THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
Chương 13
PHẬT GIÁO VỚI THUYẾT THIÊN
ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Tuy Đức Phật
không bàn về Bản thể vũ trụ, nhưng sau này các Triết gia Phật giáo cũng
chủ trương Thiên địa vạn vật đồng nhất thể.
Phật giáo đã có
những thành ngữ như: Nhất tức nhất thiết, nhất
thiết tức Nhất: Một là tất cả, Tất cả là một. Chúng ta còn biết
Công án của Triệu Châu: Vạn pháp qui Nhất, Nhất
qui hà xứ? Vạn pháp trở về Một, Một trở về đâu? Một vị Thượng tọa
tôi quen, trả lời: Nhất qui Bản Lai Diện Mục. Mà Bản Lai diện mục cũng
là Bản thể Vũ trụ.
Kinh Hoa
Nghiêm
là kinh chủ xướng Thuyết Thiên Địa Vạn Vật đồng nhất thể và theo Trí
Khải Đại Sư thì khi Đức Phật vừa đạt Niết bàn đã giảng kinh này. Đại Sư
cho rằng mới đầu Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, giảng về
huyền nghĩa: Nhất tâm Chân Như, pháp giới duyên
khởi, thuyết minh về sự hình thành của vũ trụ vạn hữu, để hóa độ
cho hạng thượng thừa bồ tát.
Rồi sang thời kỳ
Lộc Uyển (Hay A Hàm) giảng các bộ kinh A Hàm trong vòng 22 năm, thuyết
về các pháp môn Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên v.v... để độ cho hàng
Nhị Thừa: Thanh Văn, Duyên Giác.
Sau đó là thời kỳ
Phương Đẳng giảng các kinh Lăng Già, Lăng Nghiêm, Kim quang kinh
v.v... trong vòng 8 năm để độ cho hàng Đại thừa sơ cơ phát tâm Bồ tát.
Sau đó là thời kỳ
Bát Nhã, đức Phật giảng các kinh Bát nhã và Kim Cương
trong vòng 22 năm, tức giảng về chân lý Không cho hạng quyền thừa Bồ
tát.
Cuối cùng là thời
Pháp Hoa và Niết Bàn. Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa và Niết
Bàn trong 8 năm, xác định tất cả chúng sinh đều có
Phật tính, đều có thể thành phật.
Ngài giảng kinh
này cho mọi hạng người. (Xem Tóm lược triết lý kinh Hoa Nghiêm và Bồ
tát đạo, Minh Đức Thanh Lương, Chùa Việt Nam, Seattle, 1986, tr.
7-8.)
Có thơ tóm tắt các thời kỳ
trên như sau:
Hoa Nghiêm tối sơ
tam thất nhật,
A Hàm, thập nhị,
Phương Đẳng bát,
Nhị thập nhị niên
Bát Nhã đàm,
Pháp Hoa, Niết
Bàn cộng bát niên.
Kinh Hoa
Nghiêm
cho rằng: Mọi sự vật trong vũ trụ đều do Tâm mà ra. Tâm đây là Tâm Chân
Như hay Chân Không Diệu Hữu, Bản Thể. Vũ trụ do nhân duyên hòa hợp mà
thành, mọi vật lớn nhỏ đều nương vào nhau, nhân làm quả, quả lại làm
nhân, cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này, tương quan,
tương duyên, lớp lớp chằng chịt vô cùng nên gọi là trùng trùng duyên
khởi. Mọi sự vật đều dính chùm với nhau, nên vật này động là tất cả đều
động, tất cả đều liên quan mật thiết với nhau, Một
tức Tất Cả, Tất Cả tức Một, mọi vật đều tương tức, tương nhập.
Vạn vật đều cùng chung một Bản Thể, một nguồn sống vô hình vô tướng,
tuyệt đối mà Phật giáo tạm gọi là Tâm Chân Như, là Không, Lão giáo gọi
là Đạo hay Vô Cực, Khổng Giáo gọi là Thái Cực, Cao Đài gọi là Thầy.
Thế tức là:
Nhất thiết do tâm tạo, Vạn vật đồng nhất thể.
Trong cái Đồng nhất Thể đó, có 2 thành phần: Một là Lý, Hai là Sự.
Sự là Vạn Vật trong vũ trụ, có hình tướng,
mà ngũ quan có thể tiếp xúc được, như: người, vật, núi, sông, cây cỏ,
mặt trời, mặt trăng, tinh cầu...
Còn
Lý thì không có hình tướng, phải dùng tâm
để mà hiểu biết mà thôi, như: Bản Thể, Chân Lý, Thật Tướng, Lý Tánh...
Sự còn gọi là
Vọng Tâm, Vọng Ngã, hay Luân Hồi, Sinh Tử.
Lý cũng là Chân
Tâm, Chân Ngã, hay Niết Bàn, Bất Sinh Bất Tử.
