THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5
6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
Chương 6
KABBALAH VỚI QUAN NIỆM
THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Kabbalah là huyền
môn Do Thái có từ xa xưa.Theo Spinoza, nó tóm thâu tư tưởng của các
người Do Thái thời xưa.
Huyền môn này có
hai bộ sách danh tiếng:
1.
Sepher Ietzirah (Livre de la Création: Sách
sáng tạo) (hay Sépher Yessira, hay Sépher Yetsira)
2.
Zohar (Livre de la Splendeur: Sách Quang
huy).
Kabbalah giải
thích căn nguyên, sự hình thành, Vòng biến dịch cùng đích vũ trụ và con
người bằng: Ein-Sof
và mười Sephiroths (thập tính, thập duyên,
dix attributs).
Ein-Sof là Hư vô, là Bản thể tuyệt đối của
vũ trụ, khi chưa hình hiện, hiển dương. Ein-Sof là toàn thể vũ trụ.
Ein-Sof tương đương với Vô cực trong Kinh Dịch.
Sephiroths (Thập duyên) phác họa sơ đồ hình
thành vũ trụ hữu hình. Thập duyên là:
1.
Kéther (Crown,Couronne) là Nguyên lý sáng
tạo nên vũ trụ hữu hình, tương đương với danh từ Thái cực.
2.
Chocmah, Khí dương (Male, expansive Force)
3.
Binah, Khí âm (Female, astringent Force)
4.
Chesed, Nghĩa (Benevolent Force)
5.
Geburah, Lễ (Destructive Force)
6.
Tiphered, Tín (Harmony, equilibrium,
beauty)
7.
Netzach, Nhân (Amor)
8.
Hod, Trí (Objective Intelligence)
9.
Yésod, dục giới (Astral kingdom of desires)
10.
Malkuth, sắc giới (Corporeal sphere,
terrestrial kingdom).
Có thể nói được
rằng Thập Duyên tương tương đương với các quan niệm Thái cực (Kéther),
Âm Dương (Binah, Chocmah), Ngũ Hành (Chesed, Geburah, Tiphered, Netzach,
Hod), Tam Tài (Kéther: Thiên); (Yesod: Nhân); (Malkuth: Địa)
của Kinh Dịch.
Như vậy, Kether
là Bản thể. Chín Duyên sau là Hiện tượng.
Kabbalah cũng còn
dùng:
Tâm điểm và nhiều
Vòng tròn đồng tâm để giải thích về căn do, sự hình thành, biến dịch, và
mục phiêu vũ trụ.
Đại khái:
1.- Khi chưa có
vũ trụ hữu hình (Tiên Thiên), thì chỉ có Bản thể (Ein-Sof) ở thế tiềm
ẩn. Lúc ấy Ein-Sof là toàn thể vũ trụ.
2.- Khi thế giới
đã hình hiện (Hậu Thiên), thì Thượng Đế là tâm điểm, là cốt lõi vũ trụ.
Từ trung tâm sáng
tạo ấy, phóng phát ra vạn hữu.
Chiều sinh hóa
từ vô cùng đến hữu hạn ấy được diễn biến từ một tâm điểm cho đến các
Vòng tròn bên ngoài. Càng xa tâm càng trở nên chất chưởng.
Và các lớp lang
hình tướng bên ngoài của vũ trụ y như là những lớp vỏ, lớp áo phủ ngoài
Thượng Đế.
Thời kỳ hoàng kim
mai hậu là thời kỳ mà vạn vật qui căn phản bản.
Khi ấy Thượng Đế sẽ rũ bỏ những lớp áo, lớp vỏ bên ngoài, và sẽ
hiện ra vinh quang.
-- Zohar
chủ trương Phiếm thần và coi Thượng Đế là vũ trụ, vũ trụ là Thượng Đế.
-- Zohar
chủ trương thuyết phóng xuất, sinh hóa ra vũ trụ, không chấp nhân thuyết
tạo dựng.
-- Zohar
cho rằng: Cơ cấu con người, cơ cấu vũ trụ giống nhau. Hiểu vũ trụ sẽ
hiểu con người, hiểu con người sẽ hiểu vũ trụ. Ngắm nhìn suy tư về vũ
trụ, con người sẽ «nhận ra rằng tất cả những yếu tố, những chất liệu bên
ngoài đều có đủ trong mình, con người toát lược lại vũ trụ, và đấng Duy
Nhất, bất khả tư nghị, đấng đã sinh ra vũ trụ và sẽ thu hút vũ trụ về,
cũng chính là đấng ngứù trị ngay trong lòng con người.»
Khảo Kabbalah,
ta thấy người Do Thái xưa, ngoài cách dùng từ ngữ thông thường, để diễn
tả tư tưởng, còn có những cố gắng dùng nhiều phương pháp khác để diễn tả
tư tưởng. Trong những phương pháp đó ta thấy họ dùng:
- số
- chữ
- hình ảnh
Khảo Kinh Dịch,
ta cũng thấy những cố gắng tương đương như vậy.
