TINH HOA CÁC ĐẠO
GIÁO
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
CHƯƠNG XVI
Đạo Phật, cũng như mọi Đạo có một có một quá trình
lịch sử lâu dài, tuy do một Giáo chủ khởi xướng, nhưng kỳ thực là công
trìnhcủa biết bao con tim, khối óc, trải qua bao thời đại.
Cho nên Đạo Phật, cũng như các Đạo, dần dà trở thành
muôn mặt, cái hay chen cái dở, cái thấp lẫn cái cao, phản ảnh đúng mọi
sắc thái, mọi trình độ của con người muôn mặt.
Bởi thế, trong công trình khảo cứu Phật giáo, nếu
muốn tìm tòi, lượm lặt ít nhiều khía cạnh phiến diện thì dễ, nhưng nếu
muớn đi tìm tinh hoa Phật Giáo mà không có bí quyết thì cũng ví như mò
trăng đáy nước, hái sao trên Trời.
Không có những tiêu chuẩn chắc chắn để khảo cứu Phật
Giáo, ta sẽ quanh quất, lạc lõng trong rừng thư tịch Phật Giáo, mà chẳng
còn biết đâu là lối thoát, nẻo ra; sẽ chuốc mua, đeo đẳng vào thân muôn
dây rợ tu trì, mà chẳng sao gỡ được ra; sẽ nghiện ngập, say sưa lời
kinh, câu kệ, mà không sao chinh phục được tự do, khinh khoát.
Nhưng nếu ta có kim chỉ nam mà đi vào học thuyết
Phật giáo, ta sẽ ung dung lui tới, tung hoành dọc ngang mà chẳng sợ lạc
đường, lạc đích, ta sẽ dễ dàng gạt bỏ những phù hoa, bác tạp bên ngoài,
mà thâu thái lấy tinh hoa, vi diệu bên trong.
Chúng ta sẽ khảo sát:
A.Những điều kiện tiên quyết để khảo cứu Phật giáo
cho có hiệu quả.
B.Siêu hình học Phật Giáo.
C.Tối thượng thừa Phật giáo.
ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ KHẢO CỨU PHẬT GIÁO
CHO CÓ HIỆU QUẢ.
1. Muốn khảo cứu Phật Giáo cho tới căn để, cần phải
thông minh, linh lợi, và cần có một nền tảng học vấn vững chãi.
Triết lý Phật giáo cao siêu, nếu không thông minh,
linh lợi, không học nhiều, biết rộng, làm sao thấu triệt được?
2. Cần có một tinh thần vô tư, vô uý khi khảo sát
Phật Giáo.
Phật nói trong kinh Kalamasutta: “Đừng nên
vội tin những lời đồn thổi, những lời truyền tụng lưu lai tự cổ thời;
những phong thanh, những lý lẽ, những suy luận hữu lý, những hình thức
bên ngoài; những dư luận, trào lưu đang được sùng thượng, những giả
thuyết, những ức đoán; và cũng đừng tin, vì thế giá ta là sư phụ. Nhưng
nếu kinh nghiệm bản thân chư vị thấy điều chi là xấu, điều chi làm cho
chư vị tần phiền, khổ cực, thì hãy vứt bỏ nó đi. Còn nếu chư vị thấy
điều nào là hay, là hoàn toàn không chê trách được, và sẽ đem lại cho
chư vị thảnh thơi, giải thoát, thì chư vị hãy đem thực thi, áp dụng.”
3.Thế tức là Phật dạy phải lấy lương tâm, lương tri
mình làm đuốc sáng soi cho mình, phải trọng lương tâm, lương tri mình,
hơn mọi sách vở, mọi truyền thống.
Thế mới hay:
“Thần thánh ngàn xưa đều quá vãng,
Tâm ta, mới thực chính thày ta”
4.Phật bảo A Nan: “ ...Các Ông là nam tử, đã học
rộng, biết nhiều, mà trở lại chấp chỗ thấy, nghe suông, chẳng biết tiến
tu, sao tự khinh mình đến thế!”
.
Như vậy, ta phải biết tự tôn, tự trọng, đừng quá
khinh khi mình và đừng quá tán dương Phật.
Phật nói: “Bạn là Phật đang thành, Ta là Phật đã
thành”
,
chứ Phật không hề nói: “ Hỡi loài người mê muội kia, từ nay hãy thờ lạy
ta, vì ta đã được siêu thoát, giác ngộ...”
5.Phải có thành tâm thiện chí, cố gắng khảo sát, để
tìm tinh hoa, để tìm những điều huyền vi, áo diệu, chứ không phải để thu
lượm thêm ít nhiều sáo ngữ, thêm vài khái niệm phù phiếm, hay thêm ít
câu chuyện làm quà.