Trong bản dịch
kinh Đại Thừa Phật giáo có viết:
All
conposite things are impermanent,
They
belong in the realm of birth and death,
When
birth and death are transcended,
Absolute
tranquillity is realised and blessed are we.
Như vậy, cái gì
giả hợp, thì vô thường, có sinh có diệt, còn cái gì siêu xuất sinh tử
mới bất biến, trường tồn, không tịch, tuyệt đối.
Phật giáo Đại
Thừa cho rằng Vạn Vật có hai tướng, một tướng bề ngoài và một tướng bề
trong. Cái tướng bề ngoài, ta có thể dùng
ngũ quan và ý thức (giác quan thứ sáu) mà xét thấy được. Nhưng bên trong
những cái vỏ sai biệt của hình tướng bề ngoài, còn có một cái Thể chung
(Bản Thể
hay Thực Tướng)
của muôn loài vạn vật.
Cái Thực Tướng đó
là Không. Không sinh diệt, không nhơ sạch, không thêm bớt, không biết từ
đâu đến và đi về đâu, không biết giờ khởi điểm hay lúc tận cùng. Hiểu
thấu được chân lý Duyên sinh là đạt tới thực tại tối hậu, tới Chân Không
Diệu hữu, tới tuệ Bát Nhã, không còn phải tranh luận hão huyền nữa...
Tóm lại, đứng về
mặt Bản Thể thì vũ trụ này là một khối duy nhất, viên mãn, bất biến, tự
tại vô ngại, bình đẳng và bất khả phân. Nhưng trên bình diện hiện tượng
thì sự sự, vật vật lại có những bộ mặt sai thù, phân biệt. Tuy nhiên bản
thể và hiện tượng chỉ là hai bộ mặt của một Thực Tại tuyệt đối được mệnh
danh là Tâm hay Chân Như.
Vạn hữu, trăm sai
ngàn biệt, đều do từ một nguồn Tâm này mà sinh khởi, và ở đó, thì không
gian và thời gian đều dung thông làm một, và sự sống tràn lan bất tận,
vô thủy vô chung...
Hòa thượng Hải
Tràng nói: Do tu Bát nhã (prajnaparamita) mà tôi đắc tuệ nhãn và hàng
ngàn vạn tam muội khác. Lúc nhập Tam Muội này, tôi biết rõ tất cả thế
giới không chút chướng ngại và thấy mọi sự vật trong vũ trụ đều dung
thông, dung nhiếp với nhau. Tôi biết rằng CÁI TÂM CHUNG CỦA MỌI NGƯỜI LÀ
CÁI TÂM CHUNG CỦA TRỜI ĐẤT, VÀ CÁI LÝ CỦA SỰ VẬT LÀ CÁI LÝ CHUNG CỦA VẠN
VẬT. Khi đã rõ được một phần tử trong vũ trụ, thì cũng rõ được sự vật
trong trời đất. Đó là cái lý MỘT LÀ TẤT CẢ, và
TẤT CẢ LÀ MỘT, TÂM VẬT KHÔNG HAI.
Sự và Lý ở Hoa
Nghiêm đồng nghĩa với Sắc và Không ở Bát Nhã. Sự là Lý, Sắc
là Không. Chẳng những mọi sự vật đều hòa tan trong cái Lý Bản Thể chung,
mà vật nọ hòa tan trong vật kia vô ngại. Cùng một lúc cái này tức là cái
kia, cái kia dung nhập trong cái này, Chủ là Khách, Khách là Chủ...
Lý «Sự sự vô ngại
pháp giới» của Kinh Hoa Nghiêm, bắt nguồn từ thuyết
Vạn vật đồng nhất thể, một là tất cả,
tất cả là một, đã nêu rõ Chân Lý: Mọi sự vật trên thế giới đều có
tính cách tương đối, nghĩa là đều vô thường, vô ngã và duyên sinh. Tất
cả các pháp trên thế gian đều có hình tướng và danh xưng khác nhau,
nhưng cùng chung một gốc là Bản Thể, Chân Như, Chân Tánh, Thật Tướng,
Không, Lý...
Các Triết gia
Phật giáo đếu chủ trương thuyết Thiên Địa Vạn Vật
Đồng Nhất Thể. Đã đành vũ trụ này từ một bản thể là Chân Như sinh
xuất ra, nhưng các triết gia Phật Giáo thường đặt mấy vấn đề sau đây:
1.Thực tướng của
Chân Như Bản Thế ra sao?
2. Vạn pháp =
Hình ảnh biến thiên của Chân Như.
3. Chân Như Bản
thể làm sao sinh Vạn Pháp?
4. Tương quan
giữa Bản Thể (Chân Như), và Hiện Tượng (Vạn Pháp).
Dưới đây xin lần
lượt trả lời các câu hỏi trên.
1. Thực tướng của Chân Như Bản thể ra
sao?
a. Có nhiều môn
phái cho rằng Chân Như Bản thể vì siêu việt, nên không thể nào bàn cãi
được, đoán định được.