1.
Dùng số để diễn tả tư tưởng
Để diễn tả tư
tưởng Nhất thể biến vạn thù, vạn thù qui Nhất thể, người Do Thái cũng đa
dùng số, nhất là dùng 10 con số đầu.
Số 1 tượng trưng
cho Bản thể duy nhất, cho Thượng đế, căn nguyên sinh xuất vạn hữu.
Số 2 mới chính là
con số bắt đầu, vì 2 là cơ chế biến hóa, gồm 2 động lực tương đối, sinh
khắc.
Số 1 như
vậy là Căn nguyên, là Bản thể, 9 số sau là cung cách biến hóa.
Nói theo từ ngữ hiện tại, thì số 1 là
Bản thể, các số khác là phụ tượng (accidents), là hiện tượng
(phénomènes).
Số 10 đặc
biệt có nghĩa là Hòa hợp, là Thái hòa. Như vậy, nó gợi lên ý niệm rằng,
đến lúc chung cuộc, vạn vật sẽ trở nên thành toàn, viên mãn, trong một
toàn thể Thái Hòa.
Số 10 tương ứng
với mẫu tự số 10 Yod của tiếng Do Thái, mà Yod là Thượng đế. Như vậy 1
là Thượng đế, Căn nguyên, Bản thể vũ trụ. 10, là Yod, là Thượng đế viên
mãn lúc chung cuộc. Thế là thủy chung như nhất.
Ý nghĩa 10 con số
càng trở nên rõ rệt, nếu ta đem so sánh nó với quan niệm dân gian về vũ
trụ. Dân gian tin rằng Thượng đế ngự trên chín
tầng trời.
2. Dùng chữ để diễn tả quan điểm Nhất thể vạn thù.
Do Thái gọi Thượng đế là
Yod He Vau He.
Khi chưa sinh
thành ra vũ trụ, thì họ viết Yod, He Vau, He nguyên thành một chữ. Khi
đã sinh thành ra vũ trụ thì họ chia chữ Yod He Vau He thành ra 4 phần,
mỗi phần riêng chiếm 1 phương trời. Yị nói Thượng đế là vũ trụ, vũ trụ
là phân thân của Thượng đế.
Ngoài ra Yod,
còn có nghĩa là Bản thể.
He
gồm hai phần: tượng trưng cho hai động lực âm dương, tương sinh tương
khắc nguyên thủy, nguồn sinh hóa ra vạn hữu.
Vau
là chữ thứ sáu. 6 có thể cắt nghĩa là Lục hợp (sáu phương trời).
3.
Dùng hình ảnh diễn tả tư tưởng Nhất thể vạn thù
Hình ảnh mà
Kabbale dùng để diễn tả tư tưởng Nhất thể tán vạn thù, như ta cũng đã
thấy, là hình tròn, hay Tâm điểm và nhiều Vòng tròn đồng tâm.
Ibn Erza coi Vòng
Tròn là tượng trưng cho vũ trụ biến dịch tuần hoàn, thủy chung như nhất.
Kaballah xưa đã
dùng 4 chữ YHVH (Thượng Đế) để vẽ nên con người. Yod là đầu, He là 2
tay, Vau là mình, He là 2 chân.
CHÚ THÍCH
Xin xem Gabriel Trarieux d’Egmont, Le Thyrse et la Croix, Adyar, Paris,
1947, trang 159.
Kéther được coi
là tương đương với Le Logos (Plato), the Word of St John. Còn gọi là Mặt
Trời thiêng liêng nơi trung điểm (Spirituel Central Sun) (Ib. 159, note
3.)
Xem chú 1.
L’ère messianique, espérance juive, devient ainsi une espérance
métaphysique: par elle «toute chose rentrera dans sa racine, comme elle
en est sortie.»(Henri Seữrouya, La Kabbale. 227)
Un jour, le Saint dépouillera ses écorces et ne réapparaîtra que sous
l’aspect d’un noyau substantiel. (Ib. 273)
Xin tham khảo
thêm:
a/- Ad. Franck, La Kabbale ou Philosophie religieuse des Hébreux Paris,
Librairie de L.
Hachette,
1843.
b/– Gabriel
Trarieux d’Egmont, Le Thyrse et la Croix, Adyar, Paris, 1974.
En d’autres termes, si l’on déclare que l’univers est Dieu, ou que Dieu
est l’univers, on dit la même chose. Cette totalité qui se manifeste
dans l’unité suprême de Dieu, est hors de doute dans les expressions
nuancées et symboliques du Zohar, dont nous venons de citer quelques
exemples frappants. Le Ein–Sof n’est autre chose que cette totalité,
cette unité suprême, qui embrasse les dix Sephiroths. «Le Ein–Sof, dit
en effet le Zohar, est revêtu et enveloppé des Séphiroths comme le
charbon de la flamme.»Ailleurs après avoir rapporté le rayonnement de la
lumière primordiale en dix lumières, il ajoute: «Nonobstant, tout est
un.»
