
nhãn giới vô biên. Thế là khi mái tóc hoa râm, thì tinh thần lại đượm
màu xuân sắc. Một nguồn thơ mộng mới dâng lên giữa những cảnh ngộ éo
le của cuộc đời. Mùa xuân dày hi vọng trở về với một nguồn sống mới.
Và cũng như cây đâm chồi nảy lộc, vươn mãi lên
trên khung trời, trong ngày xuân ấm áp, tâm hồn cũng vươn mãi lên cho
tới tinh hoa cao đại. Cuối cùng, lúc từ giã cuộc đời, tâm hồn vẩn còn
chứa chan sự sống như trời mùa Hạ. Bao công lao sự nghiệp của cuộc đời
bấy giờ nở tung ra như muôn hoa tươi thắm để không bao giờ tàn phai.
Con đường lý tưởng với nhân tâm, thế đạo.
Con đường lý tưởng đó cũng rất phù hợp với nhân
tâm, thế đạo.
Con người, từ bao ngàn năm nay, vì không hiểu
định luật thiên nhiên, nên đã không đi đúng nhịp thời gian, tuổi
tác, gò bó mình vào những khuôn khổ chật hẹp, máy móc hóa cuộc đời
đáng lý là thơ mộng, hay lại quá phóng túng mình đến tan tác cả cuộc
đời.
Mặc dầu vậy, họ vẫn phác họa lại trong cuộc đời
mình bóng dáng cuộc đời lý tưởng ấy.
Bé thì thơ ngây, hồn nhiên, vô tội vạ, rồi dần dà
trở nên phóng ngoại, trở nên tò mò, rồi cũng tranh đấu, xông xáo, cũng
dấn thân vào phong trần, vật chất như ai. Lúc mái tóc hoa râm, lắm lúc
cũng thấy giật mình, muốn đoạn tuyệt với cuộc đời phóng đãng của mình,
muốn hồi tâm, tu tỉnh. Khi trở về già thời không ai bảo ai, bất kỳ
thuộc tôn giáo nào, con người cũng muốn quay về Trời, Phật, Thần,
Thánh, cũng kinh kệ, tụng niệm như ai...
Càng dấn thân (engagement) vào đời phong vũ bao
nhiêu lại càng mong muốn thoát thân (dégagement) bấy nhiêu. Nếu như
thấy được “Thiên Địa chi Tâm”, tìm ra được Trời trong đáy lòng mình,
là sẽ bước được vào con đường giải thoát.
Nói rộng ra, thì nhân loại cũng đang đi trên vòng
Càn Khôn đó, nhưng chậm chạp...
Giai đoạn đầu là giai đoạn đạo hạnh phù phiếm, xốc
nổi bên ngoài, để rồi dần dần lạc lõng vào dị đoan, mê tín.
Càng phóng ngoại bao nhiêu, càng chạy theo cái học
“trục vật” bao nhiêu, thì lại càng đi đến chỗ sa đọa tinh thần bấy
nhiêu, càng “nghịch Thiên”, “bối Thiên” bấy nhiêu. Nhưng chính nhờ
giai đoạn sùng thượng vật chất này mà nhân loại đã giải quyết được
những vấn đề mưu sinh, thích ứng với hoàn cảnh, đã xây dựng được hạ
tầng cơ sở cho vững chắc.
Nhưng khi đã trưởng thành, khi đã quá đâm chém
nhau, quá dè bỉu, ghen ghét nhau, quá bóc lột, áp bức nhau, nhân loại
sẽ dần dần trở lại sùng thượng các giá trị tinh thần vĩnh cửu.
Hiểu cuộc đời theo lẽ Dịch nói trên sẽ mở một con
đường tiến hóa bao la cho cá nhân cũng như cho nhân quần, xã hội.
Cá nhân sẽ tùy tuổi tác mình, tùy theo “thời”, tùy
theo khuynh hướng của từng tuổi, mà làm những công tác mình phải làm,
để cây đàn bản thân lúc nào cũng hòa âm, theo đúng cung điệu, tiết tấu
gia đình, xã hội, quốc gia, quốc tế, nhân loại và đất Trời. Đó là biết
“ứng biến theo thời”
Nhân loại và cá nhân sẽ không ăn rễ sâu xa vào vật
chất, mà chỉ coi vật chất là phụ thuộc, văn minh vật chất là một chặng
đường tiến hóa của mình, một lớp lang nhỏ bé trong tấn tuồng vĩ đại
của trời đất.