Trong chiều hướng
này Pháp Tướng Tông dùng chữ: Phế thuyên, đàm chỉ
(miễn bàn, miễn nói)
Tam Luận Tông
dùng chữ: Ngôn vong, lự tuyệt (quên lời, bỏ
nghĩ).
Thiền Tông đùng
chữ: Bất lập văn tự.
Chân ngôn tông
dùng chữ: Xuất quá ngôn ngữ đạo (vượt trên
ngôn từ)
Tịnh độ tông dùng
chữ: Bất khả xưng, bất khả thuyết, bất khả tư nghị
(không thể gọi, không thể nói, không thể nghĩ bàn).
b. Có môn phái
thời muốn nhấn mạnh về tính cách không tịch, tĩnh lãng của Chân Như Bản
Thể, nên đã dùng những chữ như: Không tịch, Hư Vô, Không, Chân Không để
mô tả Bản Thể.
Nhưng Hư Vô đây
không phải là Hư Không, Hư Ảo mà chính là Chân Không, Diệu Hữu, Căn
Nguyên sinh xuất vũ trụ.
Lục Tổ Huệ Năng,
viết trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Bát Nhã, phẩm đệ nhị:
«Hư Không hàm
tàng hết sắc tướng, vạn vật, bao gồm nhật nguyệt, tinh cầu, sông núi,
đất đai, suối nguồn, khe lạch, cây cối, bụi rừng, người lành, kẻ dữ, cái
hay, cái dở, tất cả mọi núi Tu Di cũng đều ở trong Hư Không. Tính người
ta cũng ở trong Hư Không. Tất cả đều như vậy.»
Suzuki, một thiền
sư Nhật Bản viết: «KHÔNG là một trong những
vấn đề quan trọng nhất của Triết Học Đại Thừa, và là chữ rắc rối nhất,
khó hiểu nhất cho những người không phải là Phật tử.
KHÔNG không có nghĩa là tương đối, tương
đãi hay là sắc tướng, hay là Hư Vô mà chính là Tuyệt Đối, Tuyệt đãi,
siêu việt, bất khả tư nghị. đó chính là Chân Như Bản Thể.» (DT Suzuki,
Manual of the Zen Buddhism, p. 29).
c.Có môn phái
thời nhìn về phía tích cực hiện hữu, khi Bản thể đã sinh hóa ra vũ trụ,
cho nên gọi Bản thể là Chân Như.
Chân Như Bản Thể,
tuy sinh xuất ra vạn hữu, nhưng vẫn viên dung, bất biến, nên còn được
gọi là: Nhất Như, Như Như, Nhất Tâm Pháp Giới.
Vì Chân Như Bản
Thể là cốt lõi, là Chân Thân, là Thực Thể của vũ trụ hình tướng này, nên
còn được gọi là: Trung đạo, Pháp Thân, Như Lai, Pháp Thể, Thực Tánh,
Thực Tại, Chân Tâm...
Vì Bản Thể vũ trụ
là Chân Tướng vũ trụ, minh linh, viên giác, hoàn thiện tuyệt đối, nên
còn được gọi là: Thực tướng, Chân Thực Tướng, Thực Tế, Chân Thực Tế,
Chân Như Bổn Tánh, Chân Như Tánh, Chân đế, Chân Thiện, Viên Giác, Niết
Bàn.
Và cuối cùng để
cho Bản Thể đượm màu Phật Giáo nên các triết gia Phật Giáo cũng còn gọi
nó là Phật Tính.
Kết quả là hiện
nay có không biết cơ man nào là danh từ dùng để chỉ Chân Như. Xin ghi
lại bằng mấy vần thơ sau:
Niết Bàn, Nguyên
Thanh Tịnh Thể, Như,
Bản Lai Diện Mục,
A Lại Da,
Thực Tướng, Pháp
Thân, Bản, Bát Nhã,
Yểm Ma La Thức, A
Đà Na,
Trung Tâm, Phật
Tính, Tâm Bình Đẳng,
Đại viên Cảnh
Trí, Chân Tính, A,
Chân Thiện Diệu
sắc, Hàm Tàng Thức,
Không, Như Lai
Tạng, Tâm, Chân Như,
Thường Trụ Chân
Tâm, Nguyên Thường, Pháp,
Viên Thành Thực
Tính, Bản, Tâm, Hư,
Lý, Tất Cảnh
Không, Vô Ngã Tạng,
Thường Trụ Chân
Như Tâm, Thực Tế,
Chánh pháp Nhãn
Tàng, Tánh, Chân Như.