(Henri Sérouya,
La Kabbale, p. 226)
La création de l’univers est un fait de pure émanation. L’univers dans
la multiplicité de ses éleữments est inhérent à l’essence de l’Ein-Sof,
précisément comme la potentialité de la flamme procède du charbon Ib.
159
... Dieu, dans
son Commentaire (c’est à dire de Saadya) du Sépher Yessira, est dans
l’univers ce que la vie est dans l’être vivant. Il est à la fois dans
chaque partie et dans chaque tout. Autrement dit, il est partout. Ib.
139.
«Ce qui est en haut est en bas.»Chaque homme est l’expression mimuscule
de son Prototype céleste, du vaste Adam Kadmon, l’Univers...Car c’est en
regardant en lui–même que l’homme finit par commprendre le grandiose et
indéchiffrable spectacle qu’il contemple en ouvrant les yeux: la terre,
les montagnes, la mer, ou les feux de la nuit étoilée. Il finit par se
rendre compte que tous ces éléments sont en lui, qu’il est, en abrégé,
l’univers, et l’être impensable et unique, seule Réalité éternelle, de
qui cet Univers émana, dans laquelle il sera résorbé, habite en son
sein, Lui aussi, est l’Hoốte de sa chair périssable. Le Thyrse et la
Croix, p. 161.
Để chứng minh
rằng Tuyệt đối ở ngay trong con người, đoạn trên có chú thích như sau:
Ce que le Bouddha s’exprima en ces termes: «En vous est le non-né,
non-causé, non-crée, non-formé.» C’est la base de toute sa doctrine. (La
Parole du Bouddha par Nyanatiloka, traduction La Fuente). C’est aussi de
l’idéalisme absolu de Fichte, de Schelling, et Hégel.
Le nombre 1 que est le principe de tous les nombres, n’est pas lui–même
un nombre. C’est le nombre 2, qui est véritablement le premier
nombre...Sérouya chú thêm như sau:
Pour le
pythagoricisme aussi le nombre positif ne commence qu’à partir de 2...
Le nombre 1 qui contient les deux éléments des nombres, l’impair et le
pair, est à la base de tous les nombres, il en est la racine, mais
lui–même n’est pas un nombre, car tout nombre implique une pluralité
d’unités. (Cf. Aristote, Métaphysique, I, cha.V...) Anaximène dit que
Dieu est l’Un, non en tant que commencement des nombres, qui est
susceptible de devenir multiple. De même que Plotin admet que le
premier, appelé Un, est sans multiple sans rien d’identique au dehors et
sans différenciation en soi. La même idée se trouve chez Bahya dans sa
considération théologique de l’unité véritable; puis chez Ibn Zadik et
comme nous avons déjà vu précedemment chez Ibn Gabriel dans sa Couronne
Royale: «Tu est Un, mais non l’Un tombant dans la loi des
nombres.»L’idée passera ainsi dans la Kabbale...(Sérouya, La Kabbale, p.
152 và chú thích 3.)
Đọc đầu chú thích 1 ở trên.
Mais 10 est aussi le nombre des catégories, dont neuf accidents et une
substance. (Ib. 153)
La décade renferme en elle toutes les unités simples. Pour illustrer le
Yod (10 è lettre), Ibn Era tire sa racine de todath qui signifie selon
lui choeur, union, harmonie. Car dix (la tetras pythagoricienne) est la
somme des quatre premiers nombres. Henri Seữroya, La Kaballe, p. 153.
Le Yod, première lettre du tétragramme représente la substance avant
toute différenciation...
Le Hé, composé de
deux parties distinctes, indique les deux contraires, essence et forme,
substance et accident..
Le Vau qui a la
valeur mathématique 2 x 6: 12 est la 6è lettre de l’alphabet hébraique.
En ce sens, le tétragramme Yod, Hé, Vau, (Hé) est composé de trois
lettres différentes, qui marquent les trois dimensions des corps: la
longeur, la largeur, la hauteur ou la profondeur. Le Vau avec sa valeur
numérique six, marque les six forces des corps que nous recontrons dans
le Sefer Yessira. (Ib. 152)
En ce qui concerne le symbolisme, Ibn Erza considére le cercle comme
l’emblème de la nature, qui revient sans cesse sur elle-même. Elle
rattache «ses commencements à ses fins et enveloppe en son sein par une
suite infinie de figures finies.» (Ib. 152)
According to the Kabballah, man is both divine and human. Essentially,
man is truly YHVH. The Tetragrammaton written vertically represents
effectively a standinh man, Yod being his head; He his arms; Vau his
body; an the He final, his leg.
The Kabballah
unveiled, Routledged & Regan Paul, 1957, p. 210, notes.
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5
6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
|