Âu Á gặp nhau trên đường Hoàng Đạo.
Các nước cổ Ba Tư, Ai Cập, Chaldée không biết vòng
Dịch tiên thiên của Phục Hi, nhưng lại nghĩ ra vòng Hòang Đạo với
những ẩn ý tương tự như vòng Dịch.
Vòng Hoàng Đạo cũng có 12 cung, ứng với 12 cung
Tí, Ngọ của vòng Dịch. Cung Mùi là cung Cự Giải (Cancer), cung Tí là
cung Nhân Mã (Sagittaire), cung Sửu là cung Ma Yết (Capricorne), cung
Ngọ là cung Song Tử (Gémeaux).
Thiệu Khang Tiết phân biệt 2 chặng đường Cấu và
Phục, thì Macrobe cũng cho rằng Cung Cự Giải là Cửa Người, và Cung
Ma Yết (Capricorne) là Cửa Thần Minh; đôi bên các nhau bằng một giải
Ngân Hà. Giải Ngân Hà ấy phải chăng đã được tượng trưng bằng con
đường lượn qua giữa vòng Bát Quái của Chu Dịch?
Các sách cổ Á Đông dùng con rồng để tượng trưng
các đấng thánh nhân, nên cũng cho con rồng biến hóa theo vòng Dịch
trên. “Rồng có thể tối hay sáng, ngắn hay dài. Xuân phân bay bổng lên
Trời, thu phân lặn sâu đáy vực”
Các sách cổ Ai Cập thì lại có câu chuyện thần
thoại về Thần Osiris (Thái Dương Thần) thay vào đó. Thần Osiris mới
đầu cũng bị gian truân, đọa đầy, hãm hại, nhưng sau ngày Đông Chí thì
phục sinh, sau Xuân phân thì lại trở về ngôi Cửu Ngũ.
Tóm lại, các đồ Dịch, cũng như vòng Hoàng Đạo, tuy
không lời, nhưng chứa chan ý nghĩa.
Thiệu Khang Tiết nói: “Đồ Dịch tuy không văn
tự, nhưng ta nói suốt ngày cũng không ra khỏi được vấn đề, vì tất cả
nghĩa lý muôn vật đều nằm trong đó.”
Vi ý cổ nhân.
Thánh hiền Đông Á mượn đồ Dịch để biện minh thuyết
“Nhất sinh Vạn”, và chỉ lối đường cho ta có thể từ “Vạn qui Nhất”.
Dịch gọi đó là phương pháp “khai vật, thành vụ”.17
Cho xem trước đầu đuôi chuyện đời, rồi mới dạy cho biết cách hoàn
thành lý tưởng.
Đường đời, theo Dịch Kinh, đều từ 1 tâm điểm tung
ra muôn vạn ngả. Ta có lao đao suốt đời, cũng chẳng sao đi hết muôn
vạn ngả đường. Càng phiêu lưu, càng lạc lõng, càng đi sâu vào một con
đường, càng thông tỏ chi tiết về một vấn đề, thì lại càng thấy mình
bất lực kém cỏi, lại càng thấy mình mù mờ về toàn thể vô biên. Đi ra
vạn, phiêu lãng trên muôn vạn ngả đường, dù có thành công đến đâu,
trong thâm tâm vẫn thấy thiếu thốn, vẫn bị ám ảnh bởi cảnh phù du, tạm
bợ, vẫn thấy mình như thân phận cánh bèo, bình bồng mặt nước, chân
mây, mà chẳng biết sẽ trôi gịat về đâu, bởi vì Vạn chỉ là một bóng
hình hư ảo của Nhất;
Đồ tri tụ xứ, ninh tri tán,
Đãn thức phù thời, ná thức trầm. (Thơ bèo)
Dịch:
Tụ rồi, đã chắc không khi tán,
Nổi đó, nào hay có lúc trầm. (Nam Phong
dịch)
Trở lại được với Nhất, là con người lý tưởng.
Người xưa gọi thế là Chí Nhân,
là Chân Nhân.