Lăng Già Kinh
cũng cho ta vô số tên của Chân Như. Nơi phẩm Nhất thiết Phật Ngữ Tâm,
Phật dạy: «Như thế, Đại Huệ! Ta ở thế giới Ta Bà này, trải ba a tăng kỳ
có trăm ngàn danh hiệu. Kẻ ngu thảy đều nghe, mỗi người nói tên ta mà
không hiểu ta, ấy là Dị Danh Như Lai. Đại Huệ! Hoặc có chúng sinh biết
ta là Như Lai, có chúng sinh biết ta là Nhất
Thiết Trí,
có chúng sinh biết ta là Phật, có chúng
sinh biết ta là Cứu
Thế, có chúng sinh biết ta là
Tự Giác...có
chúng sinh biết ta là Tự
Tại...có chúng sinh biết ta là
Vô Sanh,
có chúng sinh biết ta là Vô
Diệt, có chúng sinh biết ta là
Không, có chúng sinh biết ta là
Như Như,
có chúng sinh biết ta là Đế, có chúng sinh
biết ta là Thực
Tế, có chúng sinh biết ta là
Pháp Tính, có
chúng sinh biết ta là Niết
Bàn, có chúng sinh biết ta là
Thường, có chúng sinh biết ta là
Bình đẳng, có
chúng sinh biết ta là Bất
Nhị, có chúng sinh biết ta là
Vô Tướng, có
chúng sinh biết ta là Giải
Thoát, có chúng sinh biết ta là
Đạo...Đại Huệ! Trải qua ba a tăng kỳ có
trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm, chẳng bớt, thế giới này và thế
giới khác, thảy đều biết ta, như mặt trăng trong nước, chẳng ra, chẳng
vào....» (Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Thiền sư Hám Thị giảng, Thích
Thanh Từ dịch, Phật học viện Quốc Tế xuất bản 1982, tr. 324)
Tất cả danh hiệu
đều nói một thể, nhân danh đạt thể, đạt thể thì lìa lời nói. Nên hội qui
về chỗ tột cùng...
Nhờ sự thay đổi
danh từ, danh hiệu của Chân Tâm, Chân Như thành muôn vàn danh hiệu khác
nhau, tự nhiên ta sẽ hiểu rõ đạo Phật, triết học Phật giáo dễ dàng hơn.
Ví dụ: Trong
quyển Thiền Đạo Tu Tập, nơi trang 422, Chang Chen Chi viết: Tất
cả chúng sinh xưa nay có TÍNH...cái TÍNH ấy, từ thời vô thủy tới nay,
không sinh, không diệt, vô sắc, vô hình, thường trụ, bất biến. Đó gọi là
cái TỰ TÍNH
BỔN HỮU...Cái TỰ TÍNH này
cùng với tất cả chư Phật, có 1 vị bình đẳng, cho nên gọi là Phật Tính.
Tất cả Tam Bảo, Lục Đạo chúng sinh đều lấy cái TÍNH này làm căn bản,
thành tựu hết thảy các Pháp Môn... Vì thế nơi trang 432, Chang Cheng Chi
có thể viết: «Thiên địa với ta đồng căn, vạn vật
với ta một thể vậy.»
Trong quyển ZEN
and Japanese Culture của Daisetz T. Suzuki, nôi trang 352, Suzuki trích
lời Tăng Triệu như sau:
Heaven and earth and I are of the same root,
The ten-thousand things and I, are of one
substance.
Đó chính là lời
dịch lại 2 câu của Chang Cheng Chi nói trên.
Trang 354, Suzuki
còn dẫn 3 câu thơ của Tennyson nói về Vạn vật đồng nhất thể như sau:
Little
flower– but if I could understand
What you
are, root and all, and all in all,
I should
know what God and man is.
Dịch:
Bông hoa
bé nhỏ con con,
Nếu tôi
hiểu được nguồn cơn, gót đầu.
Nếu tôi
hiểu nó cho sâu,
Trời
Người bao chuyện nhiệm màu cũng thông.
Đại đức Nerada
Meha Thera, trong những bài thuyết giảng tại Chùa Kỳ Viên Tự, Saigon,
vào năm 1964, có luận về Niết Bàn như sau: «Niết Bàn không phải là
một trạng thái hư vô. Nếu Niết Bàn là Hư Vô, thì Đức Phật đã không miêu
tả bằng những danh từ: Vô tận, Vô lậu, Tối Cao, Chỗ Nương Tựa tối
thượng, Chân Toàn, Hạnh Phúc, Bỉ Ngạn, Duy Nhất, Phi Nhân, Bất Khả Diệt,
Hoàn toàn Thanh Tịnh, Vĩnh Cửu, Giải Thoát, Vắng lặng v.v...Niết Bàn là
Tuyệt Đối.» Như trên ta đã thấy Niết Bàn chính là Chân Như Bản Thể,
Chân Tâm, Căn Nguyên sinh xuất vũ trụ và cũng là Cùng Đích cho muôn loài
trở về, như vậy Niết Bàn chính là Chân Thể của chúng ta...