6.Muốn giải thoát, cần phải hiểu đường lối, tôn chỉ,
cần phải giác ngộ, cần phải chuyển hoá tâm hồn, hồi quang phản chiếu,
tập trung tinh thần cho thoát ly hình tướng, chứ không phải hành hạ xác
thân, tụng niệm đến rát cổ, bỏng họng.
Phật nói: “ Bao lâu con người còn ở trong lưới mê
vọng, sẽ chẳng sao mà được thanh tịnh, mặc dầu khảo cứu thánh thư, cúng
dường thần thánh, ăn chay, nằm đất, thức đêm, thức hôm, hay trì tụng
kink kệ.”
“Bố thí cho kẻ tu hành, hành hạ thân xác, lễ bái,
cúng quải, cũng không làm cho thanh tịnh được những kẻ mà lòng còn đầy
ham muốn vị kỷ. Chẳng phải do ăn thịt cá, mà con người trở nên ô trọc,
nhưng chính ô trọc vì say sưa, ương bướng, cố chấp, gian lận, ghen
tuông, kiêu căng, tự thị, khinh khi, hay có đầy ác ý.”
7. Phải tìm hiểu từ ngữ Phật Giáo.
Nếu không hiểu từ ngữ, làm sao quán triệt được ý
nghĩa.
Kinh Lankavatara-Sutra viết: “ Những kẻ
ngu muội sa lầy trong từ ngữ, như voi sa lầy trong đống bùn.”
8.Khảo cứu Phật Giáo muốn cho thấu đáo, cần mở con
tim, khối óc cho rộng rãi; cần phải am tường các học thuyết Đông Tây,
kim cổ, để phối kiểm, để tìm cho ra chỗ đồng qui, nhất trí; cần hiểu cho
thấu đáo về con người, vì không có học thuyết nào vượt quá được con
người toàn diện.
9.Nhiều người chỉ hiểu Phật giáo một cách tiêu cực.
Họ cho rằng: đời là bến mê, bể khổ nên cần thoát ly
đời. Họ cho rằng: sinh ra đời là cái tội nợ, hứng lấy biết bao luân hồi,
nghiệp chướng, coi thân tứ đại giả hợp là ô trọc, cho nên họ sợ đời, sợ
mình; bè bạn cùng khói hương kinh kệ, cố làm cho lòng mình héo hon, cô
quạnh, xác thân mình ốm o, gầy mòn, tưởng thế là đắc đạo, thành Phật. Họ
muốn đi tìm tự do, hạnh phúc, mà thực tình đã tự rước cho mình biết bao
giây rợ, trói buộc, khổ đau. Thực đáng thương thay!
Nhưng thực ra, chủ trương của Phật đâu có âu sầu, ảm
đạm, trì trệ, tiêu cực như vậy.
Phật, cũng như các Thánh Triết mọi nơi, mọi đời, đã
cố gắng vạch cho nhân loại con đường vinh quang và hạnh phúc, một nếp
sống vô biên, vô tận, vĩnh cửu, trường tồn.
Tuy sống giữa phù hoa của cuộc đời vương giả, Phật
đã cảm thấy sâu xa sự chất chưởng của vinh quang, phú quí bên ngoài;
Phật muốn đi tìm một cái gì cao siêu và vĩnh cửu.
Sống trong biến thiên, tương đối, Phật đã phát
nguyện tìm cho ra hằng cửu, tuyệt đối.
Nhìn thấy mọi nỗi đau thương chết chóc của nhân
quần, Phật đã phát nguyện tìm cho ra hạnh phúc và trường sinh.
Thấy con người bị trói buộc, nô lệ, Phật đã phát
nguyện tìm cho ra tự do, giải thoát.
Vậy ta sẽ theo lối đường của Phật mà đặt lại những
vấn đề then chốt của cuộc đời.
10. Như trên đã nói, sống trong biến thiên,, chất
chưởng, tương đối, dĩ nhiên sẽ phải lệ thuộc, sẽ không thể nào được hạnh
phúc bền bỉ, như vậy, muốn được tự do, hạnh phúc, trường tồn, tất nhiên
phải tìm cho ra tuyệt đối hằng cửu, bất biến.
Phật nói: “Hỡi các tì kheo, có một thực trạng bất
sinh, bất thành, bất ỷ, bất tạp, vì nếu không có thực trạng ấy, thì làm
sao giải thoát được những cái sinh, thành, ỷ, tạp. Nhưng vì có thực
trạng ấy, nên có đường thoát cho những cái sinh, thành, ỷ, tạp.”