Đào Hư Tử gọi thế là: “Tâm hồn trở về trước
Tiên Thiên, siêu xuất trên hình số, siêu xuất sinh tử, không còn bị
hình số câu chấp nữa..”
Lối đường do “ Vạn qui Nhất” đã được xác định bằng
các đồ Dịch cổ nhân, theo đúng chiều Ngũ hành tương sinh.
Chu Hi cũng vẽ con đường đó, bằng cách tán phân 4
chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh lên vòng Càn Khôn.
Hai ngả đường đời.
Con đường từ “Vạn qui Nhất” trên vòng Dịch,
mới trông tưởng là tròn trĩnh không kẽ hở. Nhưng thực ra con đường đó
vốn phân làm đôi ngả Âm Dương,
Nưả đời đầu, vì con người một ngày một chìm đắm
vào bóng tối vật chất, nên Kinh Dịch gọi là Âm Đạo, Địa Đạo, hay Khôn
Đạo.
Nửa đời sau, vì con người ngày một vươn lên trong
ánh sáng tinh thần, nên Kinh Dịch gọi là Dương Đạo, Thiên Đạo hay Kiền
Đạo.
Hệ Từ viết:
“Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo; Kế chi giả
thiện dã, thành chi giả, Tính dã.”
Dịch:
Âm Dương đắp đổi Đạo Trời,
Theo thời tốt đẹp, suốt thời Toàn Chân.
.
Đường đời có 2 chiều: 1 chiều Âm, một chiều Dương,
bước vào đường đời đã là hay, đi cho đến cuối đường sẽ phục hồi được
Tính Trời.
Đi chiều Âm, đi vào con đường vật chất, sẽ tiến
tới chỗ Bất Nhân, chỗ không hoàn thiện.
Đi chiều Dương đi vào con đường tinh thần, sẽ tiến
tới chỗ Nhân, chỗ Hoàn Thiện.
Đức Khổng nói:
“ Đường đời có 2 ngả: Nhân và Bất nhân”,
chính là vì thế.
Đào Hư Tử viết:
“ Năm mươi năm đầu cuộc đời, là Tiến Số, là học để
giúp đời, càng ngày càng phải rạng mặt với đời.
Năm mươi năm sau, là Thoái Số, là học để treo
gương cho đời, càng ngày càng phải tu nhân, tích đức.”
Luận Ngữ viết:
“Đến chừng bốn, năm mươi mà ta chưa nghe danh
tiếng họ, chừng ấy ta chẳng còn sợ họ nữa.”
Nhưng con người không phải quay cuồng mãi trong vũ
trụ, mà cũng có lúc được vào Trung Cung huyền diệu, để làm chủ chốt vũ
trụ.
Bí quyết này đã được diễn tả bằng những hành động
tượng trưng của Thiên Tử xưa trong tòa Minh Đường.
Khi xưa, mỗi năm, sau ngày Hạ Chí, nhà Vua sẽ vào
Trung Cung Minh Đường, mặc áo hoàng bào, và ở đó ít ngày, cốt tượng
trưng quyền Thiên Tử, làm khu nữu cho không gian và thời gian.
KẾT LUẬN.
Nghiên cứu các Đồ Dịch, ta thấy cổ nhân đã phơi
bày nhẽ “Càn Khôn Hiệp Tịch” (Càn Khôn mở đóng), đã tháo gỡ máy Âm
Dương, đem cài lên những bức hoạ không lời, để vẽ đường chỉ lối cho
ta. Càng suy cứu vi ý cổ nhân ta càng thấy lý thú. Đồ Dịch tiên thiên
còn phân ngôi Chủ, Khách, đem lẽ cát hung, thiện ác làm thành hai bức
câu đối vĩ đại treo giữa trời đất cho tao nhân, mặc khách muôn đời
thưởng thức.
Đôi câu đối này không đối chữ theo luật trắc bằng,
nhưng đối quẻ, đối hào, đối ý, đối lý.
Đọc đôi câu đối trên, ta sẽ nghiệm ra phương pháp
“Xu cát, tị hung”. “ức Âm, tiến Dương”, “trưởng Thiện, tiêu Ác” của
người xưa, biết tới, biết lui, biết tìm sự sống qua sự chết, biết tìm
cái hay qua cái dở, tóm lại biết “định luật tương đối” chi phối con
người ra sao.