2. VẠN PHÁP = HÌNH ẢNH BIẾN THIÊN CỦA CHÂN NHƯ
Ngoài Chân Như
hằng cửu, tế vi, mà chỉ các bậc thượng trí, thượng nhân mới biết, còn có
vạn vật hữu hình sinh sinh, hóa hóa, còn có muôn ngàn trạng thái tâm
hồn, còn có muôn giòng tư tưởng đổi đổi thay thay. Các triết gia Phật
giáo gọi đó là Vạn Pháp. Ngày nay ta còn gọi VẠN PHÁP là HIỆN TƯỢNG.
Nói cách khác,
Vạn Pháp là những gì biến thiên, sinh diệt. Nó bao quát những gì ta hình
dung được, nhận thức được, cảm giác được, kể từ những tâm tư bí ẩn,
những tư tưởng, những hoài bão, cho đến thất tình lục dục, cho đến xác
thân, cho đến muôn loài, muôn vật hữu hình, hữu tướng. Phật giáo gọi
HIỆN TƯỢNG là TƯỚNG và dùng Thập Tượng để bao quát mọi hiện tượng. Thập
Tướng là: 1. Sinh, 2. Lão, 3. Bệnh, 4. Tử, 5. Sắc, 6. Thanh, 7. Hương,
8. Vị, 9. Xúc, 10. Vô Thường. Hoặc theo Niết Bàn Kinh là: 1. Sanh, 2.
Trụ, 3. Hoại, 4. Sắc, 5. Thinh, 6. Hương, 7. Vị, 8. Xúc, 9. Nam, 10. Nữ.
Vạn Pháp chẳng
qua là những trạng thái nhất thời, những hình hiện nhất thời, những biến
hóa nhất thời của Bản thể vô biên. Chúng không có Bản Thể riêng biệt, và
không thể nào vĩnh cửu. Vì thế nói: Chư Pháp Vô Ngã, Chư Hạnh Vô Thường.
Vạn Pháp tuy biến thiên lưu chuyển, nhưng vẫn tuân theo những định luật
vĩnh cửu, cố định như: Tụ, Tán.Biến thiên. Thăng, Trầm. Ly, Hợp. Tiêu,
Tức. Doanh, Hư. Tinh, Tạp. Sinh, Trụ, Hoại, Không. Nhân, Quả. Tuần
Hoàn...
Nếu Chư Pháp là
Vô Ngã, Vô Thường, thì Bản Thể phải là Ngã, là Thường.
Nếu Vạn Pháp là
Uế Tạp, thì Bản thể phải là Thanh Tịnh.
Nếu Vạn Pháp là
Khổ, thì Bản Thể phải là Lạc.
4 chữ Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh như vậy là đã được dùng để chỉ Bản Tâm, Chân Tâm, hay
Niết Bàn.
Phật giáo dạy bỏ
Vô Ngã, Vô Thường, Uế, Khổ để hướng về Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Trong quyển ZEN
and Japanese Culture, Daisetz T. Suzuki, nơi tr. 308, có viết:
All composite
things are impermanent,
They belong to
the realm of birth and death.
When birth and
death is transcended,
Absolute
tranquillity (jaku metsu = nirvana) is realized and blessed are we.
Dịch:
Cái gì
giả hợp cũng đều biến thiên,
Cũng đều
sinh tử triền miên,
Tửù sinh
mà siêu xuất được lên trên,
Mới mong
đạt Niết Bàn, luôn sung sướng...
Câu trên cho thấy
vũ trụ này có 2 phần: 1 phần thời biến thiên, sinh tử. Đó là Luân hồi.
Một phần thời hằng cửu, bất biến, đó là Niết bàn.
Bỏ biến thiên, sinh diệt để trở về bất biến, hằng
cửu, là bổn phận mọi người.
3. CHÂN NHƯ BẢN THỂ LÀM THẾ NÀO MÀ SINH HÓA RA VŨ TRỤ HIỆN TƯỢNG
A. Chân Như duyên khởi.
Thuyết này chủ
trương vạn hữu đều do Một Bản Thể duy nhất, tuyệt đối, là CHÂN NHƯ sinh
xuất ra. Chân Như này đồng thể với Tâm Linh con người, nên cũng có thể
nói: Nhất thiết chúng sinh giai do tâm tạo.
Vũ trụ này có 2
phương diện: Một phương diện vĩnh cửu, bất biến, hay là CHÂN NHƯ MÔN
(tuyệt đối giới, bình đẳng giới).
Một phương diện
biến thiên sinh diệt, hay là SINH DIỆT MÔN (tương đối giới, sai biệt
giới).
B. Nghiệp cảm duyên khởi.
Thuyết này chủ
trương CHÂN NHƯ sinh hóa ra vũ trụ do nghiệp lực (Karma) cảm triệu.
Thuyết Nghiệp Cảm
nếu áp dụng cho quần sinh thì có phần đúng; nhưng nếu áp dụng cho Bản
Thể tuyệt đối, thì không ổn, vì chẳng lẽ Bản thể tuyệt đối còn mắc vòng
duyên nghiệp sao? Ta cũng có thể hiểu là vũ trụ này được sinh hóa ra sau
khi Từ ĐIỆN LỰC đã hình hiện.