Vậy chúng ta phải tìm cho ra thực trạng ấy. Nó sẽ là
Chân Lý tuyệt đối, chân lý rốt ráo, nó sẽ gỉai thoát ta. Đó là chính
Niết Bàn ta tìm kiếm.
CHÚ THÍCH
Présence du Bouddhisme, p. 245.
Thiên thánh giai quá ảnh,
千 聖
皆
過
影
良 知
乃
吾
師
Thủ Lăng Nghiêm , Hướng Đạo xuất bản, tr. 121.
Các bậc Như Lai chỉ có làm cái việc là chỉ đường thôi: mỗi người
phải tự mình đi đến chứ không ai đi thế cho ai được cả.
Vous devez faire votre travail vous-mêmes,
les Tathagata enseignent seulement le chemin.
Nhữ thị đương thành Phật, ngã thị dĩ thành Phật.
汝
是
當
成
佛
;
我
是
已
成佛
Phật học tinh hoa, Nguyễn Duy
Cần, p. 54.
“L’homme pris dans le filet de l’aveuglement ne sera jamais purifié
par la simple étude des Écritures Saintes, ou par des sacrifices aux
dieux, non plus que par les jeunes ou par le sommeil sur la terre
nue, par des veillées difficiles et fatigantes ou par la répétition
des prières...”
“ Ni les donations aux moines, ni le
châtiment de soi-même, ni l’accomplissement de rites et de
cérémonies ne sauront purifier celui dont le coeur connait encore le
désir égoiste. Ce n’est certainement pas par la consommation de la
viande ou du poisson qu’un homme devient impur mais bien par
ivresse, obstination, bigoterie, fraude, envie, exaltation de
soi-même, mépris des autres et mauvaises intentions. C’est par ces
choses-là que l’homme devient impur...”
Les ignorants se laissent engluer dans les mots comme un éléphant
dans la boue.
Cáo Thần Tông viết: “ Tiên Thánh, hậu thánh, nhược hợp phù tiết; phi
truyền Thánh Nhân chi Đạo; truyền Thánh Nhân chi tâm dã; phi truyền
Thánh Nhân chi tâm dã; truyền kỷ chi tâm dã. Kỷ chi tâm quảng đại vô
hạn, vạn thiện giai bị. Dục Thánh Nhân chi Đạo, khuếch sung thử tâm
yên nhĩ.”
告
神
宗
曰﹕
先
聖
後
聖
若
合
符
節;
非
傳
聖
人
之
道
,傳
聖
人
之
心
也;
非
傳
聖
人
之
心
也,傳
己
之
心
也。
己
之
心
廣
大
無
限,
萬
善
皆
備。
欲
聖
人
之
道
,
擴
充
此
心
焉
爾
。
Thiên Thánh nhất Tâm, vạn cổ nhất Đạo.
千
聖
一
心,
萬
古
一
道.
Đạo (tức Chân Lý). Giá cá đông tây thị
chỉ năng hữu nhất cá đích. Cao Hoàng đàm luận Nhu, Phật, Đạo tam
giáo thời thuyết: Thiên hạ vô nhị Đạo, Thánh Nhân vô nhị tâm.
...
道(即
真
理
)
。
這
箇
東
西
是
只
能
有
一
箇
的。
高
皇
談
論
儒
佛
道
三
教
時
說
﹕
天
下
無
二
道
;
聖
人
無
二
心.
“O moines, il y a un état non-né, non-devenu, non-conditionné,
non-composé. S’il n’y avait pas un tel état qui soit non-né,
non-devenu, non-conditionné, non-composé, il n’y aurait aucune
évasion possible pour ce qui est né, ce qui est devenu, ce qui est
conditionné, et ce qui est composé”
“Puisqu’il y a un tel état, il y a une
évasion de ce qui est né, de ce qui est devenu, de ce qui est
conditionné et de ce qui est composé.”
“O moines, le Nibbana qui est la Réalité, est l’ultime Noble
Vérité...”
... “il n’y a plus de places ici pour les quatre éléments ,
solidité, fluidité, énergie, mouvements; les notions de longueur et
de largeur, de subtil et de grossier, de bon et de mauvais, de Nom
et de Forme, sont absolument détruites; on n’y trouve les notions ni
de ce monde, ni de l’autre, ni de venir, ni de partir, ni de rester,
ni de mort, ni de naissance, ni des objets des sens.”
»
mục lục |
chương trước |
chương kế
» Chương
1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14 15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
|