Mới hay Không, Có chuyển vần,
Dễ sinh ra Khó, Ngắn nhân thành
Dài.
Thấp, Cao tuỳ ngó Ngược, Xuôi,
Tiếng ca Trầm, Bổng, dòng đời Trước,
Sau.
(Lão tử,
Đạo Đức Kinh, chương II, Đoạn II)
Thế mới hay:
Gẫm đạo lý, có sau có trước,
Lẽ Âm Dương có ngược, có xuôi.
Xuôi là Gió cuốn bụi đời,
Đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm.
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than mới rõ chuyện đời.
Ngược là Sấm Chớp tơi bời,
Tầng sâu bày dãi Căn Trời nội tâm.
Trông tỏ đích chí nhân, chí chính,
Biết mục phiêu mới định, mới an.
Rồi ra suy xét nguồn cơn,
Con đường Phối Mệnh chu toàn tóc tơ...
Hiểu thế, ta sẽ tìm ra được vi ý cổ nhân, tìm ra
được then chốt kho tàng sử sách Á Đông, tìm ra được phương pháp khai
thác những kho tàng ấy.
Thực vậy, các thánh hiền Đông Á từ Phục Hi, Hoàng
Đế đến Nghiêu Thuấn, Khổng Tử, Lão Tử khi soạn thảo sách vở chỉ cốt
xiển minh nhẽ “Thiên Nhân tương dữ” (Trời, Người giao hảo), chỉ
cốt tìm ra phương pháp thể hiện lý tưởng “Thiên Nhân hợp nhất”
(Trời Người hợp nhất) mà thôi.
Cho nên Dịch cũng như Trung Dung chỉ cốt dạy con
người biết “kính sợ Trời tiềm ẩn trong tâm hồn mình”
,
dạy con người đừng để cho tâm hồn tan tác, tả tơi trước gió giông hoàn
cảnh, trước sự thử thách, cám dỗ bên ngoài; cải thiện bản thân đến chỗ
hoàn thiện, khả dĩ có thể sống kết hợp với Trời (Phối Thiên), cùng đất
trời trường sinh bất tử.
Nhưng Dịch và Trung Dung lại dạy ta đừng vội vàng,
phải học di trên đất trước rồi mới học bay lên trời, phải biết tìm
miếng cơm trước khi tìm nghĩa lý; phải biết thực tiễn trước, lý tưởng
sau. Thế mới là biết thời cơ, biết nhẽ tiến thoái, biết uyển chuyển
ứng phó với hoàn cảnh, biết biến thiên theo nhịp thời gian tuổi tác,
để lúc nào đời cũng đẹp như bài thơ, lúc nào cũng nhịp nhàng tiết tấu
như một khúc nhạc.
Khúc nhạc đó thật là tuyệt vời, có vui, có buồn,
có nhanh, có chậm; lúc lâm li, lúc hùng tráng; lúc rạt rào như thác đổ
đầu ghềnh; lúc khinh khoát, êm đềm như gió thu lướt qua hàng tơ liễu;
lúc lặng lẽ như ánh tường vân lãng đãng xuôi Nam trên đường trời muôn
dặm...
Thực là:
Trời xanh dẫn dắt chúng nhân,
Như là tấu khúc nhạc Huân, nhạc Trì.
Trời, Người đôi ngọc Chương, Khuê.
Bên cho, bên lấy đề huề biết bao.
Tay cầm, tay dắt khéo sao,
Trời xanh dẫn dắt dân nào khó chi.
Trong nhân sinh quan này tác giả không bàn tới nguồn gốc con
người, các yếu tố cấu tạo nên con người vì những vấn đề này được
đề cập tới trong nhiều chương khác của bộ sách này. (Xem các
chương chữ Tính, chữ Mệnh; Vũ Trụ quan v.v...)
Trong Chương này, chỉ đề cập tới một đời
sống lý tưởng, phù hợp với Bản Tính và có thể thực hiện được định
mệnh cao sang con người.
Bản dịch Việt Văn này khuôn theo bản dịch Pháp Văn, trong quyển
L’Importance de Vivre của Lin YuTang, tr. 123-124.
J’ai déjà vu la plus grande moitié de
cette vie flottane,
Ah! qu’il y a un mot magique,
Ce mot moitié d’une portée si riche,
Il nous fait gouter plus de joie,
Que nous n’en pouvons posséder.