C. A Lại Gia duyên khởi.
Long Thọ Bồ Tát
(Nagarjurna) (thế kỷ 2 D.L.) cho rằng: Chân Như là tuyệt đối; Vạn pháp
là tương đối. Tuyệt đối không trực tiếp tạo ra tương đối, mà phải qua
trung gian A Lại Da. A Lại da hay Hàm Tàmg Thức gồm đủ mọi chủng tử của
chúng sinh, của mọi biến hóa chuyển dịch.
Thuyết này cũng
na ná như thuyết Logos hay Logos Spermatikos của Heraclitus (thế kỷ 6
trước C. N.) hay của Plotinus (205-270) bên trời Âu hay như thuyết Vô
Cực sinh Thái Cực của Chu Liêm Khê (1017-1073) thời Tống.
D. Lục Đại duyên khởi.
Phái Chân Ngôn
thì cho rằng: Vạn Hữu này do Phật Tì Lô Giá Na (Vairocana) (Đại Nhật Như
Lai) phân hóa ra. Phật thân Đại Nhật Như Lai gồm Lục Đại (Địa, thủy,
hỏa, phong, không, thức) nên vạn hữu từ tinh cầu đến nhân loại, đến vi
trần, đều gồm đủ Bản Thể của Đại Nhật Như Lai.
Thuyết này cũng
tương đương như huyền thoại ấn Độ giáo: Prajapati hay Purusa phân thân
thành vũ trụ.
E. Pháp giới duyên khởi.
Thuyết này chủ
trương Bản Thể khi Tĩnh thì là Chân Như, khi Động thì là Vạn Hữu. Như
vậy, Bản Thể tức là Hiện Tượng; Hiện tượng tức là thiên biến vạn hóa của
Bản Thể. Bản Thể và Hiện Tượng không thể nào tách rời nhau, như sóng
không tách rời khỏi nước.
4. TƯƠNG QUAN GIỮA BẢN THỂ VÀ HIỆN TƯỢNG.
Khi chúng ta có
cái nhìn phân biệt, ta sẽ thấy: Chân Như thời trường tồn, bất sinh, bất
diệt, tuyệt đối, vừa là Nguyên Nhân, vừa là Cứu Cánh, là lý tưởng, là
thanh tịnh, là Niết Bàn. Vạn Pháp là Vô Thường, là sinh diệt, là khổ ải,
là uế tạp. Chân Như là Không, Vạn Pháp là Sắc.
Chân Như là Vô Vi, Vô Lậu; Vạn Pháp là Hữu Vi, Hữu Lậu, Chân Như là Lý,
Vạn Pháp là Sự. Chân Như là Thực, Vạn pháp là Giả...Chân Như là Bồ Đề,
Vạn Pháp là Khổ não. Chân Như là Niết Bàn, Vạn Pháp là Luân Hồi, v.v...
Nhưng nếu chúng
ta có cái nhìn viên dung, vô phân biệt, ta sẽ thấy Sắc tức thị Không,
Không tức thị Sắc, Phiền Não tức Bồ Đề, Luân Hồi tức Niết Bàn.
Phật Giáo có Tam
Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Thiên Thai Tông gọi Phật Bảo là Bản thể, Pháp
Bảo là Hiện Tượng, Tăng Bảo là Diệu Dụng của Bản Thể và Hiện Tượng.
Như vậy, hiểu
rành Bản Thể và Hiện Tượng tức là trong tay ta nắm được ba vật quí giá
nhất của đất trời.
Thứ Nhất:
Biết mình có Chân Như, Phật Tính tức là biết mình chính là Chân Tâm, là
Phật, đồng hóa với Căn Nguyên vĩnh cửu của đất trời.
Thứ hai:
Biết mình có đủ các hiện tượng biến thiên, tức là nắm được lẽ tiến hóa
của đất trời, nên sẽ luôn luôn sống ảo diệu khinh khoát.
Thứ ba:
Biết mình có đủ cả hai phương diện Biến, Hằng của trời đất, thế là biết
mình có cả vũ trụ trong thân, như vậy sẽ có cả một kho tàng mênh mông
của trời đất, tha hồ dùng không bao giờ hao cạn. Thế tức là «Kho trời
chung, mà vô tận của mình riêng.»
Hiểu được rằng
trong mình có Chân Như Bản thể, tức là biết mình có Pháp Thân. Biết rõ
về các hiện tượng nơi mình, tức là biết mình có Báo Thân. Biết rằng mình
sinh ra đời cốt để độ mình, độ người, tức là biết mình có ứng Thân. Thế
tức là nhờ hiểu rõ Bản thể và Hiện Tượng, ta thấy trong Thân có đủ Tam
Thân Phật.