Le meilleur état de l’homme
Est à mi-chemin de la vie,
Quand un pas ralenti lui permet le repos;
Le monde se trouve à mi-chemin “entre la
terre et le Ciel”
Vivre à mi-chemin entre la ville et la
campagne;
Avoir des fermes à mi-chemin entre les
rivières et les montagnes.
Être à demi-savant, à demi-châtelain, à
demi homme d’affaires;
Vivre à moitié comme un noble,
Et à moitié comme le commun des gens;
Avoir une maison moitié belle, moitié
laide,
Moitié élégamment meublée et moitié nue;
Des vêtement moitié vieux, moitié neufs
Et une nourriture mi-recherchée et
mi-simple;
Avoir des serviteurs ni trop intelligents
ni trop bêtes;
Une femme aui soit ni trop simple ni trop
habile,
Au fond, je me sens la moitié d’un
Bouddha,
Et presque la moitié d’un Bienheureux
Taoiste.
La moitié de moi-même est tournée vers le
Ciel,
L’autre moitié vers mes enfants,
Pensant à moitié comment assurer l’avenir
de ma postérité,
Et à moitié comment me présenter devant
Dieu,
Quand le corps sera laissé en repos.
Il est le plus sagement ivre, celui qui
est à moitié ivre;
Et les fleurs à moitié en boutons sont les
plus belles;
Les bateaux à demi-voilés naviguent le
mieux;
Et les chevaux avec les rênes à moitié
tendue trottent le mieux.
Qui possède moitié trop est inquiet,
Qui possède moitié trop peu désire
posséder plus.
Puisque la vie est à la fois amère et
douce,
Celui qui n’en goute que la moitié est
plus sage et plus intelligent.
廣
大
配
天
地,
變
化
配
四
時,
陰
陽
之
義
配
日
月,
易
簡
之
善
配
至
德。
Trong Thiên Khảo Luận này, tác giả chỉ dùng chữ Trung để chỉ Bất
Biến, chữ Dịch để chỉ biến Thiên, mà không dùng những nghĩa khác
của chữ Dịch.
...Le Principe Suprême, source de toutes les puissances, soit de
celles qui vivifient les pensées dans l’homme, soit de celles qui
engendrent les oeuvres visibles de la nature matérielle; cet être
nécessaire á tous les êtres, germe de toutes les actions, de qui
émanent (mot fatal, plume qui trahit) continuellement toutes les
existences, ce terme fatal, vers lequel elles tendent, comme par
un effort irrésistible, parce que toutes recherchent la vie; cet
être, dis-je, est celui que les hommes appellent généralement
Dieu.
復
其
見
天
地
之
心
乎。
Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ!
...陽
氣
生
來,
塵
夢
醒
攝
情
合
性,
歸
金
鼎
運
符
三
百
足
周
天
伏
氣
四
時
歸
靜
定
七
日
天
心
,
陽
位
復
五
龍
棒
聖
崑
崙
頂
黃
庭
十
月
產
靈
童
駕
鶴
凌
宵
任
游
騁。
Dương khí sinh lai trần mộng tỉnh,
Nhiếp tình hiệp tính, qui kim đỉnh.
Vận phù tam bách túc chu thiên
Phục khí tứ thời qui tĩnh định,
Thất nhật Thiên Tâm Dương vị phục.
Ngũ long bổng thánh Côn Lôn đỉnh
Huỳnh Đình thập nguyệt sản linh đồng,
Giá hạc lăng tiêu, nhiệm du sính
尺
蠖
之
屈
以
求
伸
也
龍
蛇
之
蟄,
以
存
身
也
精
義
入
神
以
至
用
也
利
用
安
身
以
崇
德
也。
Xích hoạch chi khuất, dĩ cầu thân dã,
Long xà chi trập dĩ tồn thân dã.
Tinh nghĩa nhập thần, dĩ chí dụng dã,
Lợi dụng an thân, dĩ sùng đức dã.
Dịch:
Sâu đo có lúc co mình,
Co mình cốt để duỗi mình dài hơn,
Long xà đông tới chập chờn,
Ngủ vùi tháng lạnh, bảo toàn tấm thân.
Học sao tinh nghĩa, nhập thần,
Rồi ra áp dụng muôn phần hay ho.
Đã rành, đã tỏ Hoá cơ,
Rồi ra lợi dụng hay ho thân mình.
Thân mình sung túc, an ninh,
Rồi ra nhân đức thi hành, sùng tôn.
Cours apparent du Soleil.
知
趨
時
應
變。
Tri xu thời ứng biến.
The Galaxy, Macrobius says, crosses the Zodiac in two opposite
points, Cancer and Capricorn, the tropical points in the
sun’s course, ordinariky called the Gates of the Sun. These two
tropics, before his time , corresponded with those constellations,
but in his day with Gemini and Sagittarius, in consequence of the
precession of the equinoxes; but the Signs of the Zodiac
remained unchanged; and the Milky Way crossed at the signs
Cancer and Capticorn, though not at these constellations.
Through these gates souls were
supposed to descend to earth and re-ascend to Heaven. One,
Macrobius says, in his dream of Scipio, was style the Gate of
Men; and the other, the Gate of Gods. Cancer was the
former, because souls descended by into the earth; and
Capricorn was the latter, because by it, they re-ascend to
their seat of immortality, and became Gods
...Les Orphiques croyaient dans le Cancer le
portail par où les âmes entraient en incarnation sortant en
multitude de la Voie Lactée...
... Il est intéressant de voir que la
naissance de l’Univers se place tout au commencement du signe
(Capricorne) était symbolisée par la naissance du Dieu solaire ou
de l’enfant divin au solstice d hiver, tandis que la dissolution
de l’univers matériel, suivant les Écritures de L’Inde, se produit
à la fin du signe...
能
幽
能
明,
能
細
能
巨,
能
短
能
長,
春
分
而
升
天,
秋
分
而
潛
淵。
Năng u năng minh, năng tế năng cự, năng
đoản năng trường. Xuân phân nhi thăng Thiên, Thu phân nhi tiềm
uyên. (Le Dragon)
We know that the Egyptians worshipped the Sun, under the name of
Osiris. The misfortune and the tragical death of this God were an
allegory relating to the Sun. Typhon, like Arhiman, represented
Darkness. The suffering and death of Osiris in the Mysteries of
the Night were a mystic image of the phenomena of Nature, and the
conflict of the two great Priciples which share the empire of
Nature, and most influenced our souls...
圖
雖
無
文,
吾
終
日
言,
而
未
常
離
乎
是,
蓋
天
地
萬
物
之
理
盡
在
其
中
矣。
Đồ tuy vô văn, ngô chung nhật ngôn, nhi vị
thường ly hồ thị, cái Thiên Địa vạn vật chi lý, tận tại kỳ trung
hĩ.
程
夫
子
曰﹕知
萬
理
歸
於
一
理
而不
知
一
理
散
於
萬
事,
重
重
無
盡,
無
盡
重
重,
自
他
不
間
於
微
塵,
始
終
不
離
於
當
念,
窮
玄
極
妙,
非
二
乘
凡
夫
之
所
能
知
也。
Trình Phu Tử viết: tri vạn lý qui ư nhất
lý, nhi bất tri nhất lý tán ư vạn sự, trùng trùng vô tận, vô tận
trùng trùng. Tự tha bất gián ư vi trần, chung thủy bất ly ư đương
niệm. Cùng huyền cực diệu, phi nhị thừa phàm phu chi sở năng tri
dã.
聖
人
之
憂
天
下
來
世
其
至
矣。
先
天
下
而
開
其
物,後
天
下
而
成
其
務。
Thánh nhân chi ưu thiên hạ lai thế, kỳ chí
hĩ. Tiên thiên hạ nhi khai kỳ vật, hậu thiên hạ nhi thành kỳ vụ.
至
人
之
心
定
于
一。
Chí Nhân chi tâm định vu Nhất.
心
反
于
先
天
之
先,
則
超
于
形
數
之
外,
出
入
生
死,
不
為
形
數
所
拘。
Tâm phản vu tiên Thiên chi tiên, tắc siêu
vu hình số chi ngoại, xuất nhập sinh tử, bất vi hình số sở câu.