Biết rằng Niết
Bàn là Bản Thể, là Chân Tâm. biết rằng Hiện Tượng là Vọng Tâm. thì sự
Diệt Ngã để trở về với Chân Tâm tưởng cũng không mấy khó khăn.
Tóm lại, chủ
trương của Phật Giáo chính là: Từ Vọng Ngã nhỏ hẹp, ta sẽ cố phát huy
Đại Ngã mênh mông. Từ sắc thân phàm tục, ta sẽ cố phát huy Pháp Thân
siêu việt. Từ phàm thân dễ bị hủy diệt ta sẽ phát huy Kim Cương Thân bất
khả huỷ diệt. Từ u minh mê vọng của Lục Thức, Lục Trần, ngũ uẩn, ta sẽ
làm bừng sáng lên ngọn đuốc Chân Tâm.
Chữ Diệt Ngã, chữ
Giải Thoát, hiểu cho đứng đắn, sẽ là phá tan mọi hình tướng để
tìm ra Chân Tính (Khiển
tướng chứng
tính); làm lu mờ tan biến mọi nhỏ nhoi,
ti tiện, cho Quang Minh, Chính Đại hiện ra (ẩn
liệt, hiển thắng). Mục đích
tối hậu là khế hợp nhất như với Chân Như Tuyệt Đối, Bản Thể Tuyệt Đối...
Khảo sách vở, ta
thấy gần đây, nhiều nhà nghiên cứu Phật Giáo V. N. đã có nhiều vị bàn về
Thuyết Thiên Địa Vạn vật Đồng Nhất Thể một cách kỹ lưỡng, như Đạo hữu Vũ
Văn Phường, thân sinh của nhà văn Nguyên Phong, như học giả Cao Xuân Huy
miền Bắc, hay như Cụ Mai Thọ Truyền, hay BS Lê Đình Thám, hay Cụ Nguyễn
đăng Thục v.v...
Đạo hữu Vũ Văn
Phường, trong hai tập Tinh Hoa Kinh Hoa Nghiêm, và Tóm lược
Triết lý Kinh Hoa Nghiêm và Bồ Tát Đạo, đã bàn nhiều về triết
lý trên, và trên đây, tôi đã rút ra một số tư tưởng của ông.
Cụ Cao Xuân Huy,
một học giả miền Bắc, đã bàn về Thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể
như sau: «Trong 7 phái Thiền Tông, có một phái gọi là Trực Hiển Tâm Tính
Thông. Nó nêu lên cái nguyên lý Xúc Loại Thị Đạo Nhi Nhậm Tâm, nghĩa là
trong cái gì cũng có Đạo (tức là Phật), trong cỏ cây hoa lá đều có Phật
Tính cả. Do đó muốn tìm Phật, thì không phải tìm đâu xa mà phải tìm ngay
trong mọi vật xung quanh mình, và trong cái Tâm của mình. Phải để cho
cái Tâm của mình thoải mái tự do, thì mới hiểu được Đạo.
«Phái
Xúc Loại Thị Đạo nhi Nhậm Tâm chủ trương Nhất Thiết Thị Chân nghĩa là
cái gì cũng là thật. Do quan niệm trên, mà khi tăng đồ hỏi Phật là gì,
Thánh là gì, thì Viên Chiếu đáp: Muốn biết Phật là gì, chỉ cần nhìn xem
cây cúc dưới giậu trong tiết Trùng Dương hay chim oanh ở đầu cành trong
một ngày xuân ấm áp. Phật và Thánh, xét về bản thể không khác gì nhau
cả. Quan điểm của phái này và Trang Tử có nhiều chỗ đồng nhất.» (Thơ Văn
Lý Trần tr. 290, chú 3). Những ai không biết rằng Đạo lồng trong vạn
vật, mà cứ đi tìm nó ở chỗ xa xôi, huyền bí, đi tìm cái «Huyền Cơ», thì
cũng như người không biết cách bưng mâm nước, chỉ đưa đến chỗ đổ vỡ mà
thôi. (Thơ Văn Lý Trần, tr. 290, chú 4)
Viên Chiếu thiền
sư nói:
Bất thận thủy bàn
kình mãnh khứ,
Nhất tao tha điệt
thối hà chi?
Mâm nước
đầy bưng đi bất cẩn,
Vấp ngã
rồi ân hận được sao?
(Thơ Văn Lý Trần,
267-281)
Không biết lẽ
Thiên địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể, trước hết sẽ không hiểu được tinh hoa
Phật Giáo, sau nữa sẽ không hiểu được Thiền, rồi cứ xoắn xuýt vào các
tiểu tiết, hôn trầm trong những thói dị đoan, thật chẳng khác nào:
Rùa mù soi mãi
vách non,
Ba ba khập khiễng
leo hòn núi cao.
(Manh qui xuyên
thạch bích,
Ba miết thượng
cao sơn)
(Thơ Văn lý Trần,
Viên Chiếu, tr. 274-282)...