Ấn Độ giáo cũng nhận con người phải qua 2 con đường: Đường về với
tổ tiên (Pitriyana), và đường về với Trời (Devayana). Nhưng 2 con
đường đó lại mở ra sau khi con người đã chết. Con đường thứ 1 là
Con đường Luân Hồi, con đường thứ 2, là con đường Niết bàn, siêu
thoát Luân Hồi, sinh tử:
... Mais par la mort, s’ouvrent deux sentiers,
le Pitriyâna, ou sentiers des Pitris, et le devayana ou
sentier des Dieux. Ils sont très soigneusement décrits dans
quelques passages que je vais vous résumer, et que l’on trouve
dans les Brihadaranyaka, Chandogya et Prasna Upanishads (Brihad.
Up. VI, II, 2-16. Chand. Up. V, III, Prasna I, 9-10. Chand. V, 10,
Chand. IV, 15-5. Bhagavad Gita VIII, 24-260.)
Les mots indiquant obscurité tels que fumée,
nuages, quinzaine sombre etc... impliquent emprisonnement dans la
matière, et correspondent au retour sur la terre, par une nouvelle
naissance; les mots signifiant lumière s’appliquent au triomphe du
soi, et correspondent au sentier des Dieux, par lequel on ne
retourne pas.
.
一
陰
一
陽
之
謂
道,
繼
之
者
善
也,
成
之
者
性
也。
Nhất Âm nhất Dương chi vị Đạo, kế chi giả
thiện dã, thành chi giả Tính dã.
Hệ Từ Thượng,
Chương V, tiết I.
人
生
五
十
之
前
為
進
數,
用
世
之
學,
當
一
日
章
一
日。
五
十
以
後
為
退
數,
垂
世
之
學,
當
一
日
積
一
日。
Nhân sinh ngũ thập chi tiền vi tiến số.
Dụng thế chi học, đương nhất nhật chương nhất nhật. Ngũ thập chi
hậu, thùy thế chi học, đương nhất nhật tích nhất nhật.
Kỷ thượng ngữ, tr. 10.
四
十
五
十
而
無
聞
焉,
斯
亦
不
足
畏
也
已。
Tứ thập, ngũ thập nhi vô văn yên, tư diệc
bất túc uý dã dĩ.
Mais le Chef ne peut poursuivre indéfinitivement sa circulation
périphérique sous peine de ne jamais porter les insignes qui
correspondent au Centre qui sont l’apanage du Suzerain. Aussi
quand est fini le troisième mois de l’été, interrumpt-il le
travail qui lui permet de singulariser les diverses durées. Il se
vêt alors de jaune et -cessant d’imiter la marche du Soleil, va se
poster au Centre du Minh t’ang. S’il veut animer l’espace, il faut
bien qu’il occupe cette place royale, et dès qu’il s’y arrête,
c’est d’elle qu’il semble animer le temps: Il a donné un centre à
l’année.
Marcel Granet, La Pensée Chinoise,
p. 103.
故
有
無
相
生,
高
下
之相
傾
難
易
之相
成,
音
聲
之相
和
長
短
之相
形,
前
後
之相
隨。
復 其
見
天
地
之
心
乎? Phục kỳ kiến
Thiên Địc chi tâm hồ?
Dịch chi vi thư quảng đại tất bị, vô sở bất bao nhi ngữ kỳ yếu
qui, tắc vi minh “Thiên Nhân hợp nhất “ chi đạo.
易
之
為
書
廣
大
悉
備
無
所
不
包,
而
語
其
要
歸
則
為
明
天
人
合
一
之
道。
Sách Dịch thật mênh mông bát ngát, nhưng
đại khái là cốt xiển minh nhẽ Thiên Nhân Hợp Nhất.
-Thánh Nhân dĩ Dịch tẩy tâm, tự dữ Thiên
Lý đồng lưu. Quân tử dĩ tâm thề Dịch, đương tri Thiên Lý đồng bản.
聖
人
以
易
洗
心,
自
與
天
理
同
流。
君
子
以
心
體
易,
當
知天
理
同
本。
...Trung quốc tự Đường Ngu dĩ lai, tức hữu
Thiên Nhân Hợp Nhất chi tư tưởng.
Kính Thiên tức sở dĩ ái nhân, ái dân tức
sở dĩ tôn Thiên. Lịch đại thánh triết mạc bất kế tục hoàng dương
thử Thiên Nhân Hợp Nhất chi đạo. Lão tử tức kỳ nhất dã.
中
國
自
唐
虞
以
來,
即
有
天
人
合
一
之
思
想。
敬
天
即
所
以
愛
人,
愛
民
即
所
以
尊
天。
歷
代
聖
晢
莫
不
繼
續
弘
揚
此
天
人
合
一
之
道。
老
子
即
其
一
也。
...Từ Thượng cổ, người Tàu đã có cái tư tưởng
rằng người ta sinh ra ai cũng bẩm thụ cái tính của Trời. Cái tính
ấy là một phần Thiên Lý. Vậy Trời với người quan hệ với nhau rất
mật thiết lắm. Bởi thế, mới lấy phép tắc tự nhiên của Trời làm cái
mô phạm của người và cho Thiên luân, Thiên đạo là nhân đạo...
Dịch đại khái dục nhân khủng cụ, tu tỉnh.
Xin xem thêm Ecclésiastique 3, 1-15,
Bible de Crampon tr. 745:
Pour tout, il y a un moment, un temps pour
chaque chose sous le ciel: temps d’enfanter, et temps de mourir;
temps de planter et temps d’arracher les
plants;
temps de tuer, et temps de guérir;
temps de démolir et temps de bâtir;
temps de pleurer et temps de rire;
temps de se lamenter et temps de danser;
temps de jeter des pierres et temps de
ramasser des pierres;
temps d’embrasser et temps d’écarter les
embrassements;
temps de chercher et temps de perdre;
temps de garder et temps de rejeter;
temps de déchirer et temps de coudre;
temps de se taire et temps de parler;
temps d’aimer et temps de hair;
temps de guerre et temps de paix.
Quel profit pour le travailleur, et de peine
qu’il se donne?
J’ai considéré les occupations auxquelles Dieu
a donné aux enfants des hommes de s’occuper.
Toute chose, Il l’a faite bonne pour tout
temps; c’est aussi l’infinité du temps qu’il a mis dans leur
coeur, sans que l’homme puisse découvrir l’oeuvre que Dieu fait,
de bout en bout...
Dưới trời, các gì cũng có lúc, cũng có thời.
Có lúc sinh, có lúc chết;
Có khi trồng, có khi nhổ;
Có khi giết, có khi chữa;
Có lúc phá, có khi xây;
Có khi khóc, có khi cười;
Có khi than khóc, có khi vui nhảy;
Có khi ném đá, có lúc thôi.
Có khi ôm ấp, có lúc giận buông;
Có khi tìm, có khi mất;
Có khi giữ, có khi bỏ;
Có khi xé, lại có khi may;
Có khi yên, có khi nói;
Có khi ghét, có khi yêu.
Có thời chiến¡, có thời bình;
Vậy con người lao tác được lợi ích gì, và đã
tốn phí biết bao là công lao?
Tôi đã xem Chúa dạy con người làm biết bao
công trình. Việc gì Trời làm đúng lúc cũng hay; lại cho con người
thời gian vô tận, còn người thì không sao hiểu việc Trời làm từ
đầu đếùn đuôi.
Đọc đoạn này, tôi mới thấy con người thật
là mâu thuẫn, suốt đời phá phá, xây xây. Thật là uổng phí công
trình. Nếu mình có thời gian vô tận, sao không đặt cho đời mình
một mục tiêu? Chúng ta sinh ra đời để tiến hoá cho đến Chân,
Thiện, Mỹ, chứ không phải sống gặp chăng hay chớ. Trời cho ta làm
trăm công nghìn việc, mục đích là cho ta tìm lại được Bản Thể ta,
sức sáng tạo vô biên của ta. Vậy ta phải sống 1 cuộc đời xứng
đáng. Sinh ra từ Trời, chết đi trờ về với Trời. Như vậy, mới là:
天
之
牖
民
如
壎
如
篪
如
璋
如
圭
如
取
如
攜
攜
無
曰
益
牖
民
孔
易。
Thiên chi dũ dân,
Như Huân như Trì,
Như Chương, như Khuê,
Như thủ như huề.
Huề vô viết ích,
Dũ dân khổng dịch.
Heaven enlightens the people, as the bamboo
flute responds to the porcelain whistle; as the two half maces
form a whole one; as you take a thing and bring it away in your
hand, bringing it away without any more ado. The enlightement of
the people is very easy.