Cụ Chánh trí Mai
Thọ Truyền viết trong quyển Pháp Hoa Huyền Nghĩa như sau:
Sự Giác Ngộ của
Phật là Vô Thượng, trí huệ của Phật là vô lượng vô biên, cái thấy biết
của Phật (tri kiến) đã đạt đến mức tuyệt đối. Cái thấy biết đó là gì?
Là «Tất
cả là một, tất cả chúng sinh đều từ PHỔ QUANG MINH TRÍ (nguồn ánh
sáng bao trùm vũ trụ vô biên cũng vừa là trí huệ sáng ngời: Lumière
omniprésente-Intelligence éclairante) mà ra, thì tất cả ánh sáng sẽ trở
về với ánh sáng trí huệ ấy, tức là thành Phật.» (Chánh trí Mai thọ
Truyền, Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Chùa Phật Giáo Việt Nam, tr.30).
...Phật đã đạt
đến chỗ thấy hoàn toàn, cho nên Phật nhận rằng...
«Tất
cả là Một, Một là Tất cả, Tinh thần
và Vật chất là Một, Sắc và Tâm là Một.»
(Ibid. 265)
Cụ Lê Đình Thám,
trong bài Lời nói đầu cho quyển Kinh Lăng Nghiêm, đã cho rằng
Một là Tất Cả Tất
cả là Một, và Một chính là Pháp Giới Tính.
là Tính bản nhiên, là Phật Tính của muôn loài. Chư Phật ra đời chỉ nhằm
một mục đích là dạy bảo chỉ bày cho chúng sinh giác ngộ và thực chứng
Pháp Giới Tính như Phật... (Xem B. S. Lê Đình Thám, Kinh thủ Lăng
Nghiêm, Lời nói đầu)
Cụ Nguyễn Đăng
Thục trong 2 quyển Thiền Học Việt Nam và Thiền Học Trần thái
Tông bàn rất nhiều về Thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể, và lấy
đó làm nền tảng Nho, Thích, Lão, và các đạo trên thế giới (Xem Thiền
Học Trần Thái Tôn nơi tr. 197, 397, 404 v.v..)
Thiền Học Việt
Nam nơi tr. 451 viết: Cái quan niệm về một thực tại linh động vừa một
vừa nhiều, vừa đồng nhất, vừa sai biệt, vừa siêu nhiên vừa hiện thực,
vừa tâm, vừa vật, «Vạn giả Nhất chi tán, Nhất nãi
Vạn chi
tông» nghĩa là vũ trụ hiện tượng sự vật thiên hình vạn trạng khác
nhau là phương diện phóng tán của cái đồng nhất thể, phương diện bản thể
đồng nhất lại là đầu mối gốc nguồn của vũ trụ thiên hình vạn trạng, cái
tư tưởng truyền thống của nhân loại Đông Nam Ái Châu ấy là nền tảng của
tinh thần Tam Giáo, là tinh thần cởi mở, khai triển cho một dân tộc
trưởng thành và tiến hóa chứ không phải là một hệ thống danh lý cố định,
bảo thủ, đóng cửa...
Cụ Đồ Chiểu, điển
hình miền Nam, đã dặn lại đời sau, lấy tinh thần «Tam
Giáo đồng nguyên, Vạn
Pháp nhất
Lý» cố hữu của dân tộc làm triết lý trụ
cốt cơ bản để mở rộng khai phóng đặng thâu thái tinh hoa thế giới...
(Xem Thiền Học Việt Nam, tr. 482-483).
Như vậy ta thấy
hiểu được lẽ Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể là hiểu được Phật Tính, là
hiểu được Phật Giáo...
Vivekananda viết:
đạo Kỳ Na và đạo Phật không lệ thuộc vào Thượng đế, nhưng tư tưởng then
chốt của 2 đạo giáo ấy cũng như chủ trương của mọi đạo giáo, là
biến con người thành Thượng
Đế.
Minh Lạc,
Vũ Văn Phường, Tìm hiểu Kinh Hoa Nghiêm, 1985, Chùa Việt Nam,
1651 So. King St. Seattle WA 98144, tr. 20.
Ib. tr.
22.
Daisetz T.
Suzuki, Zen and Japanese Culture, Bollingen Series LXIV, 1993,
p. 308.
Minh Đức
Thanh Lương, Tóm lược Triết Lý kinh Hoa Nghiêm và Bồ Tát Đạo,
Chùa Việt Nam Seattle, 1986. tr. 79-80.
Ibidem,
tr. 37–38.
Ib, tr.
59.
Minh Lạc,
Vũ văn Phường, Tìm hiểu kinh Hoa Nghiêm, tr. 30–31.
The
Buddhists or the Jains do not depend upon God, but the whole force of
their religion is directed to the great central truth in every religion,
to evolve a God out of man.– Swami Vivekananda, Selected Speeches and
Writings, Edited and with an Introduction by Bimal Prasad, Vikas
paperbacks, 1994, p. 15
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
|